Luận văn Phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi tại huyện Tân yên, tỉnh Bắc Giang

DANH MỤC CÁC BẢNG .i

DANH MỤC CÁC HÌNH .ii

MỞ ĐẦU.3

1. Tính cấp thiết của đề tài .3

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .4

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .5

4. Kết cấu luận văn.5

Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN

VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI CHĂN NUÔI.6

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.6

1.1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài. 6

1.1.2. Các kết quả nghiên cứu chủ yếu và “khoảng trống” trong nghiên

cứu. 9

1.2. Kinh tế trang trại .9

1.2.1. Khái niệm và đặc trưng của kinh tế trang trại. 9

1.2.2. Nguồn gốc hình thành kinh tế trang trại . 13

1.2.3. Vai trò của kinh tế trang trại. 14

1.2.4. Tiêu chí nhận dạng kinh tế trang trại ở Việt Nam. 16

1.3. Phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi.16

1.3.1. Một số khái niệm. 16

1.3.2. Nội dung của phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi. 18

1.3.3. Tiêu chí đánh giá phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi của một

địa phương (tỉnh, huyện) . 27

pdf29 trang | Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 711 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi tại huyện Tân yên, tỉnh Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
áp nghiên cứu Chương 3: Thực trạng phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi tại huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang Chương 4: Định hướng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi tại huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang 6 Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI CHĂN NUÔI 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 1.1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài - GS.TS. Trần Đức, Hội Khoa học kinh tế Việt Nam, trong công trình nghiên cứu “Kinh tế trang trại vùng đồi núi”, NXB Thống Kê, năm 1998, đã nhấn mạnh hiệu quả kinh tế và những tác động tích cực về môi trường và xã hội khi phát triển kinh tế trang trại ở các tỉnh miền núi, trong đó có trang trại chăn nuôi. Tuy nhiên, theo tác giả, khó khăn lớn nhất cản trở sự phát triển của mô hình này chính là thói quen, tập quán sản xuất manh mún, nhỏ lẻ của bà con nông dân. Hơn thế nữa, tác giả Trần Đức cho rằng, trình độ dân trí chưa cao đã ảnh hưởng lớn đến hiệu quả chuyển giao công nghệ cho nông dân vùng nông thôn, miền núi. - Đề tài cấp Nhà nước “Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam” do Thủ tướng Chính phủ giao cho Trường Đại học Kinh tế Quốc dân chủ trì nghiên cứu từ năm 1999 đến năm 2000, (GS.TS.Nguyễn Đình Hương làm chủ nhiệm). Đề tài đã đề xuất một số giải pháp cụ thể về đất đai, về vốn, về phát triển nguồn nhân lực, về thị trường, về khoa học – công nghệ, về phát triển hạ tầng nông thôn, về phát triển công nghiệp chế biến và tăng cương quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại. Kết quả nghiên cứu của đề tài cũng đã được xuất bản thành sách: “Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam” do GS.TS.Nguyễn Đình Hương làm chủ biên (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000). - Trong cuốn giáo trình Kinh tế nông nghiệp do Vũ Đình Thắng chủ biên, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, năm 2006, có một phần nghiên cứu về kinh tế trang trại. Ở đây, các tác giả đã đưa ra khái niệm về trang trại “là một hình thức tổ chức sản xuất tập trung trong nông, lâm, thủy sản với mục đích chủ yếu là sản xuất hàng hóa, có quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất đủ lớn, có trình độ kỹ thuật cao, tổ chức và quản lý hiện đại” (17, Trang 56). Cuốn sách cũng đã đưa ra những đặc trưng cơ bản của kinh tế trang 7 trại. Đồng thời các tác giả cũng nghiên cứu nguồn gốc hình thành và phát triển kinh tế trang trại ở nước ta từ sau đổi mới. Cuối cùng, các tác giả phác thảo một số giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở nước ta gồm những giải pháp trước mắt và những giải pháp cơ bản, lâu dài (Trang 58-60). - Trần Lệ Thị Bích Hồng, 2007.“Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế trang trại tại địa bàn huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên”. Luận văn thạc sỹ kinh tế, Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh - Đại học Thái Nguyên. Tác giả đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về kinh tế trang trại ở Việt Nam, tổng kết những mô hình, kinh nghiệm phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam. Chỉ ra thực trạng phát triển của các mô hình kinh tế trang trại của Đồng Hỷ trong những năm vừa qua trong đó có trang trại chăn nuôi; Đồng thời phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển cũng như hiệu quả của các mô hình kinh tế trang trại của Đồng Hỷ; Đưa ra một số các giải pháp nhằm phát triển kinh tế trang trại ở huyện Đồng Hỷ trong những năm tới. Tuy nhiên, luận văn nghiên cứu và đưa ra giải pháp dựa trên đặc thù vùng miền, định hướng phát triển loại hình kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Đồng Hỷ chưa sâu. - Lý Văn Toàn, 2007.“Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển mô hình kinh tế trang trại trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên”. Luận văn thạc sỹ kinh tế nông nghiệp, Đại học Kinh tế Thái Nguyên. Luận Văn đã nghiên cứu và đánh giá được thực trạng phát triển kinh tế trang trại của tỉnh Thái Nguyên, từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp đối với các mô hình kinh tế trang trại của địa phương, đề tài đã nêu lên được sự so sánh hiệu quả kinh tế giữa các mô hình, các vùng khác nhau, từ đó có thể đánh giá được các yếu tố bên ngoài và các yếu tố bên trong tác động đến phát triển kinh tế trang trại, trong đó có trang trại chăn nuôi. - Nguyễn Thành Nam, 2008. “Nghiên cứu các giải pháp phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên”. Luận văn thạc sỹ kinh tế Nông nghiệp, Đại học Kinh tế Thái Nguyên. Những năm qua, sản xuất nông nghiệp của huyện miền núi Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên đạt được nhiều tiến bộ quan trọng. Nhưng để ngành nông nghiệp của huyện đáp ứng yêu cầu phát triển trong thời kỳ mới thì phải hợp lý hóa, hiệu quả hóa sản xuất nông 8 nghiệp nhằm khai thác một cách triệt để tiềm năng về đất đai cũng như khả năng lao động của con người vùng miền núi này, mô hình kinh tế trang trại là phù hợp hơn cả. Kinh tế trang trại của huyện Đại Từ, trong đó có trang trại chăn nuôi đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, nhưng vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng đó. Nghiên cứu hướng đến mục tiêu trả lời các câu hỏi đặt ra là: Khả năng phát triển kinh tế trang trại của huyện Đại Từ đến đâu? Làm sao để mô hình được áp dụng đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất? - Phan Ấn Quốc, 2011. “Một số giải pháp phát triển kinh tế trang trại tỉnh Kon Tum”. Luận văn thạc sỹ kinh tế, Đại học Đà Nẵng. Tác giả đã hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về trang trại, phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam và một số nước trên thế giới; phân tích đánh giá tình hình thực hiện các chính sách phát triển kinh tế trang trại, trong đó có kinh tế trang trại chăn nuôi của tỉnh Kon Tum; xác định định hướng, mục tiêu phát triển kinh tế trang trại và đề xuất giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả công tác đẩy mạnh mở rộng sản xuất theo mô hình kinh tế trang trại ở địa bàn tỉnh trong thời gian tới. Tuy nhiên tác giả đưa ra giải pháp còn mang tính lý thuyết, chưa đề cập đến giải pháp phát triển phù hợp với đặc điểm chính trị - xã hội của địa phương. - Trần Quốc Đạt, 2012. “Một số giải pháp phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam”. Luận văn thạc sỹ kinh tế phát triển, Đại học Kinh tế Đà Nẵng. Phần cơ sở lý luận của nghiên cứu này nêu khá đầy đủ tổng quan về kinh tế trang trại, phân tích các nhân tố tác động đến sự phát triển của