Lời cam đoan . i
Lời cảm ơn. ii
Mục lục .iii
Danh mục các từ viết tắt . iv
Danh mục các bảng. v
Danh mục các hình . vi
MỞ ĐẦU.1
1. Lý do chọn đề tài .1
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài.2
3. Mục tiêu, nhiệm vụ, giới hạn và phạm vi nghiên cứu.4
4. Các quan điểm và phương pháp nghiên cứu .5
5. Những đóng góp của luận văn.9
6. Cấu trúc của luận văn .9
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN
DU LỊCH.10
1.1. Cơ sở lí luận.10
1.1.1. Các khái niệm về du lịch .10
1.1.2. Chức năng của du lịch.19
1.1.3. Một số hình thức tổ chức lãnh thổ du lịch.20
1.1.4. Những nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển du lịch.22
1.2. Cơ sở thực tiễn.25
1.2.1. Tiềm năng phát triển du lịch của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.25
1.2.2. Tình hình phát triển du lịch của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.29
Tiểu kết chương 1.32
Chương 2: CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT
TRIỂN DU LỊCH CỦA THÀNH PHỐ VIÊNG CHĂN NƯỚC
CHDCND LÀO .33
103 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 26/02/2022 | Lượt xem: 412 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển du lịch của thành phố viêng chăn nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khi chất lượng
cuộc sống được nâng cao thì nhu cầu hưởng thụ của người dân cũng tăng theo.
Ngày càng có nhiều du khách muốn tìm hiểu, khám phá và trải nghiệm những
điểm du lịch hấp dẫn, những nét văn hóa, phong tục tập quán khác biệt của các
cộng đồng dân tộc thông qua hoạt động du lịch. Lào là một quốc gia có nhiều tiềm
năng phát triển du lịch, nếu khai thác tốt lợi thế này thì ngành du lịch của Lào sẽ
phát triển nhanh chóng, kéo theo sự phát triển của các ngành kinh tế khác.
33
Chương 2
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN
DU LỊCH CỦA THÀNH PHỐ VIÊNG CHĂN NƯỚC CHDCND LÀO
2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch của thành phố
Viêng Chăn
2.1.1. Vị trí địa lí, phạm vi lãnh thổ
Trên bản đồ của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào thành phố
Viêng Chăn ở khu vực miền Trung Lào, với hệ tọa độ địa lí kéo dài từ
1808’B - 18013’B; 102031’Đ - 102051’Đ; trên một nhánh sông Mê Kông.
Thành phố có diện tích 3.920 km2, chiếm 1,6% diêṇ tích cả nước.
Thành phố Viêng Chăn có đường biên giới chung với 3 tỉnh và Thái Lan,
phía Bắc giáp tỉnh Viêng Chăn, phía Đông giáp tỉnh Xay-sôm-bun, phía Nam
giáp tỉnh Bo-li-khăm-xay và phía Tây giáp Thái Lan chaỵ dài theo sông Mê
Kông 170 km.
Vị trí địa lý của thành phố Viêng Chăn tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi
trong việc giao lưu kinh tế với các tỉnh, thành trong vùng, trong cả nước cũng như
hội nhập quốc tế góp phần nâng cao đời sống người dân cả về vật chất và tinh
thần, giảm bớt sự chênh lệch giữa thành phố Viêng Chăn với các vùng trong cả
nước, đưa thành phố Viêng Chăn nhanh chóng trở thành trung tâm kinh tế, văn
hoá của vùng. Đồng thời, do vị trí giao thông thuận lợi, hàng năm thành phố
Viêng Chăn đón hàng ngàn học sinh, sinh viên từ các tỉnh trong cả nước sang học
tập, và cũng có một bộ phận lớn dân cư thành phố Viêng Chăn xuất cư khỏi tỉnh
xuống các tỉnh miền đồng bằng làm việc và học tập, điều này ảnh hưởng lớn đến
đặc điểm dân số và nguồn lao động của thành phố Viêng Chăn.
34
Hình 2.1. Bản đồ hành chính thành phố Viêng Chăn, Nước CHDCND Lào
(Nguồn: Tác giả biên vẽ)
3
4
35
Thành phố Viêng Chăn là trung tâm văn hóa, khoa học, giáo dục, đào
tạo, kinh tế, chính trị, của nước Lào.
Thành phố Viêng Chăn gồm có 9 huyện là: Chanthabuly, Sikhottabong,
Xaysettha, sisatanak, Hadxaifong, Pakngum, Naxaithong, Sangthong, Xaythany.
