LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC VIẾT TẮT
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU .1
CHưƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM, TÀI SẢN
BẢO ĐẢM VÀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY TẠI CÁC TỔ CHỨC
TÍN DỤNG.5
1.1. Tổng quan về các biện pháp bảo đảm trong hoạt động tín dụng.5
1.1.1. Khái niệm các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động
tín dụng .5
1.1.2. Phân loại và đặc điểm của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
trong hoạt động tín dụng.7
1.1.3. Các yêu cầu thực hiện biện pháp bảo đảm trong hoạt động tín dụng.9
1.2. Khái niệm, đặc điểm pháp lý và phân loại tài sản bảo đảm tiền vay tại
các tổ chức tín dụng.14
1.2.1. Khái niệm về tài sản bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng .14
1.2.2 Đặc điểm pháp lý của tài sản bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng
.16
1.2.3. Phân loại tài sản bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng.18
1.3. Khái niệm, đặc điểm pháp lý và nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm khoản
vay tại các tổ chức tín dụng .23
1.3.1. Khái niệm xử lý tài sản bảo đảm khoản vay tại các tổ chức tín dụng .23
1.3.2. Đặc điểm của xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng.26
1.3.3. Nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay các tổ chức tín dụng .27
Kết luận Chương 1 .31
CHưƠNG 2 PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY TẠI
CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH QUẢNG
NINH .32
2.1. Pháp luật xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng.32
104 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 25/02/2022 | Lượt xem: 479 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Pháp luật về xử lý tài sản đảm bảo tiền vay tại các tổ chức tín dụng và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ận bảo đảm và bên bảo đảm. Vì vậy, các quyền và nghĩa vụ của bên thứ ba trong
quá trình xủ lý tài sản bảo đảm chủ yếu đến từ các quyền, nghĩa vụ của bên bảo đảm
và bên nhận bảo đảm.
2.1.5. Thứ tự thanh toán thu hồi nợ từ việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay
tại các tổ chức tín dụng
Số tiền có được từ việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp được thanh toán theo thứ
tự ưu tiên theo thứ tự sau đây:
(a) Chi phí bảo quản, thu giữ và xử lý tài sản cầm cố, thế chấp.
(b) Theo thỏa thuận của các bên. Các bên được nhận tiền thanh toán có thể
thỏa thuận thứ tự được ưu tiên thanh toán. Trường hợp thế quyền trong giao dịch
42
bảo đảm thì bên thế quyền chỉ được ưu tiên thanh toán trong phạm vi bảo đảm của
bên mà mình thế quyền.
(c) Nếu các biện pháp bảo đảm đều phát sinh hiệu lực đối kháng với người
thứ ba thì thứ tự thanh toán được xác định theo thứ tự xác lập hiệu lực đối kháng.
(d) Nếu có biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba
và có biện pháp bảo đảm không phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì
nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm có hiệu lực đối kháng với người thứ ba được thanh
toán trước.
(đ) Nếu các biện pháp bảo đảm đều không phát sinh hiệu lực đối kháng với
người thứ ba thì thứ tự thanh toán được xác định theo thứ tự xác lập biện pháp bảo
đảm. (khoản 1 Điều 307 Bộ luật Dân sự năm 2015).
Ngoài ra, khoản 2 và khoản 3 Điều 308 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định
cụ thể việc xử lý các khoản thanh toán từ tài sản bảo đảm được xử lý. Các quy định
này được kế thừa từ Điều 338 (Thanh toán tiền bán tài sản cầm cố) và Điều 355 (Xử
lý tài sản thế chấp) của Bộ luật Dân sự năm 2005. Tuy nhiên, không phải mọi
trường hợp các bên đều phải tuân thủ theo thứ tự ưu tiên trên. Pháp luật tôn trọng sự
thỏa thuận của các bên, theo đó các bên cùng nhận bảo đảm có thể thỏa thuận về
việc thay đổi thứ tự ưu tiên thanh toán. Ngoài ra, nếu số tiền thu được từ việc xử lý
tài sản bảo đảm không đủ để thanh toán cho tất cả các bên nhận bảo đảm, thì bên
nhận bảo đảm sẽ được thanh toán tương ứng với tỷ lệ giá trị nghĩa vụ được bảo
đảm, cùng với thứ tự ưu tiên đã được xác định theo thỏa thuận hoặc theo quy định
của pháp luật.