nó. Trong phần thực trạng, đề tài đã phân tích, đánh giá thực trạng phát triển kinh tế trang trại của huyện Đại Lộc, trong đó có kinh tế trang trại chăn nuôi. Nghiên cứu cũng đưa ra các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm của các trang trại và phát triển thị trường tiêu thụ. - Trương Thành Long, 2014. “Phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình”. Luận văn thạc sỹ kinh tế chính trị, trường Đại học kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội. Tác giả luận văn đã hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về phát triển kinh tế trang trại, phân tích đánh giá thực trạng phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Đề xuất một số giải pháp phát triển kinh tế 9 trang trại tại huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2015 – 2020. 1.1.2. Các kết quả nghiên cứu chủ yếu và “khoảng trống” trong nghiên cứu. 1.1.2.1. Những kết quả nghiên cứu chủ yếu Các công trình nghiên cứu từ các góc độ khác nhau, ở các mức độ khác nhau đã nghiên cứu về phát triển kinh tế trang trại, trong đó có đề cập đến kinh tế trang trại chăn nuôi cả về lý luận và thực tiễn ở tầm vĩ mô và vi mô, trong đó có cấp huyện. Nhìn chung, các công trình đã có sự tương đối thống nhất về khái niệm, vai trò, đặc trưng của kinh tế trang trại, các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế trang trại, ...Một số công trình nghiên cứu đã đề xuất các giải pháp để phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn một tỉnh, huyện cụ thể và trong cả nước. Đó là những tài liệu quý báu để tác giả luận văn tham khảo trong quá trình thực hiện đề tài luận văn. 1.2.1.2. “Khoảng trống” trong nghiên cứu - Dường như chưa có công trình nào nghiên cứu về phát triển kinh tế trang trại từ góc độ của khoa học quản lý kinh tế. - Hầu như chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên biệt về phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi. Nhìn chung kinh tế trang trại chăn nuôi chỉ được đề cập đến như một loại hình trang trại trong kinh tế trang trại khi nghiên cứu về kinh tế trang trại nói chung cả về lý luận và thực tiễn. - Cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu về phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi từ góc độ của chuyên ngành quản lý kinh tế tại huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang. Luận văn này đi sâu nghiên cứu phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi trên địa bàn huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang từ góc độ của chuyên ngành quản lý kinh tế. 1.2. Kinh tế trang trại 1.2.1. Khái niệm và đặc trưng của kinh tế trang trại 1.2.1.1. Khái niệm kinh tế trang trại  Trang trại Khi nghiên cứu quá trình phát triển kinh tế trong nông nghiệp, các nhà kinh tế thấy rằng, khi công nghiệp phát triển thì nhu cầu về sản phẩm nông nghiệp phục vụ cho tiêu dùng, làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và hàng xuất khẩu tăng lên rất lớn. Để 10 đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về sản phẩm nông nghiệp thì không thể dựa vào hình thức sản xuất nông hộ với quy mô nhỏ lẻ, manh mún với phương thức canh tác lạc hậu, sản xuất tự cung, tự cấp. Như vậy, để đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội thì đòi hỏi các hộ nông dân phải sản xuất theo hướng hàng hóa, tập trung với quy mô lớn và hình thành nên các nông trại hay trang trại như ngày nay. Hiện nay, trong các tài liệu nghiên cứu khoa học kinh tế, trang trại và kinh tế trang trại được nhìn nhận dưới nhiều quan điểm khác nhau, có thể đưa ra những quan niệm khác nhau về trang trại. Trong từ điển Việt, trang trại được hiểu một cách khái quát là: “Trại lớn sản xuất nông nghiệp”. Trong các tài liệu nghiên cứu về kinh tế trang trại thường gắn với ngành sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp gọi là “nông trại”, “lâm trại”, “ngư trại” để phân biệt chuyên ngành sản xuất của các trang trại. Có ý kiến cho rằng, trang trại là một đơn vị kinh tế hộ gia đình có tư cách pháp nhân, được