Luận văn Phát triển kinh tế gắn với giảm nghèo huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang giai đoạn 2010 - 2015

Trang bìa phụ

Lời cam đoan. i

Lời cảm ơn.ii

Mục lục.iii

Danh mục chữ viết tắt .iv

Danh mục bảng biểu . v

Danh mục hình vẽ .vi

MỞ ĐẦU .1

1. Lí do chọn đề tài.1

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài .2

3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.2

4. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu .7

5. Những đóng góp của đề tài.11

6. Cấu trúc của luận văn .11

NỘI DUNG .12

Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 12

VÀ GIẢM NGHÈO .12

1.1. Cơ sở lý luận.12

1.1.1. Các nội dung liên quan đến phát triển kinh tế.12

1.1.2. Các nội dung liên quan đến xóa đói giảm nghèo .17

1.1.3. Các tiêu chí đánh giá phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo vận dụng cho cấp

huyện.23

1.1.4. Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và giảm nghèo.25

1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN .27

1.2.1. Khái quát về phát triển kinh tế và giảm nghèo vùng Trung du và miền núi

phía Bắc .27

1.2.2. Khái quát về phát triển kinh tế và giảm nghèo tỉnh Hà Giang .30

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1.34

Chương 2. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN

KINH TẾ GẮN VỚI XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO HUYỆN XÍN MẦN .35

2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế gắn với xóa đói giảm nghèo