Về lịch sử hình thành của Viêng Chăn, đại sử thi Lào, Phra Lak Phra
Lam, cho rằng hoàng tử Thattaradtha đã lập ra thành phố khi ông rời vương
quốc huyền thoại của Lào là Muong Inthapatha Maha Nakhone bởi vì ông đã
nhường ngôi cho người em. Thattaradtha ban đầu lập ra một thành phố tên là
Maha Thani Si Phan Phao ở bờ phía tây sông Mê Kông; thành phố này được
cho là đã trở thành Udon Thani hiện nay của Thái Lan.
Trái với Phra Lak Phra Lam, đã số các nhà sử học tin rằng Viêng Chăn
ban đầu là nơi định cư của người Khmer tập trung thành một ngôi đền Hindu,
sau này Pha That Luong đã thay thế nó.
Trong thế kỷ XI và thế kỷ XII, thời gian khi dân tộc Thái được cho là đã
thâm nhập vào vùng Đông Nam Á từ phía Nam Trung Quốc, một số người
Khmer ít ỏi còn lại trong vùng đã hoặc bị giết, xua đuổi khỏi đó, hay đồng hóa
vào văn minh Lào, nền văn minh sau này sẽ phát triển khắp vùng đó.
Năm 1353, vua Fa Ngum lập ra vương quốc Lan Xang, Viêng Chăn trở
thành một thành phố hành chính quan trọng, dù nó không phải là thủ đô.
Vua Xaysetthathirath chính thực lập nó làm thủ đô Lan Xang năm 1560.
Khi Lan Xang tan rã năm 1707, nó trở thành vương quốc độc lập với lãnh thổ
gồm vùng Đông Bắc Thái Lan và vùng miền trung của nước Lào ngày nay.
Năm 1779, thành phố này bị viên tướng Xiêm là phraya Chakri chinh phục và
biến thành một chư hầu của Xiêm.
Khi vua Anouvong (thường được phiên âm thành A-nỗ, hay Chậu A Nụ)
khởi nghĩa để thoát khỏi ách cai trị của Thái, nhưng thất bại, thành phố bị quân
Xiêm hủy diệt hoàn toàn năm 1827. Dân cư bị người Xiêm bắt đi, chạy tứ tán
đi khắp nơi, khiến thành phố bị bỏ hoang, tiêu điều. Tới năm 1893, thành phố
36
chuyển vào tay người Pháp, nó trở thành thủ đô của nước Lào thuộc quyền bảo
hộ của Pháp năm 1899.
Trước năm 1989, thành phố Viêng Chăn và tỉnh Viêng Chăn là một đơn
vị hành chính. Sau khi tách ra, Lào vừa có tỉnh Viêng Chăn vừa có thành phố
trực thuộc Trung ương Viêng Chăn.
2.1.2. Tài nguyên du lịch
2.1.2.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên
a. Địa hình
Địa hình thành phố Viêng Chăn chủ yếu là đồng bằng chaỵ theo ven
sông Mê Kông, từ hướng Tây - Đông bao quanh bởi các dãy núi Khao -
khoy. Vùng đồng bằng này chiếm 85% và vùng núi chiếm 15% của diêṇ
tích cả thành phố.
Thành phố Viêng Chăn là thành phố nằm trong đồng bằng Viêng Chăn
môṭ trong ba đồng bằng lớn nhất trong nước, đây là một thuận lợi của thành
phố Viêng Chăn cho canh tác nông lâm nghiệp và phát triển kinh tế - xa ̃hôị,
phân bố dân cư, nguồn lao động dễ dàng hơn so với các tỉnh trong vùng.
b. Khí hậu
Thành phố Viêng Chăn có khí hậu nhiệt đới nóng và ẩm, chia thành 2 mùa rõ
rệt: từ tháng 5 đến tháng 9 mùa mưa và từ tháng 10 đến tháng 4 mùa khô. Nhiệt độ
trung bình hàng năm là 29 độ C, cao nhất có thể lên đến 40 độ C và thập nhất
khoảng 19 độ C. Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1.500 đến 2.000 mm.
c. Thủy văn
Thành phố Viêng Chăn nằm trong maṇg lưới sông Mê Kông, có 2 hê ̣
thống sông lớn chảy qua là sông Mê Kông và sông Nặm Ngưm.