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại các tổ
chức tín dụng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
2.2.1. Giới thiệu về hoạt động của các Tổ chức tín dụng trên địa bàn Quảng Ninh
Trên địa bàn tỉnh hiện có 47 chi nhánh ngân hàng thương mại (không tính
17 chi nhánh loại III hoạt động hạn chế trực thuộc 3 chi nhánh Ngân hàng
NN&PTNT). Trong đó có: 19 chi nhánh ngân hàng thương mại nhà nước, ngân
hàng thương mại cổ phần nhà nước; 28 chi nhánh của 25 ngân hàng thương mại cổ
phần; 1 chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội; 1 chi nhánh Công ty Cho thuê tài
43
chính I - Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam; 2 Quỹ tín dụng nhân dân và 2 chi nhánh
Tổ chức tài chính vi mô TNHH M7.2
Tính đến 31/7/2018, tổng dư nợ vốn tín dụng đạt 109.000 tỷ đồng, tăng 3,6%
so với cuối tháng 12/2017 và tăng 0,4% so với cuối tháng 6/2018. Trong đó: Dư nợ
cho vay ngắn hạn đạt 46.600 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 42,8%; dư nợ cho vay trung và
dài hạn đạt 62.400 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 57,2%. Về tình hình thu nợ, đến 31/7 đạt
15.049 tỷ đồng, tăng 4,7% so với tháng 6/2018, trong đó thu nợ ngắn hạn đạt 12.139
tỷ đồng, thu nợ trung, dài hạn đạt 2.910 tỷ đồng.3
Trên cơ sở bám sát chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước về hoạt động tín dụng
và tình hình kinh tế địa phương, các tổ chức tín dụng trên địa bàn thực hiện các giải
pháp mở rộng tín dụng có hiệu quả đi đôi với kiểm soát chất lượng tín dụng. Vốn
tín dụng được tập trung đầu tư trực tiếp cho sản xuất kinh doanh, cơ cấu cho vay
tiếp tục dịch chuyển phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng
tập trung đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ, du lịch, nông nghiệp, nông thôn.
2.2.2. Một số kết quả đạt được trong xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại các
tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
Thực hiện nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội về xử lý nợ xấu và xử
lý tài sản bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng, tổng nợ xấu tính đến thời điểm
15/08/2017 là trên 5.700 tỷ đồng đến 15/08/2018 là trên 4.900 tỷ đồng. Tổng tài sản
bảo đảm đã xử lý trong năm 2018 là trên 2.500 tỷ đồng. Nợ xấu của các tổ chức tín
dụng trên địa bàn tỉnh thời gian qua đã có xu hướng giảm. Cụ thể như, trong tháng
6/2018 các tổ chức tín dụng trên địa bàn đã xử lý được tổng số 58,2 tỷ đồng nợ xấu,
trong đó: Đôn đốc khách hàng trả nợ là 38,5 tỷ đồng, sử dụng quỹ dự phòng để xử
lý rủi ro là 12 tỷ đồng, thu qua cơ quan thi hành án 1,4 tỷ đồng, hình thức khác 6,3
tỷ đồng. Đến hết tháng 6/2018, tổng nợ xấu phát sinh trên toàn địa bàn là 1.479 tỷ
đồng, chiếm 1,36% tổng dư nợ; đến 31/7/2018 tổng nợ xấu phát sinh còn 1.450 tỷ
2
Cổng thông tin điện tử ngân hàng nhà nước chi nhánh quảng ninh. tại địa chỉ:
truy cập ngày 15/10/2018
3
Hồng Nhung, Ngân hàng tăng cường cơ cấu lại và xử lý nợ xấu, báo Quảng Ninh điện tử, tại địa
chỉ:
xau-2396963/ ngày: 08/08/2018 truy cập ngày 15/10/2018
44
đồng, chiếm 1,33% tổng dư nợ. Được biết, các khoản nợ xấu lớn hiện chủ yếu chỉ
còn nằm ở một số ngân hàng và đây là khoản nợ từ những năm trước, của các tập
đoàn kinh tế lớn của Nhà nước. Do vậy, việc xử lý nợ xấu sẽ diễn ra theo lộ trình.