huyện Xín Mần .35

2.1.1. Vị trí địa lí, phạm vi lãnh thổ.35

pdf120 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 26/02/2022 | Lượt xem: 398 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển kinh tế gắn với giảm nghèo huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang giai đoạn 2010 - 2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sử dụng đất Cơ cấu sử dụng đất của huyện Xín Mần như sau: Tính đến năm 2015, Xín Mần có 54.753,86 ha đất nông lâm nghiệp; đất phi nông nghiệp 1 689.49 ha (trong đó: đất ở 542,56ha; Đất chuyên dùng 805,51ha); đất chưa sử dụng 2.258,87 ha. Bảng 2.4. Hiện trạng đất nông nghiệp của huyện Xín Mần năm 2015 Stt Tên loại đất Diện tích (ha) 1 Nhóm đất nông nghiệp 54.753,86 2 Nhóm đất phi nông nghiệp 1.689,49 3 Nhóm đất chưa sử dụng 2.258,87 Tổng diện tích 58.702,22 Nguồn: Phòng thống kê huyện Xín Mần, Số liệu thống kê Kinh tế - xã hội giai đoạn 2005-2015. 2.1.2.5. Tài nguyên rừng Theo số liệu thống kê tính đến ngày 31/12/2016, thì đất lâm nghiệp có 27.268,64 ha, chiếm 46.45% so với tổng diện tích tự nhiên toàn huyện, trong đó rừng sản xuất 10.943,60 ha chiếm 40.13% tổng diện tích đất lâm nghiệp, rừng phòng hộ 16.325,04ha, chiếm 59.87 % tổng diện tích đất lâm nghiệp. Diện tích có rừng của Xín Mần phân bố hầu hết trên địa bàn các xã, tập đoàn cây rừng hiện có chủ yếu là cây gỗ tạp, tre, nứa, thông và một số loại gỗ quý hiếm. Môi trường sinh thái không tốt do đất trống đồi núi trọc đã ở ngưỡng báo động và có xu hướng gia tăng nếu như không có giải pháp thích hợp kịp thời.. Về chất lượng, một phần diện tích rừng ở Xín Mần hiện nay thuộc loại rừng non tái sinh, chất lượng và trữ lượng thấp, chỉ có tác dụng phòng hộ và cung cấp chất đốt. Tài nguyên rừng đang bị xuống cấp 43 về chất lượng, phẩm chất cây cũng như tỷ lệ các cây gỗ có giá trị cao ít (rừng nguyên sinh còn rất ít, hiện tại chủ yếu là còn rừng non, rừng tái sinh và rừng nghèo). Rừng giàu với các loại gỗ quý có giá trị kinh tế cao như lát, trò, chỉ, nghiến, táu, pơmu, hoàng đan, kim giao... tập trung ở một số địa bàn khu vực hiểm trở. Động vật rừng trước đây rất phong phú gồm nhiều loại chim thú quý như voọc đen má trắng, gấu ngựa, báo gấm... nhưng do diện tích rừng bị giảm mạnh trong những thập niên qua nên hầu hết các loài thú cũng suy giảm theo. Đặc biệt khu rừng nguyên sinh Đèo Gió lưu trữ một lượng lớn về tài nguyên rừng với các loại cây gỗ quý hiếm. Các loại gỗ quý như Sến,Vàng Tâm, Đinh, Lim, Nghiến, Lát, Ngọc Am, Gù Hương; Các dược liệu như Xuyên Khung, Tam Thất, Củ Mài, Sa Nhân, Hà Thủ Ô, Phục Linh; Các cây lấy nhựa, dầu như Xa Mộc, Thông, Trẩu; Các loại hoa quả như Lê, Đào, Mận; Các giống chim muông như Phượng Hoàng, Hổ, Báo, Hươu, Nai... Những năm gần đây được sự hỗ trợ của Nhà nước nên diện tích rừng của Xín Mần đã tăng đáng kể, bình quân tăng gần 2%/năm. Tuy nhiên do địa hình phức tạp, giao thông đi lại khó khăn nên việc quản lý rừng còn gặp nhiều khó khăn.Tình trạng đốt nương làm rẫy và khai thác lâm sản trái phép vẫn tái diễn, việc quy hoạch rừng và giao rừng cho hộ dân cũng là vấn đề khó khăn về địa bàn quản lý, về kinh phí hỗ trợ... nên chất lượng rừng thấp, chưa đảm bảo chức năng phòng hộ đầu nguồn và chưa đóng góp nhiều vào tăng trưởng kinh tế của huyện. 