LỜI CAM ĐOAN .i
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT . v
DANH MỤC CÁC BẢNG .vi
DANH MỤC CÁC HÌNH . vii
MỞ ĐẦU . 1
CHưƠNG 1: CƠ SỞ PHưƠNG PHÁP LUẬN CHẤT LưỢNG VÀ
PHÂN TÍCH CHẤT LưỢNG ĐÀO TẠO. 3
1.1.Một số khái niệm cơ bản về chất lượng và chất lượng đào tạo . 3
1.1.1.Những quan điểm về chất lượng . 3
1.1.2.Khái niệm đào tạo, chất lượng đào tạo và đặc điểm đào tạo nghề . 4
1.1.2.1.Đào tạo . 4
1.1.2.2.Các quan điểm về chất lượng đào tạo . 5
1.1.2.3.Đặc điểm đào tạo nghề . 6
1.2.Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo và quản lý chất lượng . 8
1.2.1.Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo. 8
1.2.2.Các mô hình quản lý chất lượng đào tạo. 11
1.2.2.1.Mô hình BS 5750/ISO 9000 .11
1.2.2.2.Quản lý chất lượng tổng thể (TQM – Total Quality Management).11
1.2.2.3.Mô hình các yếu tố tổ chức.13
1.3.Đánh giá chất lượng đào tạo . 13
1.3.1.Mục đích của đánh giá chất lượng đào tạo. 13
1.3.2.Các quan điểm đánh giá chất lượng đào tạo. 14
1.4.Phương pháp đánh giá. 14
1.4.1.Đánh giá điều kiện đảm bảo chất lượng. 14
1.4.2.Khảo sát sự hài lòng của người học. 15
1.4.2.1.Những nguyên tắc chủ yếu khảo sát về sự hài lòng.15
114 trang |
Chia sẻ: lanphuong92 | Lượt xem: 553 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phân tích và đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nghề của trường cao đẳng nghề dầu khí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tại Trường CĐN Dầu khí mới chỉ đạt gần 50% thời gian học. Lý do
thời gian học tập tại trường ngắn (24 tháng đối với hệ TCN và 36 tháng đối với
hệ CĐN), hàng năm mỗi nghề có từ 2-4 lớp, các lớp gần như học các môn học
song song nhau. Mặc dù nhà trường đã đầu tư cơ sở vật chất cho các xưởng thực
hành với những trang thiết bị phục vụ khá tốt cho những giờ thực hành nhưng
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
Lương Trung Thành Khóa 2010-2012
44
chưa đủ về số lượng. Nhà trường chưa xây dựng được xưởng thực tập cho mỗi
nghề: nghề điện công nghiệp và sửa chữa thiết bị tự động hóa còn thực hành
chung xưởng điện tử cơ bản. Xưởng thực tập của trường dành cho mỗi nghề
chưa đủ để đáp ứng nhu cầu thực tập với số lượng lớn, mỗi tiết thực tập số lượng
thiết bị trong các xưởng chỉ đủ để khoảng 15-20 học sinh thực tập. Mỗi lớp
thường được tổ chức chia làm hai ca để thực tập. Khi các lớp cùng thực tập trong
khoảng thời gian ngắn trường sắp xếp xen kẽ lịch thực tập cho các lớp. Vì thế,
mỗi lớp sẽ không đủ thời gian để thực tập theo đúng số giờ chuẩn quy định.
Hằng năm nhà trường luôn xin kinh phí của Tập đoàn để đầu tư thiết bị thực
hành cho các xưởng thực hành, tuy nhiên vẫn chưa thể đáp ứng được hết nhu cầu
đào tạo ngày càng cao về chất lượng cũng như số lượng của học sinh.
Nói tóm lại, trong nội dung chương trình đào tạo của Trường CĐN Dầu khí thì
số giờ thực hành thực tế diễn ra còn thấp hơn so với yêu cầu. Có hai nguyên nhân
cơ bản dẫn đến thực trạng này, đó là:
Giáo viên chưa theo sát học sinh trong quá trình thực hành
Cơ sở vật chất, trang thiết bị chưa đủ để đáp ứng được yêu cầu thực hành
cho học sinh.