Đối với các khoản nợ xấu nhỏ lẻ khác, các ngân hàng trên địa bàn cũng đã lên
phương án xử lý. Đảm bảo nợ xấu nằm trong mức cho phép của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam (không chiếm quá 2% tổng dư nợ).4
Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Quảng Ninh đã chỉ đạo các đơn vị tổ chức
tín dụng trên địa bàn triển khai thực hiện nghiêm túc phương án cơ cấu lại đã được
cấp có thẩm quyền phê duyệt và chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước và tổ chức tín
dụng cấp trên. Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Quảng Ninh hiện đang thực hiện
theo dõi, giám sát đối với một số tổ chức tín dụng được đặt trong tình trạng kiểm
soát đặc biệt. Trong quá trình thực hiện, đảm bảo các đơn vị thuộc tổ chức tín dụng
trên địa bàn hoạt động ổn định, không gây xáo trộn hoặc ảnh hưởng xấu đến hoạt
động ngân hàng trên địa bàn.
Với các giải pháp thực hiện cơ cấu lại tổ chức tín dụng, tăng cường xử lý nợ
xấu của hệ thống ngân hàng tỉnh thời gian qua đã và đang đáp ứng được yêu cầu về
hoạt động kinh doanh tiền tệ, ngân hàng và phục vụ phát triển kinh tế, xã hội trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
2.2.3. Hạn chế, bất cập trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại các
tổ chức tín dụng và nguyên nhân
Ngoài các giải pháp bán nợ, cơ cấu lại khoản nợ gắn với cơ cấu lại doanh
nghiệp, xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ là giải pháp quan trọng nhất để đẩy
nhanh tốc độ xử lý nợ xấu vì hơn 90% khoản nợ xấu có tài sản bảo đảm. Tuy nhiên,
biện pháp xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng nhằm thu hồi nợ
chưa được thực hiện hiệu quả, việc xử lý tài sản bảo đảm thu hồi nợ còn nhiều khó
khăn, trong đó chủ yếu chia làm ba nhóm:
4
Hồng Nhung, Ngân hàng tăng cường cơ cấu lại và xử lý nợ xấu, báo Quảng Ninh điện tử, địa chỉ:
2396963/ ngày: 08/08/2018 truy cập ngày 15/10/2018
45
Nhóm 1: Bất cập liên quan tới các quy định của pháp luật và cơ chế bảo đảm
thực thi quyền xử lý tài sản do thiếu các quy định cần thiết nhằm hỗ trợ và thúc đẩy
bên nhận bảo đảm thực thi quyền thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý; hoạt động xử lý
TSBĐ chưa nhận được sự hỗ trợ cần thiết và đầy đủ từ các quy định của pháp luật
khác có liên quan (pháp luật về tố tụng, hành chính, định giá tài sản bảo đảm, bán
đấu giá tài sản); cơ chế, thủ tục xử lý tài sản bảo đảm còn rườm rà, phức tạp và
phụ thuộc quá nhiều vào ý chí của bên bảo đảm...
Nhóm 2: Bất cập liên quan đến việc xử lý TSBĐ thông qua con đường tố tụng
như: Quy trình tố tụng kéo dài, Tòa án từ chối thụ lý vụ án do bên bảo đảm vắng
mặt khỏi nơi cư trú, cố tình bỏ trốn, cố tính giấu địa chỉ; một số Tòa án địa phương
vẫn còn nhầm lẫn giữa cầm cố, thế chấp tài sản bảo đảm nghĩa vụ cho người khác
và bảo lãnh; Tòa án không thừa nhận giá trị chứng cứ, không cần thừa nhận giá trị
pháp lý của các hợp đồng, thỏa thuận, tài liệu đã được công chứng, chứng thực
Nhóm 3: Bất cập liên quan đến sự yếu kém của các tổ chức tín dụng trong việc
xử lý tài sản bảo đảm tiền vay.