2.1.2.6. Tài nguyên khoáng sản Tuy chưa có tài liệu thăm dò, khảo sát về trữ lượng khoáng sản trên địa bàn huyện, nhưng nhìn chung trữ lượng khoáng sản của Xín Mần không đáng kể, ít chủng loại và không có khả năng khai thác quy mô lớn. Tài nguyên khoáng sản hiện nay đang được khai thác sử dụng đó là các loại vật liệu xây dựng như: đá vôi để rải đường, đất sét để sản xuất gạch ngói, cát dùng trong xây dựng. Một số loại khoáng sản có trên địa bàn huyện nhưng chưa được khảo sát: - Quặng Mi ca có ở Làng Việt xã Khuôn Lùng và Nà Chì. - Quặng Tuốc ma lin có ở xã Nà Chì. - Nước khoáng có ở Quảng Nguyên và Khuôn Lùng. 2.1.2.7. Tài nguyên du lịch Với lợi thế về vị trí nằm trên cung đường du lịch tuyệt đẹp của vùng núi phía Bắc 44 là: Xín Mần - Hoàng Su Phì - Bắc Hà - Sa Pa, lợi thế này là điều kiện thuận lợi để Xín Mần khai thác tiềm năng, phát triển du lịch - dịch vụ. Là huyện có địa bàn tự nhiên tương đối rộng và có những địa danh thắng cảnh mà không nơi nào có được như: Thác Tiên - Đèo Gió đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích Quốc gia. Tại đây du khách sẽ được tham gia vào tuor du lịch sinh thái khám phá thiên nhiên hoang sơ, bí ẩn của khu rừng nguyên sinh, khám phá cây sến cổ thụ trên 500 năm tuổi, di tích Bốt Đèo gió, xem trang trại nuôi cá tầm... và Thác Tiên. Cũng tại xã Nấm Dẩn, cách Danh lam thắng cảnh Quốc gia Thác Tiên - Đèo Gió khoảng chừng 5 km có di tích Bãi Đá cổ tại thôn Nấm Chanh. Di tích cự thạch Nấm Dẩn là loại hình di tích khảo cổ có niên đại khoảng 2.000 năm và rất hiếm có ở Việt Nam cũng đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích Quốc gia. Đây không chỉ là một trong những điểm du lịch hấp dẫn mà còn có giá trị về khảo cổ học và địa chất học, đang được địa phương gìn giữ và bảo tồn nguyên trạng. Cùng với đó, nhiều địa danh du lịch của Xín Mần đã đi vào những địa chỉ đỏ của Bản đồ du lịch Việt Nam như: Suối nước nóng Quảng Nguyên, hang Thiên Thủy xã Nàn Ma và nhiều điểm du lịch tâm linh như: Đền Thần Hoàng ở thị trấn Cốc Pài. Ngôi đền thờ người anh hùng Hoàng Vần Thùng đã có công khai phá mở vùng đất Xín Mần cũng là nơi bảo tồn văn hoá tín ngưỡng của các dân tộc địa phương. Những kết quả đó là hiệu quả của các hoạt động tuyên truyền quảng bá, xúc tiến đầu tư kêu gọi các tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài địa bàn huyện đầu tư vào lĩnh vực phát triển du lịch, dịch vụ trên địa bàn huyện. Thiên nhiên đã kỳ tạo cho Xín Mần nhiều thắng cảnh mà ở đó du khách sẽ được trải mình với thiên nhiên, khám phá những địa danh và hòa mình vào với cuộc sống sinh hoạt, các phong tục tập quán, tín ngưỡng, lễ hội, bản sắc văn hóa độc đáo như: Lễ hội Khu Cù Tê dân tộc La Chí, Lễ hội Đình Mường dân tộc Tày, Lễ hội Gầu Tào của dân tộc Mông, Lễ cấp sắc của dân tộc Dao, Lễ cúng rừng dân tộc Nùng, Mông... cùng với sắc hoa văn rực rỡ trên các sản phẩm thêu, dệt thổ cẩm của đồng bào nơi đây và nét văn hóa ẩm thực độc đáo của địa phương đã và đang đưa Xín Mần trở thành một trong những điểm đến hấp dẫn trong Bản đồ du lịch Việt Nam. Huyện Xín Mần có nhiều dân tộc như Mông, Dao, Nùng, Tày, La Chí, Phù Lácùng chung sống đoàn kết trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước. Điều đó chứng tỏ Xín Mần luôn là vùng đất có truyền thống văn hóa, truyền thống yêu nước và cách mạng. Các lễ hội và phong tục tiêu biểu như: khảo sát văn hóa dân tộc Nùng, La Chí; 45 phong tục tập quán lễ hội cũng rừng, tập quán sinh hoạt văn hóa dân ca, dân vũ, xây dựng làng văn hóa du lịch dân tộc Nùng, La Chí, Dao, truyền thuyết vua Gia Long. Với lợi thế hệ sinh thái tài nguyên rừng tự nhiên hết sức đa dạng và phong phú, nhiều điểm di tích lịch sử, nét văn hóa độc đáo, đậm đà bản sắc các dân tộc... là điều kiện để khai thác tiềm năng, xây dựng các sản phẩm du lịch đặc trưng về tâm linh, nghỉ dưỡng và đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển du lịch và dịch vụ trên địa bàn. Trong năm 2010 huyện Xín Mần đã tổ chức Lễ đón nhận bằng xếp hạng di sản thiên nhiên Quốc gia Thác tiên Đèo gió. Các điểm du lịch của huyện: Bãi Đá Cổ xã Nấm Dẩn, khu du lịch suối khoáng Nậm Choong xã Quảng Nguyên, Di tích lịch sử xã Nàn Ma, Rừng nguyên sinh đèo gió Thác Tiên, Núi Gia Long và các làng văn hóa du lịch. 2.1.3. Nhân tố kinh tế - xã hội huyện Xín Mần 2.1.3.1. Dân cư và nguồn lao động a. Dân số Tổng dân số năm 2015 có 65.211 người, bình quân trên 5 người/hộ. Mật độ dân số 111 người/km2. Dân cư phân bố trên địa bàn 19 xã, phân bố rải rác trên khắp địa bàn, ở không tập trung trừ các tổ dân phố. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 1,62%, tăng cơ học 0,1%. Bảng 2.5. Dân số và tỉ lệ gia tăng dân số, giai đoạn 2010- 2015 Năm 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Dân số ( nghìn người) 59.201 60.309 60.939 61.538 62.700 65.211 Tỷ lệ tăng dân số ( %) 2,03 2,01 2,10 1,958 1,90 1,62 Nguồn: Phòng thống kê huyện Xín Mần, Báo cáo thực hiện kinh tế - xã hội huyện Xín Mần (2005, 2010, 2013, 2015). Toàn huyện có 18 dân tộc anh em cùng chung sống (Nùng, Mông, Tày, Dao, La Chí, Kinh, Phù Lá, Hoa, Pà Thẻn, Cao Lan, Mường, Ngạn, Bố Y, Khmer, Giấy, Cơ Lao, Sán Dìu, Sán Chay). Trong đó có một số dân tộc là người bản địa như Nùng, Mông, La Chí, Phù Lá, Tày, Dao Theo số liệu thống kê, năm 2015 dân số trung bình của huyện Xín Mần có 65.211 người, trong đó dân tộc thiểu chiếm 98%). Dân tộc Nùng chiếm 42,33%; dân tộc Mông chiếm 24,30% dân số, dân tộc Tày chiếm 14,38%, còn lại là các dân tộc La Chí, Dao, Phù lá, Kinh, Hoa.... Phần lớn các dân tộc thiểu số có trình độ dân trí thấp, đời sống còn du canh du cư. Tốc độ tăng dân số tự nhiên của Xín Mần bình quân 46 1,71%. Tổng số lao động có 23.800 người, chiếm 43,75% dân số. Số lượng lao động rất dồi dào, song chủ yếu là lao động nông nghiệp, tập trung ở nông thôn. Bảng 2.6. Cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế của huyện Xín Mần năm 2011 và năm 2015 (Đơn vị: %) Cơ cấu lao động Năm 2011 Năm 2015 Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 85,0 78,0 Công nghiệp và xây dựng 10 8,0 Dịch vụ 5,0 14,0 Tổng 100,0 100,0 Nguồn: Phòng thống kê huyện Xín Mần, Báo cáo thực hiện kinh tế - xã hội huyện Xín Mần (2010, 2015). Về chất lượng nguồn nhân lực: Nói chung lực lượng lao động có truyền thống cần cù chịu khó, tích lũy kinh nghiệm và có sáng tạo trong lao động sản xuất. Song, tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp, chỉ đạt 8% trong tổng số lao động. Lực lượng lao động được đào tạo hầu hết tập trung ở các cơ quan đơn vị khu vực nhà nước. Bảng 2.7. Lực lượng lao động và tỉ lệ lao động giai đoạn 2010-2015 Năm Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên ( nghìn người) Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc ( nghìn người) Tỷ lệ lao động qua đào tạo ( %) 2010 36,589 33,121 33,5 2011 37,392 33,653 34 2012 37,782 34,004 20 2013 38,154 34,339 20 2014 38,874 34,987 23,2 2015 39,547 35,592 25 Nguồn: Phòng thống kê huyện Xín Mần, 2017 47 2.1.3.2. Hệ thống đô thị và các khu dân cư nông thôn a. Thực trạng phát triển đô thị Xín Mần có 1 thị trấn duy nhất là Cốc Pài với tổng diện tích tự nhiên là 1.643,26 ha, trong đó diện tích đất ở đô thị là 32,79 ha, với chức năng vai trò là trung tâm chính trị - kinh tế - xã hội của huyện nên thị trấn không ngừng được đầu tư phát triển, mở rộng theo các trục giao thông, bộ mặt kiến trúc đô thị được chỉnh trang, cơ sở hạ tầng đô thị được đầu tư xây dựng, vị trí đô thị ngày càng được khẳng định trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Tuy nhiên trong quá trình phát triển và sử dụng đất đô thị của huyện vẫn còn nhiều tồn tại, đó là: Hình thái sử dụng đất mang tính chất đô thị hiện đại mới chỉ thể hiện ở một khu vực trung tâm và vẫn còn mang dáng dấp nông thôn. Cơ sở kinh tế - kỹ thuật tạo động lực