Để giải quyết được vấn đề này thì có hai giải pháp chủ yếu, đó là:
Nâng cao ý thức của giáo viên trong quá trình dạy học, đòi hỏi giáo viên
phải thực hiện đúng nhiệm vụ, chương trình đã đề ra, phải có sự kiểm tra giám sát
để đảm bảo giáo viên không bỏ lớp, không có tình trạng để học sinh tự quản;
Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, mở rộng các xưởng thực tập để học sinh
có đủ máy móc, thiết bị để thực tập với thời gian đúng quy định.
b) Phân tích trình độ đội ngũ giáo viên:
Hiện nay, Nhà trường có 05 khoa, các khoa có nhiệm vụ tổ chức quá trình đào
tạo, giảng dạy và các hoạt động giáo dục của các nghề khác nhau theo chương trình
kế hoạch giảng dạy của nhà trường; quản lý giáo viên, học sinh; tổ chức biên soạn
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
Lương Trung Thành Khóa 2010-2012
45
chương trình, giáo trình môn học của khoa; thực hiện việc bồi dưỡng nâng cao trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên. Tính đến cuối tháng 12 năm 2012, số
lượng và trình độ giáo viên của Nhà Trường như sau:
Bảng 2.5: Số lượng và trình độ Giáo viên của Nhà Trường
TT Tổ bộ môn
Tổng
số
Trình độ đào tạo
Tiến sỹ Thạc sĩ Đại học Cao đẳng
Trình độ
khác
SL % SL % SL % SL % SL %
1
TBM Môn học cơ
bản
7 1 1 5
2 TBM Toán tin 6 6
3 TBM Anh văn 8 5 3
4
TBM An toàn môi
trường
16 3 13
5 TBM Cơ khí 33 6 23 4
6 TBM Hàn 7 4 3
7
TBM Công nghệ
Hóa
16 5 11
8
TBM Khoan khai
thác
7 4 3
9
TBM Kỹ thuật
điện
21 4 17
10 TBM Tự động hóa 20 4 14 2
11 TBM Kỹ thuật lặn 5 1 2 2
Tổng cộng 146 1 0.68 33 22.6 101 69.2 4 2.74 7 4.79
(Nguồn: Phòng Đào tạo - Trường Cao đẳng Nghề Dầu khí)
Trình độ của giáo viên hiện nay là: 92% tốt nghiệp đại học/ trên đại học các
chuyên ngành, 7,4% giáo viên có trình độ Cao đẳng và Trung cấp là các giáo viên
có tay nghề cao giảng dạy các môn học thực hành, 100% giáo viên đã hoàn thành
chương trình sư phạm nghề và có 33 người có bằng thạc sỹ, 26 người đang đào tạo
bằng thạc sĩ, 1 tiến sĩ và 3 người đang đào tạo tiến sĩ.
Thực hiện chủ trương của Đảng và nhà nước cũng như phương châm của
Tập đoàn dầu khí Việt Nam xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
và cán bộ quản lý giáo dục, hàng năm nhà trường đều xây dựng kế hoạch đào
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
Lương Trung Thành Khóa 2010-2012
46
tạo, bồi dưỡng giáo viên về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và trình độ lý luận
chính trị thông qua các lớp tập huấn do Sở Lao động Thương binh - Xã hội tổ
chức. Ngoài ra, vì tính đặc trưng của môi trường làm việc của học sinh sau khi ra
trường, trường còn tự tổ chức các lớp nâng cao trình độ chuyên môn cho giáo
viên trong trường. Vì vậy trình độ chuyên môn cũng như tay nghề thực tế của
giáo viên trong Trường đã được nâng lên đáng kể.
Qua bảng 2.5 ta dễ dàng nhận thấy rằng tỷ lệ giáo viên có trình độ thạc sĩ khá
cao (là 22,6%), còn lại 70% số giáo viên có trình độ đại học. Trong số 33 giáo viên
là thạc sĩ thì phân bố đều ở các Tổ bộ môn. Trong luật dạy nghề nêu rõ: giáo viên
dạy phần lý thuyết nghề phải có trình độ Đại học trở lên, giáo viên dạy phần thực
hành có trình độ cao đẳng trở lên hoặc là nghệ nhân của nghề đó. Lực lượng giáo
viên của trường đã đạt yêu cầu theo luật dạy nghề, thậm chí có thể nói là giáo viên
giảng dạy với trình độ cao hơn so với yêu cầu đặt ra.