Sông Mê Kông có chiều dài 4.880 km chảy qua nước Lào 1.865 km, và
chảy qua thành phố Viêng Chăn 170 km. Tổng lươṇg nước sông bình quân là
2.506 triêụ m3/phút. Sông Nặm Ngưm có chiều dài 354 km và có hồ cấp nước
sông Nhơṃ có diện tích rộng hơn 250 km2.
37
Ngoài maṇg lưới sông thành phố Viêng Chăn còn có có khí hậu nhiệt đới
nóng ẩm, chia thành 2 mùa rõ rệt: từ tháng 5 đến tháng 9 mùa mưa và từ tháng
10 đến tháng 4 mùa khô. Đô ̣ẩm trung bình hàng năm là 82%, cao nhất có thể
lên đến 93% và thập nhất khoảng 57,25%. Lượng mưa trung bình hàng năm từ
1.500 đến 2.000 mm.
d. Sinh vật
Năm 2015 thành phố Viêng Chăn có 213.520 ha đất lâm nghiệp có rừng
(chiếm 54,4% quỹ đất), trong đó rừng sản xuất là 88.080 ha và rừng bảo tồn
thiên nhiên là 125.440 ha. Đất lâm nghiệp có rừng tập trung chủ yếu ở các
huyện Xay-tha-ny, Hát-xai-phong, Pác-ngưṃ, Na-xai-thong, Sắng-thong của
của thành phố Viêng Chăn [2].
2.1.2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn
a. Các di tích lịch sử - văn hóa
Thành phố Viêng Chăn là nơi có nhiều tiềm năng du lịch với nhiều công
trình kiến trúc cổ kính mang phong túc tấp quán, lễ hội... Du lịch hồ, sông Mê
Kông được coi là một điểm du lịch hấp dẫn. Các di tích lịch sử văn hoá là tài
nguyên vô giá của dân tộc, đồng thời đây cũng là một trong những tài nguyên
du lịch quan trọng để phát triển du lịch. Hiện nay ở thành phố Viêng Chăn có
51 điểm du lịch được nhà nước xếp hạng trong đó có 26 thắng cảnh, 25 di tích
lịch sử và di tích văn hoá, số lượng di tích trên được phân bố như sau:
Bảng 2.1. Số lượng điểm tài nguyên du lịch thành phố Viêng Chăn
Năm 2010 2011 2012 2013 2014 2015
Điểm TNDL nhân Văn 24 24 24 24 26 26
Điểm TNDL tự nhiên 12 12 12 13 25 25
Tổng cộng 36 36 36 37 51 51
Nguồn: Sở Văn hóa, Thông tin và Du lịch thành phố Viêng Chăn
Ngoài các di tích được Nhà nước xếp hạng còn có các di tích văn hoá lịch
sử, thiên nhiên đang được khảo cứu thiết lập hồ sơ khoa học đề nghị Nhà nước
công nhận. Nhìn chung về mặt số lượng các di tích của thành phố chưa nhiều
38
nhưng khá đa dạng, trong đó có một số di tích có khả năng thu hút mạnh các
đối tượng khách du lịch nội địa và một số khách du lịch quốc tế.
b. Các lễ hội
Khi nói đến lễ hội còn phải kể đến các sinh hoạt lễ hội tiêu biểu. Sinh hoạt
lễ hội là một tập quán của các cộng đồng dân cư lớn nhỏ khác nhau. Do đó
trong thực tế các lễ hội đã trờ thành nhu cầu văn hoá và tâm linh, về phương
diện du lịch, lễ hội là sản phẩm văn hoá thu hút khách hàng hướng và khách du
lịch. Ngoài nhu cầu tín ngưỡng, khách du lịch còn có nhu cầu tham quan và
tham dự các trò chơi giải trí cửa các lễ hội. Các hoạt động lễ hội chính ở thành
phố Viêng Chăn có thể chia ra nhiều loại như:
- Lễ hội Bun phar vết (Phật hóa thân) tháng 1 âm lịch.
- Lễ hội Khậu chí 21 tháng 2 âm lịch.
- Bun Pi May (Lễ hội té nước) 13-16 tháng 4 âm lịch.
- Lễ hội Viên thiên (thắp nến) 19 tháng 5 âm lịch.
- Bun Khậu Phăn Sa (Hội vào chay và mãn chay) 17-18 tháng 7 âm lịch.
- Lễ hội Họ Khậu Sa Lạc (đua thuyền) 14 tháng 9 âm lịch.
- Lễ hội Óc Phăn Sa Lay Hưa Phay (Hội thả đèn lồng) 14-15 tháng 10 âm lịch.