phát triển đô thị cũng như cơ sở hạ tầng trong các đô thị còn yếu kém, chưa đảm bảo các tiêu chuẩn phát triển bền vững của đô thị trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quá trình phát triển chưa đồng bộ trong quy hoạch mở rộng đô thị và đô thị hoá các khu dân cư nông thôn. b. Thực trạng khu dân cư nông thôn Huyện Xín Mần là huyện miền núi, toàn huyện có 18 xã, hàng trăm bản làng với tổng dân số nông thôn là 47.741 người. Hệ thống dân cư nông thôn của Xín Mần phân bố không đồng đều, mật độ dân số dao động từ 43 người/km2 (xã Quảng Nguyên) đến 199 người/km2 (xã Bản Díu). Các điểm dân cư nông thôn ở huyện miền núi Xín Mần đời sống còn thấp, điều kiện xã hội và kỹ thuật hạ tầng chưa phát triển. Việc xây dựng phát triển còn chậm và mang tính tự phát, chưa có sự quản lý. Nhìn chung các khu dân cư nông thôn của huyện chủ yếu là sản xuất nông, lâm nghiệp, đời sống của nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, do thiếu nhiều điều kiện hạ tầng kỹ thuật và xã hội, việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở khu vực nông thôn tuy đã được quan tâm nhưng vẫn còn chậm và chưa đồng bộ, chưa có sự quản lý chặt chẽ nhất là ở khu vực vùng sâu, vùng xa. Việc bảo vệ môi trường ở các khu vực nông thôn có nhiều hạn chế, chất thải, rác thải sinh hoạt chủ yếu vẫn tự phát theo phương pháp truyền thống, chưa có quy định cụ thể gây ô nhiễm nguồn nước, môi trường đất, không khí,... 48 Hình 2.2. Bản đồ nguồn lực phát triển kinh tế huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang 49 2.1.3.3. Hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội a. Hạ tầng giao thông Trong 5 năm qua huyện Xín Mần đã triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình 135 giai đoạn II và một số dự án đóng trên địa bàn. Tại nhiều xã đường liên xã và liên bản, liên xóm được nâng cấp cải tạo, tạo dựng một diện mạo mới cho vùng nông thôn và tạo thuận lợi lớn cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Tính đến nay toàn huyện có khoảng 220 km giao thông đường bộ, gồm có các loại đường như sau: - Hệ thống đường tỉnh: đường tỉnh trên địa bàn Xín Mần có 3 tuyến với chiều dài trên 213 km. Hiện nay sở Giao thông Vận tải Hà Giang đang quản lý và duy tu bảo dưỡng, còn lại do huyện quản lý. Trong đó: một số tuyến đường quan trọng đã được nâng cấp rải nhựa: đường Hoàng Su Phì - Xín Mần; đường Xín Mần - Mốc 5, đường Yên Bình - Nà Chì - Cốc Pài - Đường nội thị gồm 9,9 km gồm đường bao nội huyện và đường trục chính, hiện nay đã được rải nhựa, chất lượng tương đối tốt. - Đường huyện: Tổng số chiều dài 162,8 km, trong đó có 24,3 km đường rải nhựa, còn lại là đường đất. Trong đó: Đường Cốc Pài - Pà Vầy Sủ dài 15,5 km hiện trạng đường rải nhựa, đường cấp IV chất lượng trung bình; Đường Cốc Pài - Bản Ngò dài 5,0 km hiện trạng đường rải nhựa, đường cấp IV chất lượng trung bình;Đường trung tâm cụm xã Xín Mần dài 1,8 km hiện trạng đường rải nhựa, đường cấp IV chất lượng trung bình. - Đường xã: Hệ thống giao thông đường xã những năm qua phát triển khá nhanh. Hiện tại toàn huyện có 36 km đường giao thông nông thôn với tổng cộng 74 tuyến, trong đó chủ yếu là đường loại B, đường dân sinh có chiều rộng từ 2,5 m đến nhỏ hơn 4 m. Trong toàn huyện có 9 xã có đường rải nhựa đến trung tâm xã, còn lại 10 xã chưa được nâng cấp, hiên tại chưa đảm bảo giao thông đi lại 4 mùa. Đường xã là loại đường cấp thấp, phần lớn là do nhân dân tự làm nên hệ thống thoát nước chưa được xây dựng, mặt đường là mặt đất, đá tự nhiên, về mùa mưa bị sạt lở nhiều. Đến năm 2015, 100% số xã có đường ô tô từ huyện đến xã được trải nhựa nâng cấp hoặc bê tông; 100% thôn bản có đường xe cơ giới đến được. Nhìn chung mạng