2.2.3.1. Một số qui định của pháp luật hạn chế quá trình xử lý tài sản bảo đảm
tiền vay tại các tổ chức tín dụng
- Xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng gặp một số hạn chế
do quy định của pháp luật về tài sản bảo đảm thuộc sở hữu của bên thứ ba:
Bộ luật dân sự 2015 đã chỉ rõ mối quan hệ giữa bên bảo đảm với tài sản
bảo đảm: “Tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm” (khoản 1
điều 295 BLDS 2015). Tuy nhiên, một số thuật ngữ như “người thứ ba”, “cam kết
dùng tài sản đó” lại chưa được giải thích cụ thể và đã gây lúng túng cho các chủ thể
trong quá trình áp dụng các điều luật thi.
Có một số ý kiến cho rằng: “dứt khoát không được công chứng hợp đồng ủy
quyền cho người được ủy quyền " toàn quyền thế chấp" tài sản của người khác để
đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của chính người được ủy quyền” bởi đã vi phạm một
“thuộc tính” rất cơ bản của tài sản thế chấp là tài sản thuộc sở hữu của bên thế
chấp” 5 . Pháp luật Việt Nam không cho phép bên thế chấp dùng tài sản không
5
Nguyễn Thanh Tú, Công chứng ủy quyền thế chấp tài sản, lợi bất cập hại, báo Pháp Luật Việt
Nam ngày 04/05/2010
46
thuộc sở hữu của mình để thế chấp thông qua cơ chế ủy quyền sử dụng tài sản. Bởi
sử dụng tài sản của người khác để thế chấp/bảo đảm thực hiện nghĩa vụ (như thuê,
mượn hoặc có cam kết của người khác đồng ý cho bên bảo đảm dùng tài sản của họ
để làm tài sản bảo đảm tiền vay), điều này vi phạm quy định của pháp luật về tài sản
bảo đảm phải thuộc sở hữu của bên bảo đảm; còn nếu chủ sở hữu tài sản bảo đảm ủy
quyền cho bên có nghĩa vụ để thế chấp/bảo đảm tài sản thì họ chính là bên bảo đảm
và khi đó, bên có nghĩa vụ và bên bảo đảm là hai chủ thể khác nhau. Nguyên nhân
sâu xa của quan hệ ủy quyền bảo đảm này được bắt nguồn từ sự thân quen giữa các
bên (bố mẹ, anh, chị em ruột...) hoặc từ thiếu hiểu biết hoặc hám lợi và được xác lập
rất đơn giản bằng một chữ kí duy nhất trong hợp đồng ủy quyền tại phòng công
chứng nhưng hệ lụy mà nó gây ra thật khôn lường. Bởi khi bên có nghĩa vụ không
trả được khoản vay cho các tổ chức tín dụng thì những chủ sở hữu tài sản đảm bảo
đó lúc đầu nghĩ là “cho mượn” sẽ được trả lại nhưng cuối cùng lại mất trắng tài sản
và không biết căn cứ vào đâu để vảo vệ quyền lợi của mình khi bên vay đã mất khả
năng thanh toán hoặc tuyên bố phá sản.
Tuy nhiên, xét ở một góc độ khác, có nhiều ý kiến đồng tình với quan điểm
khi cho rằng: “quan hệ ủy quyền thế chấp/ủy quyền bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là
hợp pháp”6. Chủ sở hữu có quyền ủy quyền cho người khác sử dụng tài sản thuộc sở
hữu của mình làm tài sản bảo đảm tiền vay. Theo đó, chủ sở hữu tài sản vẫn là bên
bảo đảm, chủ sở hữu vẫn có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của bên bảo đảm; còn
người được ủy quyền là người nhân danh chủ sở hữu của tài sản bảo đảm kí tên vào
các hợp đồng tín dụng. Điểm mấu chốt là công chứng viên cần giúp cho bên ủy
quyền hiểu rõ về những lợi ích và trách nhiệm mà bên ủy quyền sẽ gặp phải nếu bên
có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Quan hệ ủy quyền bảo đảm tiềm ẩn nhiều rủi
ro cho bên nhận bảo đảm nếu một trong hai bên của hợp đồng ủy quyền bảo đảm
đơn phương tuyên bố chấm dứt hoặc hợp đồng mặc nhiên bị chấm dứt khi một trong
hai bên chết trước thời điểm bên được ủy quyền kí kết hợp đồng tín dụng. Khi đó,
bên nhận bảo đảm rơi vào tình trạng cho vay không có tài sản bảo đảm bởi quan hệ
ủy quyền bảo đảm chấm dứt trước thời điểm giao kết hợp đồng tín dụng mà bên
nhận bảo đảm không kiểm soát được các thông tin này.