Ngoài giờ tham gia giảng dạy, các giáo viên còn góp phần không nhỏ vào việc
thực hiện nhiệm vụ và hoàn thành chương trình đào tạo của Nhà trường. Lực lượng
giáo viên trong trường tuy nhiều về số lượng nhưng một số giáo viên kiêm nhiệm
công tác quản lý tại các phòng/ khoa nên không tham gia giảng dạy thường xuyên.
Mỗi tổ bộ môn đều có một vài giáo viên làm công tác theo dõi tổng hợp, quản lý
cho tổ bộ môn. Bên cạnh đó, cũng có một số giáo viên thường xuyên làm công tác
dịch vụ, quản lý các lớp đào tạo tiền tuyển dụng hoặc các lớp ngắn hạn của khoa. Số
giáo viên này sẽ ít tham gia giảng dạy. Khi các Khoa được phân công nhiệm vụ đào
tạo những lớp tái đào tạo, đào tạo tiền tuyển dụng hoặc làm công tác dịch vụ thì số
giáo viên tham gia dạy CĐN và hệ TCN còn rất ít. Các giáo viên phải luân phiên
làm công tác dịch vụ, tham gia giảng dạy các lớp tiền tuyển dụng. Những giáo viên
trẻ chưa nhiều kinh nghiệm thực tế nên thường được phân công phụ trách ít môn,
thường là những môn lý thuyết. Ngược lại, đối với ngành Khoan khai thác, do nhu
cầu không nhiều nên không phải năm nào cũng mở lớp, thường là 2-3 khóa có một
khóa mở lớp ngành này, nên giáo viên ngành Khoan khai thác chỉ đảm nhận một số
môn của ngành Vận hành thiết bị chế biến dầu khí. Do thiếu giáo viên nên mỗi giáo
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
Lương Trung Thành Khóa 2010-2012
47
viên của khoa Điện – Tự động hóa và khoa Cơ khí đều tham gia dạy ít nhất là hai
môn, có giáo viên giảng tới bốn môn trong một học kỳ. Nhằm đảm bảo chất lượng
giảng dạy, các khoa không phân công cho giáo viên quá bốn môn /học kỳ. Nếu
không đủ giáo viên khoa sẽ đề xuất thỉnh giảng giáo viên từ trường khác.
Nói đến chất lượng đào tạo của một trường, người ta thường nghĩ ngay đến
chất lượng đội ngũ giáo viên ở trường đó. Chất lượng đội ngũ giáo viên được thể
hiện qua hai mặt chủ yếu là trình độ chuyên môn và phương pháp sư phạm. Trình
độ chuyên môn và phương pháp sư phạm được ví như hai chân của một người giáo
viên, nếu thiếu một trong hai mặt này đều ảnh hưởng tới chất lượng đội ngũ giáo
viên.
- Phân tích trình độ chuyên môn của đội ngũ giáo viên:
Trình độ chuyên môn của đội ngũ giáo viên phụ thuộc vào các yếu tố sau đây:
• Về mặt tích lũy kiến thức: Do tỷ lệ giáo viên trẻ (<35 tuổi) trong Trường cao,
chiếm 80% tổng số giáo viên trong trường. Hơn nữa, toàn bộ đội ngũ giáo viên trẻ
đều có bằng Đại học và đang theo học cao học. Phần lớn đội ngũ giáo viên trẻ đều
có trình độ về tin học, ngoại ngữ từ B trở nên nên rất thuận lợi trong việc nghiên
cứu, tiếp cận với các tài liệu, phương tiện hiện đại .
Còn một bộ phận giáo viên có thâm niên giảng dạy cao nhưng gặp nhiều khó
khăn trong việc nghiên cứu và tiếp cận với các phương tiện hiện đại như máy tính,
máy chiếu đa năng, ngoại ngữ nên chưa chủ động trong việc biên soạn, chỉnh sửa
bài giảng. Hơn nữa, trong điều kiện khoa học công nghệ phát triển mạnh như hiện
nay mà một số giáo viên không chịu tích lũy kiến thức, không thường xuyên học
hỏi và đổi mới phương pháp giảng dạy, bằng lòng với những gì mình có nên đã ảnh
hưởng lớn tới chất lượng đào tạo.