lưới giao thông của Xín Mần trong thời gian gần đây đã được tăng cường đầu tư, song do nguồn kinh phí ít, công tác duy tu bảo dưỡng chưa được thực hiện tốt và thường xuyên nên hầu hết các tuyến giao thông nông thôn có chất lượng xấu, xe ô tô chỉ 50 đi lại được trong mùa khô. Đặc biệt các tuyến giao thông đến các xã, bản vùng cao, vùng sâu, vùng xa đều là đường đất,chất lượng xấu, việc đi lại gặp nhiều khó khăn. b. Thủy lợi Các công trình thủy lợi đã góp phần đáng kể trong việc khai hoang mở rộng diện tích, thâm canh tăng vụ và tăng năng suất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đồng thời góp phần giải quyết nước sinh hoạt cho một bộ phần đồng bào vùng thiếu nước. trong những năm qua hệ thống thủy lợi của huyện Xín Mần đã từng bước được đầu tư tưới chủ động cho trên 50% diện tích lúa vụ mùa. Huyện đã xây dựng mới hàng trăm công trình thủy lợi. Tuy nhiên do địa hình chia cắt mạnh, độ dốc lớn nên hầu hết hệ thống công trình thủy lợi đều có quy mô nhỏ, toàn huyện có 415 công trình thủy lợi hệ tự chảy và chủ yếu tưới tiêu về mùa mưa, còn vụ đông xuân nguồn nước mạch cạn kiệt nên không chủ động được tưới tiêu, diện tích phục vụ ít, hàng năm ảnh hưởng bởi lũ quét và sạt lở đất nên một số công trình bị hư hỏng, hiệu quả tưới chưa cao. Nguồn vốn hàng năm đầu tư cho thủy lợi so với nhu cầu còn thấp... Trong những năm qua các công trình thuỷ lợi được xây dựng trên thực tế còn tồn tại những khuyết điểm cần được khắc phục. Hệ thống thuỷ nông thực sự còn rất yếu kém, thực tế chỉ có khoảng 25% công trình thuỷ nông được đầu tư hoàn chỉnh. c. Hệ thống mạng lưới điện, bưu chính viễn thông Hệ thống điện lưới quốc gia được chú trọng đầu tư, đến nay 19/19 xã đã có hệ thống điện lưới quốc gia đến trung tâm xã và một số thôn với 78% tổng số thôn có điện lưới quốc gia. Trong những năm qua huyện đã có nhiều chính sách kêu gọi, thu hút các nhà đầu tư vào lĩnh vực khai thác thủy điện, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đẩy nhanh tiến độ xây dựng nhà máy thủy điện Nậm Ly 1, Nậm Ly 2, thủy điện điện bậc thang Thèn Phàng, kéo điện Quốc gia đến các thôn chưa có điện của các xã. Sản lượng điện sản xuất ra không ngừng tăng lên qua các năm, năm 2008 sản lượng điện 0,8 triệu KW/h, năm 2010 tăng lên 5 triệu KW/h, góp phần phục vụ đắc lực cho sản xuất và đời sống của bà con đồng bào các dân tộc. Chi nhánh điện Xín Mần hiện đang thực hiện quản lý số lượng 153,620 km, đường dây trung áp 35 KV và 185,751 km đường dây hạ áp với 57/58 trạm biến áp đang vận hành, có 02 trạm biến áp chuyên dùng của khách hàng và 02 trạm biến áp được xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách địa phương (Đỉnh đèo gió và Đán Khao Bản Ngò). d. Hệ thống nước sinh hoạt 51 Trong những năm gần đây huyện đã có một số công trình cấp nước sinh hoạt cho trung tâm xã hoặc thôn bản được đầu tư từ chương trình nước sạch và chương trình 134. Tỷ lệ hộ được sử dụng nước sạch năm 2015 đạt 100% ở thị trấn, đạt 70% ở khu vực nông thôn. Hệ thống bể nước ăn cho hộ gia đình đã được triển khai xây dựng có hiệu quả bằng các nguồn vốn của các dự án định canh định cư, chương trình 120..., các nguồn vốn tài trợ bởi các tổ chức trong và ngoài nước đã phần nào đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt của nhân dân. Trong thời gian tới, để đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu về nước sạch sinh hoạt cho đồng bào, huyện cần tiếp tục quan tâm xây dựng các hồ chứa nước nhằm dự trữ nguồn nước trong mùa mưa, xây dựng các bể chứa nước đầu nguồn, bể lọc, bể áp lực sau đó dẫn nước về các xóm thông qua hệ thống ống dẫn. Đây là những việc làm cần thiết và cấp bách của Đảng bộ và chính quyền huyện