6
Trương Thanh Đức, Đúng sai của ủy quyền thế chấp, tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ, số
5(326)/2011, tr.14.
47
Pháp luật hiện hành chưa làm rõ được các mối quan hệ của bên bảo đảm và
bên có nghĩa vụ khi đó là hai chủ thể độc lập và chưa có quy định rõ về việc bên
bảo đảm có quyền gì đối với bên có nghĩa vụ trong trường hợp:
Thứ nhất, đến hạn, bên có nghĩa vụ thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ với bên
nhận bảo đảm và quan hệ bảo đảm chấm dứt. Bản chất của mối quan hệ này có phải
là một hợp đồng dịch vụ không? có thù lao hay không có thù lao? để tránh lạm
quyền của một trong hai bên trong quan hệ, mức thù lao do các bên thỏa thuận
nhưng sự thỏa thuận này có cần nằm trong một giới hạn nào hay không?
Thứ hai, đến hạn, có sự vi phạm nghĩa vụ và tài sản bảo đảm đó bị xử lý thì
bên thế chấp có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ hoàn trả cho mình giá trị của tài sản
bảo đảm đã dùng để khấu trừ cho những giá trị của nghĩa vụ bị vi phạm hay không?
tài sản bảo đảm sau khi đã bị xử lý bên bảo đảm có quyền thế thế quyền của bên
nhận bảo đảm để yêu càu bên có nghĩa vụ hoàn trả một phần nghĩa vụ mà bên bảo
đảm đã bảo đảm bằng tài sản của mình và giữ vị trí ưu tiên của bên nhận thế chấp
trước các chủ nợ khác của bên có nghĩa vụ hay không?
- Xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng gặp một số vướng
mắc do quy định của pháp luật về các định quyền chủ sở hữu của tài sản bảo đảm:
Pháp luật dân sự hiện hành quy định một điều kiện có tính nguyên tắc đối với
tài sản đảm bảo đó là: " tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm".
Bên nhận bảo đảm chỉ có thể xử lý tài sản bảo đảm khi tài sản bảo đảm đó thuộc
quyền sở hữu hợp pháp của bên bảo đảm. Công việc không hề đơn giản đối với bên
nhận bảo đảm nếu dựa trên các quy định của pháp luật hiện hành về quyền sở hữu
tài sản bảo đảm, đặc biệt là đối với các tài sản mà theo quy định của pháp luật phải
đăng kí quyền sở hữu như quyền sử dụng đất, nhà, công trình xây dựng, ô tô, xe
máy...
Thứ nhất, vướng mắc liên quan đến việc kiểm định tính xác thực pháp lý của
các giấy tờ đăng kí quyền sở hữu tài sản bảo đảm, giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất của bên bảo đảm. Tâm lý của bên nhận bảo đảm (các tổ chức tín dụng) chỉ cảm
thấy yên tâm khi nắm giữ trong tay bản gốc giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài
sản bởi theo quy định hiện nay: giấy tờ này do các cơ quan chức năng nhà nước có
48
thẩm quyền cấp theo trình tự luật định và chỉ có một bản gốc duy nhất. Mong muốn
này của bên nhận thế chấp đã gặp phải các thủ đoạn rất tinh vi của bên bảo đảm:
làm giả giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản bảo đảm để bảo đảm cho các tổ chức
tín dụng hay để bán tài sản bảo đảm hoặc dùng để bảo đảm tiếp theo; khai báo mất
giấy tờ gốc để xin cấp lại các bản gốc khác và thực hiện các giao dịch tiếp theo trên
tài sản bảo đảm; dùng bản phô tô màu giấy chứng nhận đăng kí ô tô để giao cho các
tổ chức tín dụng cấp tín dụng, còn bản gốc thì dùng để bán xe ô tô đã bán cho người
khác.