Mặc dù nhà trường đã tạo điều kiện thuận lợi để các giáo viên tham gia ôn và
thi cao học như hỗ trợ vật chất, tạo điều kiện về thời gian nhưng tính chung trong
toàn trường thì số lượng giáo viên tham gia học tập nâng cao trình độ còn thấp bởi
các lý do sau:
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
Lương Trung Thành Khóa 2010-2012
48
Đại đa số các giáo viên trong trường là giáo viên trẻ, do hoàn cảnh gia đình
còn gặp nhiều khó khăn như đang nuôi con nhỏ, hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên
chưa có điều kiện để tham gia ôn và thi cao học.
Một bộ phận giáo viên khác có điều kiện để theo học cao học đã tham gia
ôn và thi cao học nhưng chưa đỗ do tuổi cao nên gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp
nhận kiến thức mới, nhất là môn Ngoại ngữ. Lực lượng giáo viên có tuổi đời trên 35
tuổi với nhiều năm giảng dạy tại trường, cũng như có nhiều kinh nghiệm thực tế khi
tham gia làm dịch vụ chiếm khoảng 20% số lượng giáo viên toàn trường, phân bổ
khá đều ở các khoa. Số lượng giáo viên này khó tham gia theo học thạc sĩ hoặc chưa
theo học được với nhiều lý do như: gặp nhiều khó khăn với môn ngoai ngữ, chưa
sắp xếp được thời gian và công việc để theo học Nhà trường đã tổ chức các khóa
học anh văn nhằm nâng cao trình độ ngoại ngữ của giáo viên và cán bộ công nhân
viên trong trường vào buổi tối. Ngoài ra, nhà trường cũng tạo điều kiện cho giáo
viên nâng cao trình độ chuyên môn bằng cách cách hỗ trợ học phí, sắp xếp thời gian
giảng dạy, chế độ ưu đãi đối với những giáo viên có trình độ chuyên môn cao. Tuy
nhiên những khóa học ngoại ngữ chưa thường xuyên 1 khóa/năm nên chưa phát huy
hết tác dụng, chưa thể giúp giáo viên nâng cao trình độ ngoại ngữ của mình.
Một số ít giáo viên còn có tư tưởng an phận thủ thường, ngại tham gia ôn và
thi cao học. Trong trường, số giáo viên nữ chiếm khoảng 10%, đa số dưới 35 tuổi
nhưng đều đã có gia đình, các giáo viên này thường có suy nghĩ coi trọng gia đình,
với trình độ kỹ sư đã đủ dạy Hệ CĐN và TCN nên chưa giành nhiều thời gian và
quyết tâm để theo học thạc sĩ.
Một phần không thể thiếu được trong bài giảng của mỗi giáo viên là phần vận
dụng thực tế cho học sinh nhưng kiến thức thực tế của các giáo viên lại hạn chế bởi
các lý do sau:
+ Các giáo viên trẻ về công tác tại trường đều mới tốt nghiệp Đại học mà chưa
từng đi làm tại bất kỳ doanh nghiệp nào chiếm 40% tổng số giáo viên toàn trường.
Đây là số giáo viên có nhiệt huyết, có thời gian nhưng còn thiếu kinh nghiệm giảng
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
Lương Trung Thành Khóa 2010-2012
49
dạy và kiến thức thực tế. Hàng năm, nhà trường luôn tổ chức lớp bồi dưỡng kiến
thức sư phạm nhằm giúp giáo viên tiếp cận với những phương pháp giảng dạy mới,
có dịp để trao đổi học hỏi nâng cao, cải tiến phương pháp giảng dạy. Ở các khoa,
khi tham gia các hoạt động dịch vụ cho các đơn vị sản xuất khác, tạo điều kiện cho
các giáo viên trẻ tham gia cạnh các giáo viên có kinh nghiệm để học hỏi, tích lũy
kinh nghiệm thực tế.
+ Một số giáo viên có thâm niên cao nhưng kiến thức thực tế cũng không
nhiều do không điều kiện tiếp xúc với môi trường làm việc tại các doanh nghiệp bên
ngoài. Những giáo viên này rất ít, chiếm khoảng 5%, chủ yếu tập trung ở khoa Dầu
khí. Do đặc trưng công việc của ngành nghề thuộc khoa Dầu khí quản lý (như vận
hành thiết bị chế biến dầu khí, vận hành thiết bị khoan khai thác dầu khí, vận hành
nhà máy lọc dầu) tiếp xúc với những thiết bị đắt tiền và thường không sử dụng các
dịch vụ bên ngoài công ty, vì thế giáo viên của trường không có điều kiện để học
hỏi, tích lũy kinh nghiệm thực tế. Số kiến thức thực tế ít ỏi có được là do các giáo
viên tìm hiểu qua báo chí, Internet, qua các đợt tập huấn, hội thảo.