Lễ hội Thạt Luông Viêng Chăn tháng 12 âm lịch
Thạt Luổng có bệ hình vuông, phía Bắc và Nam mỗi bề rộng 68m, phía
Đông và Tây mỗi bề rộng 69m, xung quanh được trang trí bởi 332 hình lá bồ đề
cách điệu. Ngoài tháp chính cao 45m, còn có 30 tháp nhỏ biểu tượng cho Đức
Phật Thích ca với 30 năm tu hành gian khổ của người để trở thành Phật. Trên
các tháp nhỏ này có đắp những hàng chữ Bali nổi ghi các lời răn của đức Phật.
Hội Thạt Luổng là lễ hội tôn giáo lớn nhất, đậm nét văn hóa Lào nhất và
thu hút được sự quan tâm của đông đảo người dân các bộ tộc Lào trên cả nước
cũng như khách quốc tế. Thạt Luổng tiếng Lào có nghĩa là tháp lớn, đây được
coi là biểu tượng của đất nước Lào, là ngôi chùa lớn và đẹp nhất xứ sở Triệu
39
voi hiền hòa và mến khách. Lễ hội Thạt Luổng diễn ra vào những ngày sát rằm
tháng 12 Phật lịch, kéo dài một tuần và kết thúc vào đúng ngày rằm của tháng
tức là ngày hôm nay (25/11).
Một trong hoạt động chính của Lễ hội Thạt Luổng là lễ rước tháp (tiếng
Lào gọi là Hè Phạ Sạt Phơng) từ chùa Mẹ Xỉ Mương tới Thạt Luổng. Phạ Sạt
Phơng là một mô hình kiến trúc đền thờ được làm bằng chất liệu xốp, xung
quanh gắn hoa làm bằng sáp ong màu vàng rực rỡ. Trên chóp cắm 9 bông hoa
sen trắng, xung quanh tháp có các tua dây kết hoa hoặc tiền âm phủ.
Khi đến Thạt Luổng, những người rước sẽ khiêng Phạ Sạt Phơng đi vòng
quanh Thạt Luổng ba vòng trước khi dừng lại ở hậu sảnh dâng lễ và được sư
thầy tiếp nhận lễ vật với hình thức trang trọng, nghiêm cẩn, thành kính. Theo
tục lệ, mỗi gia đình, bản hoặc một nhóm người đều có thể chung nhau cúng
một Phạ Sạt Phơng.
Sáng ngày 15/12 Phật lịch là ngày mọi người dân đến dâng lễ cho các nhà
sư tiếng Lào gọi là Tắc bạt, hàng nghìn nhà sư từ khắp cả nước Lào sẽ đổ về
Thạt Luổng, kê bàn ngồi dọc hai bên đường vào để Phật tử thập phương về
dâng lễ gồm tiền, bánh kẹo, xôi Người dân xếp hàng theo thứ tự để dâng lễ
cho sư. Mọi người dân từ khắp nơi đổ về chật kín Thạt Luổng, những người
đến sau thì trải chiếu hoặc báo tại quảng trường lớn bên ngoài khuôn viên Thạt
Luổng và đặt lễ vật trước trước mặt, thành kính nguyện cầu.
Lễ hội tết cổ truyền Bunpimay hay còn gọi là Lễ hội té nước
Diễn ra từ ngày 13 đến ngày 16 tháng 4 hàng năm. Vào ngày đầu tiên của
tết Lào, người ta quét dọn, lau chùi nhà cửa sạch sẽ, chuẩn bị nước thơm và hoa
rồi lên chùa. Đầu tiên họ tưới nước lên các tượng phật sau đó họ còn té nước
vào các nhà sư, chùa và cây cối xung quanh chùa, rồi đến những người xung
quanh. Họ không chỉ té nước người mà còn vào nhà cửa, đồ thời cúng, súc vật
và công cụ sản xuất. Người Lào tin rằng nước sẽ giúp gột rửa điều xấu xa ,bệnh
40
tật và cầu chúc cho năm mới sống lâu, sạch sẽ và mạnh khỏe. Ai bị ướt nhiều là
hạnh phúc nhiều. Ngoài ra, trong những ngày này người ta cũng buộc vào cổ
tay nhau những sợi chỉ nhiều màu để chúc phúc.
Hiện nay các lễ hội truyền thống có xu hướng phục hồi và phát triển trở lại.