Xín Mần trong tương lai gần nhằm đảm bảo nguồn nước sinh hoạt,góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho đồng bào các dân tộc. đ. Giáo dục và đào tạo, y tế và chăm sóc sức khỏe cộng đồng Công tác giáo dục - đào tạo luôn là một trong những lĩnh vực được Đảng, Nhà nước và nhân dân trong toàn huyện được quan tâm hàng đầu. Trong những năm qua, cơ sở trường lớp, trang thiết bị dạy và học thường xuyên được đầu tư nâng cấp. Phong trào khuyến học ngày càng được mở rộng trên địa bàn. Thực trạng phát triển giáo dục và hạ tầng giáo dục đào tạo: Toàn huyện có 62 trường học, 1 TTGDNN-GDTX, 5 năm qua xây dựng 150 phòng học kiên cố, nâng tổng số phòng học kiên cố đạt 75%. Về xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia đến năm 2015 đạt 12 trường, chất lượng giáo dục được nâng lên, tỷ lệ học sinh chuyển lớp, chuyển cấp đạt 99% năm 2015 hoàn thành phổ cập giáo dục Mầm non cho trẻ 5 tuổi. 100% giáo viên cán bộ quản lý giáo dục đạt chuẩn và trên chuẩn. Thực trạng phát triển y tế hạ tầng y tế: Mạng lưới y tế từ huyện đến xã được củng cố dần hoàn thiện, toàn huyện có tổng số giường bệnh 224 giường, tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ dưới 5 tuổi còn 25,09%, 28 giường bệnh /vạn dân; 6,3 bác sĩ và dược sĩ đại học/ vạn dân; 78% xã đạt chuẩn quốc gia. Về y tế : 9/18 trạm y tế xã có bác sĩ, 100% số thôn có nhân viên y tế thôn bản đạt chuẩn, tỉ lệ trẻ dưới 1 tuổi được tiêm 7 loại vắc xin đạt trên 95% [24]. 52 Cơ sở hạ tầng, trang thiết bị phục vụ công tác khám chữa bệnh của các cơ sở y tế từng bước được hoàn thiện và nâng cấp, cơ bản đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho nhân dân trên địa bàn và các vùng lân cận. Đến nay 19/19 xã, thị trấn có trạm y tế 2 tầng, toàn huyện có 1 bệnh viện trung tâm, 2 phân viện khu vực, 17 trạm y tế xã với tổng số 172 giường bệnh, bình quân đạt Các chương trình y tế Quốc gia trên địa bàn được triển khai thực hiện tốt. Công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân hoạt động có hiệu quả, nhất là chương trình khám chữa bệnh cho người nghèo theo quyết định 139 của Chính phủ. Các dịch bệnh như sốt rét đã được khống chế. Thực hiện có hiệu quả các chương trình về dân số, gia đình, chương trình mục tiêu vì trẻ em, phối hợp tốt công tác quân dân y kết hợp, phối hợp cùng với Đồn biên phòng 219 và Đoàn 314 trong công tác khám bệnh cho nhâ dân, tuyên truyền vệ sinh phòng bệnh trong thôn bản, tiêm chủng, giám sát các loại dịch bệnh xảy ra trên địa bàn. Tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm và uống vacxin đạt trên 90%. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm bình quân 1,35%/năm, còn 22%. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm bình quân 0,03%/năm, còn 1,68%. Tuy cơ sở vật chất của ngành đã được cải thiện song nhìn chung còn nghèo đặc biệt là các xã vùng sâu, vùng xa. Lực lượng cán bộ y tế của huyện còn thiếu và yếu cần phải tăng cường cả về số lượng và chất lượng nhất là bác sỹ chuyên khoa sâu chưa đáp ứng được yêu cầu khám chữa bệnh và tăng cường cho các xã. Do đó trong giai đoạn tới cần quan tâm đầu tư cho ngành y tế nhằm nâng cao chất lượng phục vụ, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của huyện. e. Văn hóa - Thông tin và truyền thông và thể thao - Thực trạng về phát triển văn hóa thông tin và hạ tầng văn hóa thông tin cơ sở: các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, lễ hội thể dục, thể thao gắn với du lịch tổ chức ngày càng nhiều hơn, chất lượng nội dung tốt hơn. Duy trì tốt các chương trình phát thanh, truyền thanh, truyền hình đạt 100% , tỷ lệ phủ sóng phát thanh truyền hình đạt 100%, tỷ lệ hộ xem truyền hình đạt 95%. - Thực trạng