• Về công tác nghiên cứu khoa học:
Công tác nghiên cứu khoa học của giáo viên trong những năm vừa qua luôn
được Nhà trường quan tâm và khuyến khích thực hiện. Hàng năm Nhà trường đều
tổ chức phong trào thi đua phát huy sáng kiến, cải tiến công tác quản lý và giảng
dạy, đồng thời cứ đầu năm học mỗi tổ bộ môn được khuyến khích đăng ký đề tài
nghiên cứu khoa học và đến cuối năm Hội đồng Khoa học Nhà trường đánh giá và
nghiệm thu. Như vậy, mỗi năm đều có một đề tài khoa học được nghiệm thu và đưa
vào ứng dụng tại trường. Công việc này có ưu điểm là được tổ chức đều đặn hàng
năm đã tạo nên tâm lý chủ động trong khối giáo viên. Tuy nhiên, do sức ỳ lớn ở hầu
hết các giáo viên nên phạm vi và lĩnh vực nghiên cứu của các đề tài còn hẹp, mới
chỉ dừng lại ở việc biên soạn, chỉnh sửa Đề cương bài giảng, chỉnh sửa giáo trình
môn học.
Mặc dù công tác nghiên cứu khoa học được triển khai đều đặn hàng năm
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
Lương Trung Thành Khóa 2010-2012
50
nhưng số lượng đề tài cấp Nhà nước và cấp Bộ còn rất ít mà chủ yếu vẫn là đề tài
nghiên cứu cấp Trường. Tuy nhiên tỉ lệ đề tài được báo cáo chưa nhiều về số lượng
(mỗi năm khoảng 2-3 đề tài), chất lượng chưa cao, chưa tạo nên bước ngoặt trong
hoạt động giảng dạy tại trường. Lý do của tình trạng này là do phần lớn giáo viên
của trường chưa coi trọng công tác nghiên cứu khoa học, chưa dành thời gian và
nhiệt huyết để tìm tòi, nghiên cứu cũng như áp dụng những đề tài đã báo cáo vào
thực tiễn. Có những đề tài được đánh giá cao nhưng khi triển khai áp dụng thực tế
rất chậm chạm, chưa phát huy vai trò của công tác nghiên cứu khoa học.
Một số đề tài cấp trường về đổi mới phương pháp giảng dạy và phương pháp
ra đề thi, chấm thi đã được áp dụng nhưng chưa đem lại hiệu quả như mong muốn
bởi khi áp dụng vào thực tiễn lại gặp một số khó khăn như phương tiện giảng dạy
hoặc trang thiết bị cần thiết không đủ. Áp dụng được đề tài này là một bước đột phá
lớn đòi hỏi Nhà trường phải dành nguồn kinh phí đáng kể cho công tác nghiên cứu
khoa học và phải thay đổi công tác quản lý đối với giáo viên và học sinh.
- Phân tích năng lực sư phạm của đội ngũ giáo viên:
Đây là vấn đề quan trọng được toàn ngành nói chung và Nhà trường nói riêng
quan tâm. Với tinh thần thường xuyên nghiên cứu, đổi mới phương pháp giảng dạy
theo hướng tích cực, lấy người học làm trung tâm, Nhà trường đã chỉ đạo, tổ chức
thực hiện, khuyến khích động viên đội ngũ giáo viên tham gia hoạt động này. Tuy
nhiên do 80% đội ngũ giáo viên trong trường là giáo viên trẻ mặc dù được đào tạo
cơ bản song lại gặp trở ngại lớn về phương pháp sư phạm. Trong số các giáo viên
trẻ thì phần lớn mới chỉ tham gia học lớp bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm bậc 2, sư
phạm nghề. Đây là một trở ngại lớn cho việc truyền tải kiến thức tới học sinh.
Trước tình hình trên, trong mấy năm gần đây, Nhà trường đã tập trung giải quyết
một số vấn đề sau:
Tham gia hội thảo về các phương pháp giảng dạy và đổi mới phương pháp
giảng dạy.