Hầu như ở các địa phương trong tỉnh đều có tổ chức các lễ hội văn hoá truyền
thống. Nhiều lễ hội có ý nghĩa về mặt lịch sử văn hoá, có tác dụng tích cực trong
các việc giáo dục truyền thống yêu nước và khôi phục phát triển những nét đẹp
trong sinh hoạt văn hoá cổ truyền. Chính vì vậy các lễ hội có sức thu hút rất lớn
đối với nhân dân và du khách các nơi, nhất là khách du lịch quốc tế.
Do vậy cần phải tiến hành nghiên cứu quy trình các lễ hội để có được
chương trình hoạt động lễ hội, cũng như đầu tư xác định nội dung giới
thiệu về lịch sử, đặc điểm, mục đích, ý nghĩa... của các lễ hội cụ thể. Đó
chính là hoạt động nhằm thu hút khách du lịch, đồng thời cũng là trách
nhiệm biểu dương văn hoá dân tộc một cách nghiêm túc cho du khách về
nền văn hoá của địa phương.
c. Các đền - chùa
Lào là xứ chùa, tổng cộng Lào có 1.400 ngôi chùa. Do đó, tại đây nổi
tiếng như cảnh quan That Luong và chùa phra Keo, chùa Ông Tự, tức Vườn
Chư phật, quần thể hàng trăm bức tượng đúc theo phật thoại, trong vùng Thà-
Đừa, cách Viêng Chăn khoảng 25 km, gần cầu Hữu Nghị Lào -Thái Lan.
Ở thành phố Viêng Chăn có nhiều nơi du lịch văn hóa lịch sử, có nhiều
ngôi chùa và di sản văn hóa:
Thạt Luông hay Pha That Luong: (Thạt là lớn nhất trong tiếng Lào) là
một (stupa) phật giáo ở Viêng Chăn Lào. Thạt này được xây dựng từ năm 1566
dưới triều vua Xệt-thả-thi-lạt, theo hình một nậm rượu, trên một phế tích của
một ngôi đền Ấn Độ thế kỷ XIII. Bên ngoài ngôi chùa được dát vàng.
41
Thạt Luông ở Viêng Chăn được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVI, trên tàn
tích của một ngôi chùa theo phong cách khmer có sớm nhất từ thế kỷ XIII. Đến
thế kỷ XIX, ngôi chùa bị người Thái tàn phá nặng nề nhưng ngày sau đó nó đã
được khôi phục lại. Kiến trúc của ngôi chùa tiêu biểu cho những nét văn hóa
Lào. Ngày nay chùa That Luong được xem là biểu tượng quốc gia của Lào.
Kiến trúc ngôi chùa tháp mang phong cách văn hóa và bản sắc Lào và đã trở
thành một biểu tượng của quốc gia Lào, được in trên tiền giấy và quốc hay của
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Hiện nay khuôn viên chùa đã được rào lại
không cho xe vào, trước kia khách tham quan có thể lại xe chạy xung quanh
chùa. Theo truyền thuyết, trong tháp lưu giữ xá lợi của Đức phật là một sợi tóc
và rất nhiều châu báu. Thạt Luông gồm tháp chính cao 45 thước, bao quanh là
các tháp phụ, sơn tháp vàng.
Wat Sisaket (chùa Sisaket) là một trong những chùa cổ nhất Viêng Chăn,
được nhà vua Aouvong cho xây dưng vào năm 1818. Trong chùa có nhiều
tượng phật cổ, có giá trị nghệ thuật cao, niên đại từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX.
Cả ngôi chùa có chính xác là 6.840 tượng phật đủ các tích cỡ. Đáng chú ý,
trong giang chính điện một vài gian xung quanh, có rất nhiều pho tương cổ
bằng đồng mạ vàng rất quý hiếm.
Chùa (Wat) Phra Keo
Vào thăm chùa Phra Keo, chúng ta như lạc vào “thế giới nghệ thuật” bởi
những tác phẩm điêu khắc, chạm trổ và hiện vật quý hiếm đều dát bằng vàng,
bạc, ngọc thạch lung linh sắc màu.
Chùa Phra Keo không chỉ thờ tượng Phật, mà đây còn là một bảo tàng
trưng bày nhiều tác phẩm nghệ thuật đạo giáo Lào. Ở Viên Chăn, Wat Phra
Keo là ngôi chùa quan trọng và nổi tiếng chỉ sau That Luang.