Thứ hai, vướng mắc liên quan đến các quy định của pháp luật về thời điểm
xác lập quyền sử dụng trên đất với thời điểm xác lập quyền sở hữu đối với tài sản
gắn liền trên đất không thống nhất với nhau. Trong hệ thống pháp luật hiện hành
của Việt Nam đang tồn tại những khái niệm pháp lý về các loại tài sản như quyền sử
dụng đất, nhà ở, bất động sản và các luật tương ứng để điều chỉnh các quan hệ liên
quan đến chúng như luật đất đai, luật nhà ở, luật kinh doanh bất động sản. Xét về
bản diện vật lý của tài sản thì đất không thể không có nhà trên đó, nhưng nhà thì
phải luôn gắn liền với đất tạo thành một khối thống nhất và được gọi tên chung là
bất động sản. Theo logic thì chế độ pháp lý của nhà ở phải phụ thuộc và phù hợp
với chế độ pháp lý của đất đai vì đất đai là tài sản có tính bất biến và có trước nhà ở,
nhà ở có sau và phải gắn liền trên đất. Thế nhưng, pháp luật hiện hành lại quy định
thời điểm chuyển quyền sử dụng đất là thời điểm đăng kí tại văn phòng đăng kí đất
đai, còn thời điểm chuyển quyền sở hữu nhà ở rất đa dạng: đối với việc mua bán,
tặng cho, trao đổi, thuê mua thì đó là thời điểm các giao dịch trên được công chứng
hoặc là thời điểm giao nhận nhà ở đối với giao dịch mà một bên là tổ chức kinh
doanh nhà ở, hoặc là thời điểm mở thừa kế đối với trường hợp thừa kế nhà ở hoặc
thời điểm bên mua nhà ở thể chấp/bảo đảm kí trên hợp đồng.
Thứ ba, vướng mắc liên quan đến hậu quả pháp lý của việc ghi tên chủ sở
hữu trên giấy tờ đăng kí sở hữu tài sản bảo đảm không đúng với các căn cứ xác lập
quyền sở hữu theo luật định. Các quy định trong bộ luật dân sự 2015 tuy không thể
hiện rõ quan điểm lập pháp nhưng đã thể hiện rất rõ xu hướng tôn trọng sự thật
trong xác lập các giao dịch. Theo đó, hợp đồng bảo đảm sẽ bị tuyên vô hiệu nếu tài
49
sản bảo đảm có giấy chứng nhận đăng kí sở hữu được cấp không đúng. Điều 15
BLDS 2015 đã cho phép tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của
cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền. Điều này lý giải cho việc không phải tất cả
tài sản bảo đảm đã có giấy tờ chứng minh quyền sở hữu được cơ quan nhà nước cấp
đã là an toàn tuyệt đối với bên nhận bảo đảm. Bên nhận bảo đảm không chỉ có trách
nhiệm phải xem xét tính thật giả của giấy tờ sở hữu tài sản, tình trạng pháp lý của
tài sản bảo đảm có chịu sự ràng buộc bởi quyền lợi của các chủ thể khác hay không,
có đang thế chấp/cầm cố/thực hiện nghĩa vụ bảo đảm hay không mà còn phải kiểm
tra cả lịch sử sở hữu của chủ tài sản bảo đảm (tức là kiểm tra các căn cứ xác lập
quyền sở hữu đối với tài sản bảo đảm).