Tập huấn về phương pháp dạy học tích cực, phương pháp xây dựng ngân
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
Lương Trung Thành Khóa 2010-2012
51
hàng đề thi, đáp án thi.
Tăng cường trang thiết bị phục vụ giảng dạy như máy chiếu đa năng, phòng
thực hành máy tính, giáo cụ trực quan, mô hình học tập.
Đội ngũ giáo viên cũng đã được quan tâm học tập bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ, năng lực sư phạm phần lớn đạt chuẩn, có phẩm chất chính trị, đạo đức,
yêu nghề. Hàng năm nhà trường luôn phát động các đợt hội giảng cấp trường được
100% giáo viên hưởng ứng tích cực tham gia. Nhà trường đã có giáo viên đạt giải
Nhất, Nhì, Ba toàn quốc và nhiều giáo viên đạt giải trong các đợt thi giáo viên giỏi
do Tỉnh tổ chức.
Trên đây là những điểm nhấn đáng chú ý của nhà trường. Tuy nhiên, nhà
trường còn một số điểm còn hạn chế. Giáo viên trong trường ngoài giờ lên lớp còn
tham gia nhiều công việc tại khoa, nên thời gian đầu tư cho bài giảng ít. Dù vậy, chế
độ lương của giáo viên trong trường so với các đơn vị trong ngành khác còn chưa
bằng. Vì thế, sau một thời gian công tác tại trường, một số giáo viên vì các lý do
khác nhau lại chuyển đi đơn vị khác, số lượng giáo viên hàng năm tuyển về trường
đa số là giáo viên trẻ chưa theo kịp tốc độ tăng về quy mô học sinh.
Qua những đánh giá về đội ngũ giáo viên của Nhà trường, tác giả có một số
nhận xét như sau:
* Ưu điểm:
- Số lượng giáo viên đủ về số lượng và có trình độ cao hơn yêu cầu theo luật
dạy nghề, tỷ lệ giáo viên có tuổi đời trẻ (dưới 35 tuổi) chiếm tỷ lệ cao 80%. Đây
chính là một trong những yếu tố để đội ngũ giáo viên cống hiến sức trẻ, sự nhiệt
tình trong sự nghiệp Trồng người.
- Đội ngũ giáo viên không ngừng bồi dưỡng, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ
chuyên môn đáp ứng về chất lượng của đầu ra người lao động.
* Nhược điểm:
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
Lương Trung Thành Khóa 2010-2012
52
- Đa số giáo viên Nhà trường đều trẻ, thâm niên giảng dạy ít nên năng lực sư
phạm còn hạn chế về kinh nghiệm, khả năng, phương pháp thu hút người học vào
nội dung bài giảng chưa cao.
- Mặc dù, giáo viên đủ về số lượng nhưng một số giáo viên phải tham gia vào
công tác dịch vụ của Nhà trường nên nhiều giáo viên phải dạy nhiều môn, không có
điều kiện nghiên cứu sâu nội dung bài giảng, hay những phương pháp giảng dạy
phù hợp, hiệu quả cho từng bộ môn.
- Hơn nữa, giáo viên chậm đổi mới phương pháp giảng dạy làm người học
không chủ động tiếp thu kiến thức, thụ động phụ thuộc vào giáo viên nên ảnh
hưởng không nhỏ đến chất lượng của hoạt động đào tạo Nhà trường.
- Việc nghiên cứu khoa học của giáo viên còn hạn chế. Các sáng kiến kinh
nghiệp, đề tài khoa học của giáo viên qua các năm học chủ yếu tập trung vào nghiên
cứu nội dung phương pháp giảng dạy, áp dụng vào thực tiễn chưa được chú ý.
Chính vì vậy, gây phản ứng cho giáo viên, làm để đủ điều kiện đánh giá hoạt động
chuyên môn của mỗi cá nhân cuối mỗi năm học, làm để chống đối.
c) Phân tích về cơ sở vật chất, trang thiết bị giảng dạy trong Trường:
Trong những năm gần đây, Trường CĐN Dầu khí đã từng bước nâng cấp
trường, lớp, thư viện, phòng thực hành, trang thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập
theo hướng chuẩn hóa và hiện đại hóa phục vụ yêu cầu ngày càng cao của giáo dục
toàn diện, phục vụ công tác đổi mới phương pháp dạy và học của giáo viên và học
sinh. Từ năm 2009, Nhà trường đưa vào sử dụng tòa nhà 9 tầng làm khu phòng làm
việc, phòng thí nghiệm, thư viện và phòng học tại Trụ sở Vũng Tàu. Nhưng trên thực
tế, tất cả các phòng học tại Khu Nhà 9 tầng - Trụ sở Vũng Tàu chỉ sử dụng cho các
lớp ngắn hạn, các lớp tái đào tạo, đào tạo tiền tuyển dụng. Học sinh hệ CĐN và
TCN được bố trí học tại Khu nhà 2 tầng tại Vũng Tàu và Cơ sở Bà Rịa được xây
dựng từ năm 1979.