Wat Si Muang
Ở giữa đường Setthathilath và Samsenthai có một ngôi chùa thể hiện rõ
nhất sự kết hợp của đức tin Phật giáo và tín ngưỡng nguyên thủy của Lào. Có
42
nhiều truyền thuyết liên quan đến ngôi chùa này nhưng có một có điều chắc chắn Si
Muang là tên của một người đàn bà mang thai cách đây khoảng 300 năm.
Ngôi chùa Si Muang được người Lào xây dựng nên để tôn thờ và tưởng
nhớ bà. Nếu đến Viên Chăn bạn có thể đến đây để làm lễ buộc chỉ cổ tay cầu
may, theo phong tục truyền thống của Lào.
Chùa Ong Tue
Chùa Ong Tue thuộc làng Mi Xay, huyện Chanthabuli cách chùa Phra Keo
khoảng 1 km. Ông Tự là tên gọi của pho tượng, nếu dịch Ông Tự có nghĩa đó là
pho tượng một triệu tấn.
Tại thành phố Viêng Chăn còn có nhiều danh lam thắng cảnh và chùa
như: Chùa Phar Keo, chùa Ong Teu Mahawihan, chùa Si Muang, Talat Sao
(Chợ Sớm), Bảo tàng Quốc gia Lào, Bảo tàng Kayson Phomvihan...
d. Ẩm thực
Ẩm thực Lào mang phong cách tương tự các quốc gia láng giềng là Căm
Pu Chia và Thái Lan: cay, chua và ngọt. Tuy nhiên, ẩm thực Lào lại có những
nét đặc trưng rất riêng. Ngoài cá nước ngọt thì thịt heo, gà, trâu, và vịt là những
thành phần quan trọng để nấu nướng nhiều món ăn thông thường.
Cơm Lam: là loại cơm đặc trưng của người Lào và một số dân tộc thiểu
số vùng Tây Bắc, và Tây Nguyên Việt Nam.
Lạp: tiếng Lào có nghĩa là may mắn, là món ăn truyền thống trong lễ hội
của người Lào và cũng là món ăn dân tộc gần gũi nhất của họ. Được làm từ thịt
động vật, thường là thịt bò, thịt hươu hoặc có thể là thịt trâu, cá. Thịt được băm
nhuyễn với rau bạc hà thái nhỏ và nước cốt chanh.
Xôi nếp Lào: Đến đất nước triệu voi, du khách thường ăn món xôi nếp,
thức ăn tuyền thống của người Lào. Nhân dân của bộ tộc Lào sống đa phần trên
các ngôi nhà sàn, được cất từ gỗ quý, sàn lát gỗ hay phên nứa rừng. Vì xôi nếp
là món ăn truyền thống nên gia đình nào ở nước này cũng có vài cái chỗ đựng
xôi, đan bằng tre, trúc.
43
Tam Maak Hung: Nếu chỉ điểm tên như thế thôi thì chưa đủ, ngoài các
món có thể gọi là “bình dân” kia Món Tam Maak Hung được coi là đặc sản Lào
hay còn gọi là nộm chay. Món ăn nổi tiếng này nguyên liệu bao gầm dưa muối,
đu đủ, đậu đũa,... giã rồi trộn chung với cùng hàng chục gia vị đem đến cho
mỗi thực khách một cảm nhận rất lạ khi nhấm nháp từng miếng, từng miếng
2.1.3. Các nhân tố khác
2.1.3.1. Cơ sở hạ tầng
Hiện nay, thành phố Viêng Chăn đang bước vào thời kỳ mới, ra sức thực
hiện nhiệm vụ đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tập trung phát triển công
nghiệp, dịch vụ, xây dựng kết cấu hạ tầng, triển khai nhiều dự án trọng điểm
của quốc gia. Thành phố Viêng Chăn là Thủ đô, là trung tâm văn hóa, thương
mại và hành chính của Lào, thủ đô Viêng Chăn cũng là trung tâm kinh tế lớn
nhất cả nước.
Cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật đang từng bước được cải thiện.
Năm 1994, cầu Hữu nghị chính thức được khánh thành, nối giữa Viêng Chăn
với tỉnh Nong Khai của Thái Lan, mở ra một hướng giao thông thuận lợi, tạo
điều kiện cho việc thông thương, phát triển kinh tế của thủ đô Viêng Chăn. Cơ
sở hạ tầng phục vụ cho các ngành kinh tế chủ đạo như nông nghiệp, công
nghiệp được chú trọng đầu tư phát triển. Viêng Chăn đã thu hút đầu tư và
khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài bằng cách thực hiện các chính
sách đã được xác định. Viêng Chăn đã mở rộng hợp tác về kinh tế, thương mại,
đầu tư hợp tác các nước trong khu vực.