phát triển thể dục thể thao và hạ tầng cơ sở vật chất thể dục thể thao. Huyện duy trì 200 đội thể dục thể thao cơ sở; gần 13 nghìn người luyện tập thể dục thể thao ở trung tâm huyện và các xã duy trì số trường học TDTT nội khóa 41 trường, ngoại khóa 25 trường. Huyện khuyến khích mọi tầng lớp nhân dân tích cực tham gia hưởng ứng luyện tập thể dục thể thao rèn luyện sức khỏe. 53 2.1.3.4. Chính sách phát triển kinh tế xã hội Chính sách Hỗ trợ sản xuất, dạy nghề, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người nghèo. Chính sách vay vốn tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo, hộ cận nghèo: Thực hiện cơ chế cho vay uỷ thác qua các tổ chức đoàn thể, Ngân hàng Chính sách xã hội đã giải ngân cho vay được 62.823 lượt hộ nghèo, 5.961 lượt hộ cận nghèo với số tiền 938,88 tỷ đồng; Tổng dư nợ hiện đạt 64.702 hộ = 1.099,93 tỷ đồng. Chính sách dạy nghề và tạo việc làm cho lao động nông thôn, lao động nghèo. Thực hiện Đề án 1956 về đào tạo nghề cho lao động nông thôn và Nghị quyết 30a của Chính phủ, đã tổ chức tuyển sinh đào tạo nghề cho 5.909 người trong đó hệ Trung cấp nghề cho 290 người, sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng 5.619 người. Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề từ 7% năm 2010, hết năm 2015 tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 28 % trong đó lao động qua đào tạo nghề 20,06%. Thông qua các chương trình, dự án đã giải quyết việc làm cho 7.193 lao động, bình quân mỗi năm giải quyết việc làm cho trên 1.438 người, trong đó đi xuất khẩu lao động và làm việc ngoài tỉnh 846 lao động (XKLĐ 3 người); cho vay 4.485 dự án vốn Quỹ quốc gia về việc làm với doanh số cho vay 116.564 triệu đồng, giải quyết việc làm cho 9.605 lao động; Chính sách khuyến nông: Tổ chức tập huấn kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, cho 2.501 lượt người tham gia, triển khai 18 mô hình khảo nghiệm giống đậu tương, giống ngô, lúa năng suất, chất lượng cao để nhân rộng và hỗ trợ giống lúa, phân bón. Chính sách Hỗ trợ về giáo dục - đào tạo: Thực hiện miễn giảm học phí và hỗ trợ chi phí học tập cho 38.006 học sinh; trợ cấp tiền ăn cho học sinh bán trú người dân tộc thiểu số 56.577 lượt hs; 42.812 lượt trẻ em mẫu giáo được hỗ trợ tiền ăn trưa; với số kinh phí thực hiện 208.741,11 triệu đồng. Số học sinh bán trú được hỗ trợ gạo 6.019 hs. Nhờ các chính sách hỗ trợ của Nhà nước mà con em hộ nghèo có điều kiện tham gia học tập đầy đủ. Chính sách hỗ trợ về y tế: Tổ chức thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân, phòng bệnh, khám chữa bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm. Cấp thẻ BHYT cho 287.396 người trong đó 36.737 người thuộc hộ nghèo, 250.659 người dân tộc thiểu số, 43.877 trẻ em dưới 6 tuổi, 222 đối tượng cựu chiến binh và 240 đối tượng dân tộc. Khám chữa bệnh miễn phí cho 188.866 lượt người nghèo, người dân tộc thiểu số và trẻ em dưới 6 tuổi. Thực hiện hỗ trợ tiền ăn và tiền đi đường cho bệnh nhân thuộc hộ nghèo 54 và người dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn cho 30.008 lượt bệnh nhân với kinh phí 8.089 triệu đồng. Chính sách Hỗ trợ các đối tượng Bảo trợ xã hội: Thực hiện các chính sách an sinh xã hội, đã trợ giúp đột xuất thiên tai, hoả hoạn, trợ cấp cứu đói giáp hạt cho 8.652 lượt hộ = 43.519 khẩu. Thực hiện hỗ trợ tiền điện theo Quyết định số 268/QĐ-TTg và hỗ trợ trực tiếp cho người dân thuộc hộ nghèo vùng khó khăn Quyết định số 102/2009/QĐ-TTg tổng số 37.111 hộ nghèo, hộ chính sách xã hội. Ngoài ra, các hoạt động kêu gọi và tổ chức tiếp nhận

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_phat_trien_kinh_te_gan_voi_giam_ngheo_huyen_xin_man.pdf
Tài liệu liên quan