Với khuôn viên rộng, gồm trụ sở chính tại Vũng Tàu và cơ sở Bà Rịa của
Trường có đủ phòng học cho học sinh mà vẫn có được không gian thoáng mát tạo
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
Lương Trung Thành Khóa 2010-2012
53
tâm lý tốt cho các bộ phận làm việc trong trường.
Ngày 14 tháng 12 năm 2012, Nhà trường đã khởi công xây dựng dự án nhà
học, phòng làm việc 9 tầng tại Cơ sở Bà Rịa và dự kiến sẽ khánh thành, đưa vào sử
dụng vào ngày 20/11/2013. Dự án bao gồm: 61 phòng học lý thuyết được trang bị
đầy đủ thiết bị phục vụ dạy học như: máy chiếu, hệ thống âm thanh giảng dạy và 01
hội trường lớn 400 chỗ ngồi phục vụ hoạt động văn nghệ của Học sinh – sinh viên.
Sau khi dự án này đưa vào sử dụng, cơ sở vật chất phục vụ cho đào tạo Hệ CĐN và
TCN sẽ được cải thiện đáng kể.
Bảng 2.6: Cơ sở vật chất của Nhà Trường thống kê đến năm 2012
TT Nội dung ĐVT
Số
lượng
Ghi chú
I.
Diện tích đất đai cơ sở đào tạo quản
lý sử dụng
ha 9.87
II Số cơ sở đào tạo cơ sở 3
III Diện tích đất xây dựng m2 11.200
IV Giảng đường/phòng học
1 Phòng học phòng 101
2 Diện tích m2 6.814
V Diện tích hội trường m2 3.000
VI Phòng máy tính
1 Diện tích m2 176 (2 phòng)
2 Máy tính sử dụng được máy 60
3 Máy tính nối mạng ADSL máy 60
VII Phòng học ngoại ngữ
Sử dụng chung
với phòng học
1 Số phòng học phòng
2 Diện tích m2
3
Thiết bị đào tạo ngoại ngữ chuyên
dùng
thiết bị
Máy catsetts,
video, projectors
VIII Thư viện
1 Diện tích m2 484
2 Số đầu sách quyển 2.000
IX Phòng thí nghiệm
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
Lương Trung Thành Khóa 2010-2012
54
TT Nội dung ĐVT
Số
lượng
Ghi chú
1 Diện tích m2 942
2 Thiết bị thí nghiệm chuyên dùng thiết bị - Thí nghiệm về lĩnh vực hóa
dầu;
- Thí nghiệm về điện và tự
động hóa;
- Phòng mô hình mô phỏng;
- Thí nghiệm dung dịch
khoan dầu khí
X Xưởng thực tập, thực hành
1 Diện tích m2 3020
2 Thiết bị thực hành chuyên dùng thiết bị Xưởng Hàn, Động cơ máy
nén, xưởng cơ khí, xưởng
van, máy bơm, xưởng
NDT, xưởng điện, xưởng
tự động hóa, hiệu chuẩn
hiệu chỉnh thiết bị đo
lường, Tháp thực tập lặn,
thiết bị lặn, các phòng mô
hình Simulators về khoan
dầu khí, vận hành chế biến
dầu khí, vận hành nhà máy
điện, điều khiển DCS3000.