Viêng Chăn là một trung tâm ngân hàng và tài chính của đất nước.
Trụ sở chính của Ngân hàng Nhà nước và nhiều tin Cung cấp dịch vụ tài
chính cho doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng như công
chúng nói chung.
44
a. Giao thông vận tải
Giao thông vận tải đang tiếp tục phát triển liên tục cả vận tải đường bộ,
đường thủy và hàng không đặc biệt là đương bộ được phát triển nhanh chóng.
Còn đường sắt kết nối biên giới Thái Lan - Lào, có con đường nối thành phố và
thành phố, làng và làng làm cho sự đi lại thoải mái.
- Đường bộ
Toàn thành phố có hơn 2500 km đường bộ có với các trục và tuyến giao
thông chính gồm: quốc lộ 13 Bắc và quốc lộ 13 Nam. Quốc lộ 13 Bắc là trục
giao thông chính nối với các tỉnh phía Bắc như tỉnh Viêng Chăn, Luongphabang,
Oudomxay, Luongnamtha, Quốc lộ 13 Nam là trục giao thông chính nối với
các tỉnh phía Nam đi qua tỉnh Borlikamxay, Khammuon, Savannakhet,
Salavan, Champasak với tổng chiều dài đi qua tỉnh là 510 km. Có 2 bến xe
chạy từ thành phố Viêng Chăn đến các huyện trong tỉnh, các tỉnh xung quanh
và 3 bến xe quốc tế: Viêng Chăn - Việt Nam như: Hà Nội,Thanh Hóa, Vịnh,
Huế, Đà Nẵng và Thành Phố Hồ Chí Minh; Viêng Chăn - Trung Quốc:
Khunming, Xieng Hung; Viêng Chăn - Thái Lan: Nong Khai, Bang Koc, Ou
Donthani, Xieng Mai, Leuoi.
- Đường sông
Thành phố Viêng Chăn còn có đường sông Mê Kông nối liền từ thành
phố Viêng Chăn - Luang Prabang - Bokeo với chiều dài hơn 500 km, có 3 bến
thuyền đáp ứng được nhu cầu giao thông vận tải nói chung và các hoạt động du
lịch nói riêng.
- Đường hàng không
Sân bay nội địa có nhiều tuyến bay với các tỉnh trong nước. Còn sân bay
quốc tế Wattay có các tuyến bay như: Viêng Chăn - Bang Kok, Viêng Chăn -
Hà Nội, Viêng Chăn - Thành phố Hồ Chí Minh, Viêng Chăn - Campuchia,
Viêng Chăn - Trung Quốc, Viêng Chăn - Singapore ,Viêng Chăn- Malaixia,
45
Viêng Chăn - Seoul. Nhìn chung mạng lưới giao thông của thành phố Viêng
Chăn thuận lợi cho hoạt động du lịch với trong và ngoài tỉnh, tuy nhiên chất
lượng mạng lưới thấp và nhiều nơi chưa đầu tư đúng mức. [9].
- Hệ thống điện
Hệ thống lưới điện ở thành phố Viêng Chăn ngày càng hoàn thiện đáp
ứng nhu cầu trong quá trình phát triển KT - XH trong 9 huyện, thành phố đã có
điện quốc gia, lấy từ nhà máy thủy điêṇ Nắm Ngưṃ qua các tuyến tỉnh Viêng
Chăn - thành phố Viêng Chăn. với hệ thống dây cao thế 115 KV thông qua
đường hạ thế 22 KV - 220V đáp ứng tốt cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của
người dân thành phố. Năm 2015 số lươṇg sử duṇg điêṇ là 939.494.937 Kwh,
(có giá tri ̣79.868.400 USD) [2].
- Cấp thoát nước
Hệ thống cung cấp nước cho chuyên dùng và sinh hoạt hiện nay ở thành
phố Viêng Chăn có 4 nhá máy nước với tổng công suốt 180.000 m3/ngày đêm
đến nay chỉ đảm bảo khoảng hơn 9.500 m3/ngày đêm. Còn các khu vực ngoại
thành chỉ được sử dụng nước 58% so với dân số người trong toàn thành phố,
hầu như còn thiếu hệ thống cung cấp nước tập trung. Do vậy, ở các khu du lịch
nguồn cung cấp nước chính là các nguồn nước sông, suối tại chỗ. Hệ thống
thoát nước và xử lý nước thải ở thành phố Viêng Chăn nhiều nơi chưa có hệ
thống thoát nước, số cũ đã xuống cấp gây ngập úng ở nhiều khu vực, nên dẫn
tới ô nhiễm môi trường.