Thứ tư, vướng mắc liên quan đến thời điểm xác định tài sản bảo đảm thuộc
quyền sở hữu của bên bảo đảm: tài sản bảo đảm có nhất thiết phải đáp ứng điều kiện
thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm vào thời điểm kí hợp đồng bảo đảm hay
không? pháp luật thực định không có quy định cụ thể về vấn đề này. Một số quan
điểm cho rằng điều kiện này chỉ cần đáp ứng vào thời điểm xử lý tài sản bảo đảm,
chứ không nhất thiết phải được đáp ứng tại thời điểm giao kết hợp giao dịch bảo
đảm thông qua việc dẫn chứng cho hai trường hợp: đối với tài sản bảo đảm hình
thành trong tương lai: “chỉ cần tài sản thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm ở thời
điểm xử lý tài sản là đủ; việc tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm tại thời điểm
xác lập nghĩa vụ dân sự hay biện pháp bảo đảm không thực sự quan trọng và không
ảnh hưởng đến hiệu lực của biện pháp bảo đảm”7 và đối với trường hợp tài sản
đang có tranh chấp, chưa rõ chủ sở hữu: giao dịch bảo đảm vẫn có giá trị "nếu các
bên xác lập giao dịch bảo đảm có điều kiện là nếu bên bảo đảm là chủ sở hữu của
tài sản" bởi theo điều 120 BLDS 2015 quy định: “trường hợp các bên có thỏa thuận
về điều kiện phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự thì khi điều kiện đó xảy ra, giao
dịch dân sự phát sinh hoặc hủy bỏ”. Tuy nhiên, theo quan điểm cá nhân, một
nguyên tắc mang tính xuyên suốt và mấu chốt của mọi giao dịch bảo đảm đó là tài
sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm. Lý giải cho trường hợp tài
sản bảo đảm là tài sản hình thành trong tương lai, thì đây là một trường hợp ngoại
7
Đỗ Văn Đại, Luật nghĩa vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, bản án và bình luận,
tập 1, nxb chính trị quốc gia- Sự Thật, Hà Nội, 2012, tr.505.
50
lệ, nhưng vẫn phải đảm bảo các căn cứ, dẫn chứng chứng minh tài sản đó sẽ thuộc
quyền sở hữu của bên bảo đảm. Lý giải cho trường hợp tài sản bảo đảm đang có
tranh chấp thì giao dịch bảo đảm này dù có được xác lập nhưng hiệu lực của nó vẫn
ở tình trạng “treo”, cho đến khi nào tranh chấp được giải quyết xong. Thực tế là
không có ai chắc chắn được tranh chấp đó trong bao lâu thì giải quyết xong. Nghĩa
vụ cần được bảo đảm là nghĩa vụ có thời hạn trong khi điều kiện phát sinh hiệu lực
đối với giao dịch bảo đảm có tài sản tranh chấp là vô thời hạn. Do vậy, tài sản bảo
đảm phải đáp ứng được điều kiện thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bên bảo đảm tại
thời điểm giao kết hợp đồng.
Tóm lại, với các quy định của pháp luật hiện hành, để nhận biết được tài sản
bảo đảm có thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bên bảo đảm hay không chủ yếu phụ
thuộc vào kinh nghiệm của bên nhận bảo đảm mà chưa có quy định của pháp luật về
sự hỗ trợ cụ thể của các thể chế khác.
- Xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng bị hạn chế do một số
quy định của pháp luật về sử dụng tài sản bảo đảm tiền vay là cơ sở kinh doanh,
quyền đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp và cổ phiếu:
Khi một cá nhân, pháp nhân góp vốn vào một doanh nghiệp thì số vốn góp sẽ
là tài sản của doanh nghiệp. Cá nhân, pháp nhân góp vốn có quyền tài sản tương
ứng với phần vốn góp đã góp vào doanh nghiệp. Luật Doanh Nghiệp năm 2014:
Quy định quyền của thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên,
“Định đoạt phần vốn góp của mình bằng cách chuyển nhượng một phần hoặc toàn
bộ, tặng cho và cách khác theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty” (khoản 6
điều 50 luật Doanh nghiệp 2014). Điều luật cho phép thành viên công ty trách
nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên được định đoạt phần vốn góp của mình bằng
cách chuyển nhượng, tặng cho và cách khác theo quy định của điều lệ công ty. Vấn
đề đặt ra là nếu điều lệ công ty cho phép thành viên công ty được phép dùng quyền
đối với phần vốn góp của mình làm tài sản bảo đảm cho các hợp đồng vay thì có vi
phạm pháp luật không? Khi đó nếu có tranh chấp sẽ giải quyết như thế nào? Ngoài
ra, luật Doanh nghiệp 2014, quy định quyền của thành viên góp vốn trong công ty
hợp danh: “Định đoạt phần vốn góp của mình bằng cách để thừa kế, tặng cho, thế
51
chấp, cầm cố và các hình thức khác theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty;
trường hợp chết thì người thừa kế thay thế thành viên đã chết trở thành thành viên
góp vốn của công ty” (khoản 1 Điều 182 luật Doanh nghiệp 2014). Rõ ràng hơn,
với công ty hợp danh Luật Doanh nghiệp cho phép thành viên góp vốn được sử
dụng quyền đối với phần vốn góp của họ làm tài sản bảo đảm để đảm bảo thực hiện
nghĩa vụ của hợp đồng vay. Tuy nhiên Luật Doanh nghiệp, các văn bản hướng dẫn
luật Doanh nghiệp lại không có quy định hướng dẫn cụ thể dẫn đến thực trạng các
ngân hàng cũng không mạo hiểm nhận quyền tài sản này làm tài sản bảo đảm.8
Thiết nghĩ cũng giống như quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, nếu
Nhà nước không nhanh chóng ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết về việc thế
chấp quyền đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp thì những quy định của Luật
Doanh nghiệp sẽ rất khó đi vào thực tế.
- Xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng gặp khó khăn trong
việc một số quy định của pháp luật về xác định tài sản bảo đảm hình thành trong
tương lai
Nhằm khơi thông nguồn vốn tín dụng và khai thác tối đa tất cả tài sản đều có
thể làm tài sản bảo đảm, thì việc bộ luật dân sự 2015 và một số văn bản luật chuyên
nghành như: Luật nhà ở 2014, luật kinh doanh bất động sản 2015 ghi nhận tài sản
hình thành trong tương lai cũng là tài sản bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng
là một điểm mới, đáng ghi nhận. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng lại bộc lộ một số bất
cập như sau:
Theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015, “tài sản hình thành trong tương lai
là tài sản chưa tồn tại hoặc đã tồn tại nhưng chưa chủ thể chưa xác lập quyền sở
hữu sau thời điểm xác lập giao dịch” (khoản 2 Điều 108 BLDS 2015). Cũng theo
quy định tại điều 295 BLDS 2015 thì tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của
bên bảo đảm ngay tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm. Như vậy, bên bảo đảm
chưa có quyền sở hữu đối với tài sản thì chưa thể đưa tài sản hình thành trong tương
lai trở thành một đối tượng của một giao dịch cụ thể. Ngoài ra, tài sản bảo đảm phải
8
Bùi Đức Giang, Bảo đảm khoản vay ngân hàng: mòn mỏi chờ nghị định, Thời Báo Kinh Tế Sài
Gòn, ngày 13/08/2018, tại địa chỉ: https://www.thesaigontimes.vn/276697/bao-dam-khoan-vay-
ngan-hang-mon-moi-cho-nghi-dinh-.html, truy cập ngày 25/11/2018
52
được xác định cụ thể với sự mô tả cụ thể mà chủ thể có thể nhận biết và xác định
được khi đưa chúng ra để xử lý. Tuy nhiên, với tài sản hình thành trong tương lai vì
chúng chưa tồn tại nên chưa có cơ sở nhận biết.
Bản chất của quyền thế chấp/cầm cố là vật quyền bảo đảm được phát sinh từ
quyền sở hữu. Nghĩa là bắt buộc phải có quyền sở hữu trên tài sản thì mới phát sinh
được quyền bảo đảm trên tài sản đó.
Nếu ghi nhận tính chất vật quyền của tài sản bảo đảm là tài sản hình thành
trong tương lai thì giao dịch bảo đảm phải được đăng kí. Nội dung đăng kí là công
bố quyền của bên nhận bảo đảm trên tài sản bảo đảm. Nhưng bản thân tài sản đó
chưa tồn tại, chưa xác lập được quyền sở hữu cho bên bảo đảm thì không có các
thông tin xác thực về tài sản để thực hiện đăng kí. Điều này kéo theo việc không có
căn cứ xác định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm đó.
Nếu công nhận tài sản hình thành trong tương lai là tài sản bảo đảm tiền vay
tại các tổ chức tín dụng, sẽ có vấn đề mới phát sinh: bên nhận bảo đảm không thể
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_phap_luat_ve_xu_ly_tai_san_dam_bao_tien_vay_tai_cac.pdf