XI Ký túc xá
1 Số sinh viên ở trong KTX SV 800
2 Diện tích m2 8.249
3 Số phòng phòng 176
4 Diện tích bình quân/sinh viên m2 5.3
XII
Diện tích nhà ăn sinh viên thuộc cơ
sở đào tạo quản lý
m2 1.400
XIII Diện tích nhà văn hóa m2 500
XIV Diện tích bể bơi m2 450
XV Diện tích sân vận động m2 2.200
- Đánh giá hiệu quả của việc quản lý và sử dụng trang thiết bị:
Dưới đây là kết quả lấy phiếu điều tra đánh giá của học sinh và toàn thể cán
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
Lương Trung Thành Khóa 2010-2012
55
Tốt
Tương đối
tốt
Bình
thường
Kém
1
Mức độ đáp ứng của số lượng, diện
tích các phòng học
22 36 29 13
2
Mức độ đáp ứng trang bị các phương
tiện phục vụ dạy và học ( như máy
chiếu, màn chiếu, loa tăng âm..)
10 24 33 33
3
Mức độ đáp ứng trang bị các phương
tiện và thiết bị thực hành và thí nghiệm
môn học
15 27 32 26
4
Mức độ đáp ứng chất lượng trang
thiết bị phục vụ dạy và học
18 40 32 10
5 Mức độ đáp ứng diện tích thư viện 25 39 25 11
6 Cách thức sắp xếp, bố trí thư viện 37 42 15 6
7
Mức độ đầy đủ của giáo trình, tài liệu
tham khảo cho người học
34 40 18 8
8 Thái độ phục vụ của cán bộ thư viện 38 24 24 14
STT Nội dung đánh giá
Mức độ đánh giá (%)
bộ, giáo viên trong trường về hiệu quả của việc quản lý và sử dụng các trang thiết bị
trong Trường.
Bảng 2.7: Kết quả điều tra đánh giá về hiệu quả của việc quản lý và sử dụng
các trang thiết bị trong trường
(Nguồn: Kết quả điều tra thực tế - Phụ lục 03)
Qua bảng 2.7 tổng hợp các ý kiến đánh giá của cán bộ, giáo viên và học sinh cho
thấy:
- Hiện nay, số lượng phòng học lý thuyết cũng như phòng thực hành của
các ngành đều mới được sửa chữa nên đáp ứng được yêu cầu của hầu hết cán bộ,
giáo viên và học sinh theo học, cụ thể: đối với phòng học lý thuyết đạt 1,5m2/học
sinh, đối với phòng thực hành các nghề đào tạo đạt 2,5m2/học sinh. Trong khi
diện tích tiêu chuẩn đối với phòng học lý thuyết là 1,45-1,5m2/học sinh còn đối
với phòng thực hành tin học là 2,0-2,5m2. Tuy nhiên, điều kiện các phòng học
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
Lương Trung Thành Khóa 2010-2012
56
còn chưa đáp ứng tốt nhu cầu học tập của học sinh. Đặc biệt là những phòng học
thuộc cơ sở Bà Rịa của Trường, 10/19 phòng học còn nóng, gây ảnh hưởng đến
chất lượng học tập của học sinh.
- Về trang thiết bị phục vụ giảng dạy: có đến 40% ý kiến đánh giá mới chỉ đạt
“Tương đối tốt”. Hiện nay, các trang thiết bị phục vụ dạy và học trên lớp của giáo
viên là hầu như không có, trong 42 phòng học lý thuyết (Trụ sở Vũng Tàu 23 phòng
và Cơ sở Bà Rịa có 19 phòng) phục vụ cho đào tạo Hệ CĐN và TCN thì mới chỉ có
02 phòng có hệ thống loa và âm thanh và chỉ sử dụng cho một số môn học cơ sở
ghép hai lớp học chung như: Chính trị, Pháp luật, Tổ chức sản xuất.
Cả trường mới chỉ có có 23 máy chiếu đa năng và không có quy định môn học
nào được sử dụng máy chiếu và môn nào không. Ngoài ra, máy chiếu được quản lý
tập trung tại phòng Tổ chức - Hành chính, khi đến giờ học Học sinh phải mượn máy
chiếu và trả lại khi kết thúc môn học. Do không đủ máy chiếu cho tất cả các phòng
học nên khi đến giờ học, có lớp mượn được máy chiếu và có lớp không mượn được
nên ảnh hưởng đến chất lượng bài giảng của Giáo viên do không thể cho Học sinh
quan sát được các nguyên lý hay hình ảnh mô phỏng.
Các phương tiện khác thì tùy theo đặc thù mỗi môn học mà giáo viên tự trang
bị cho bản thân. Hệ thống phòng thí nghiệm, phòng mô hình của các khoa được đầu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 000000271584_2208_1951661.pdf