- Hệ thống thông tin liên lạc
Mạng lưới bưu chính viễn thông rộng khắp và hiện đại đã góp phần đẩy
nhanh tốc độ phát triển kinh tế xã hội của thành phố. Cùng với sự phát triển
chung của thành phố về mọi mặt kinh tế - xã hội, mạng lưới bưu chính viễn
thông ngày càng được mở rộng, đưa thêm nhiều dịch vụ mới vào khai thác,
chất lượng dịch vụ được nâng cao, đáp ứng nhu cầu của phát triển kinh tế xã
46
hội của thành phố. Theo số liệu thống kê năm 2015, thành phố Viêng Chăn có
hơn 465.000 thuê bao điện thoại chiếm 9,16% tổng số thuê bao của cả nước.
Thành phố Viêng Chăn có cơ sở hạ tầng tương đối tốt, đặc biệt là mạng
lưới giao thông đường bộ và hệ thống thông tin liên lạc tạo điều kiện thuận lợi
cho công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình, thu hẹp dần khoảng cách về trình
độ phát triển kinh tế, nhận thức của người dân ở các vùng trong tỉnh.
2.1.3.2. Chính sách phát triển du lịch
Để thực hiện mục tiêu và chiến lược có hiệu quả cao với sức mạnh xúc
tiến và phát triển du lịch, trong những năm qua, UBND thành phố Viêng Chăn
luôn quan tâm, ưu tiên đầu tư phát triển du lịch, coi đây là một hướng chiến
lược quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Dựa trên quan
điểm đó, thành phố Viêng Chăn đã đề ra những chủ trương, biện pháp tích cực
để phát triển du lịch như sau: Mở rộng đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài
để phát triển ngành du lịch và phát triển cơ sở hạ tầng để hỗ trợ các dịch vụ du
lịch; Tăng cường quản lý đơn vị kinh doanh du lịch hoạt động theo pháp luật;
Khuyến khích các hiệp hội, hiệp hội du lịch, khách sạn, nhà nghỉ và nhà hàng
trên thị trường để thu hút khách du lịch từ các nước láng giềng đến thành phố
Viêng Chăn ngày càng nhiều; Chú ý tuyên truyền người dân địa phương để
duy trì nền văn hóa, phong tục và truyền thống hoạt động độc đáo của địa
phương tiềm năng của [5].
2.1.4. Đánh giá chung về các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch ở
thành phố Viêng Chăn
2.1.4.1. Thuận lợi
Thành phố Viêng Chăn là trung tâm kinh tế - xã hội của Lào, trên hành
lang trung chuyển KDL của cảng hàng không quốc tế (Wattay) và cửa khẩu
quốc tế cầu Hữu Nghị (Viêng Chăn-Nong khai), Viêng Chăn là các trung tâm
DL lớn của vùng miền Trung, có hệ thống giao thông thuận lợi nên đã có sức
47
hút lớn với KDL trên các tuyến DL có tính liên vùng, góp phần tạo ra không
gian DL mới đa dạng nhiều màu sắc.
Viêng Chăn có nguồn TNDL đa dạng, đặc biệt là TNDL nhân văn. Hầu
hết nguần tài nguyên này đã được qui hoạch thành các điểm DL và có sự kết
nối với nhau tạo thành các tuyến DL khác nhau.
Cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật đang từng bước được cải thiện, quá
trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ, chất lượng lao động ngày càng được nâng cao
cùng những chính sách phát triển KT - XH, là những lợi thế quan trọng để phát
triển DL của Viêng Chăn.
2.1.4.2. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi đã được đề cập, phát triển du lịch của thành
phố Viêng Chăn còn gặp một số khó khăn:
- Thiếu định hướng phát triển du lịch cho toàn khu vực nói chung, định
hướng phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch nói riêng. Các đề án, quy hoạch
phát triển du lịch cho toàn khu vực chỉ dừng lại ở định hướng chung chung,
thiếu các điều kiện áp dụng, tính khả thi không cao.
- Quy mô và chất lượng đào tạo ngồn nhân lực ngành du lịch chưa đáp
ứng được yêu c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_phat_trien_du_lich_cua_thanh_pho_vieng_chan_nuoc_co.pdf