Nhà nước giao quyền sử dụng một số diện tích đất đai, rừng, biển hợp lý để tổ chức lại quá trình sản xuất nông, lâm nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; tích cực áp dụng các tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới nhằm cung ứng ngày càng nhiều sản phẩm hàng hoá có chất lượng cao hơn cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu; nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của từng đơn vị diện tích, góp phần xoá đói giảm nghèo, nâng cao mức sống và chất lượng cuộc sống của mọi người tham gia . Theo tác giả Trần Đức, (1998). “Trang trại là một loại hình tổ chức sản xuất cơ sở trong nông lâm, thuỷ sản, có mục đích sản xuất hàng hoá, có tư liệu sản xuất thuộc sở hữu hoặc quyền sử dụng của một chủ độc lập, sản xuất được tiến hành trên quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất tiến bộ và trình độ kỹ thuật cao, hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trường”. Theo tác giả Nguyễn Điền, (1993). “Trang trại gia đình, thực chất là kinh tế hộ sản xuất hàng hoá với quy mô lớn, sử dụng lao động, tiền vốn của gia đình là chủ yếu để sản xuất kinh doanh có hiệu quả”. Theo tác giả Trần Hai, (2000). “Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp dựa trên cơ sở lao động và đất đai của hộ gia đình là chủ yếu, có tư cách pháp 11 nhân, tự chủ sản xuất kinh doanh bình đẳng với các thành phần khác, có chức năng chủ yếu là sản xuất nông sản hàng hoá, tạo ra nguồn thu nhập chính và đáp ứng nhu cầu cho xã hội”. Kế thừa các quan điểm trên, tác giả luận văn cho rằng: Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông, lâm, ngư nghiệp, có mục đích chủ yếu là sản xuất hàng hoá, tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của chủ thể độc lập. Sản xuất được tiến hành trên qui mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất được tập trung tương đối lớn, với cách thức tổ chức quản lý tiến bộ và trình độ kỹ thuật cao, hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trường.  Kinh tế trang trại Trong thời gian qua những vấn đề lý luận về kinh tế trang trại đã được các nhà khoa học và các nhà hoạt động thực tiễn nghiên cứu trong các công trình khoa học đã được công bố, trao đổi trên các diễn đàn và các phương tiện thông tin đại chúng. Cho đến nay một số vấn đề cơ bản về kinh tế trang trại vẫn tiếp tục được nghiên cứu, trao đổi và hoàn thiện. Thực tế hiện nay ở nước ta còn có một số khái niệm khác nhau về kinh tế trang trại: Theo PGS. TS. Lê Trọng: Kinh tế trang trại (hay kinh tế nông trại, lâm trại, ngư trại,) là một hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nền sản xuất xã hội, dựa trên cơ sở hợp tác và phân công lao động xã hội, bao gồm một số người lao động nhất định, được chủ trang trại tổ chức trang bị những tư liệu sản xuất nhất định để tiến hành hoạt động kinh doanh phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường và được Nhà nước bảo hộ. [19] Theo Ban kinh tế Trung ương: “Kinh tế trang trại mang tính chất sản xuất hàng hoá, gắn liền với thị trường, chính vì vậy có nhu cầu cao hơn hẳn kinh tế hộ mang nặng tính tự cấp, tự túc, về tiếp thị, về sự tác động của khoa học - công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, về sự phát triển của công nghiệp, trực tiếp là công nghiệp bảo quản, chế biến nông lâm thuỷ sản, chế tạo nông cụ nhằm tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm và đáp ứng được đòi hỏi của khách hàng về quy cách, chất lượng sản phẩm để bảo đảm tiêu thụ hàng hoá, cạnh tranh trên thị trường”. 12 Nghị quyết 03/2000/NQ-CP, ngày 02/02/2000 của Chính phủ ban hành đã nêu rõ: “Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp, nông thôn, chủ yếu dựa vào gia đình, nhằm mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất trong các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông, lâm, thuỷ sản”. Kinh tế trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông nghiệp với mục đích là sản xuất hàng hóa trên cơ sở tự chủ về ruộng đất, tư liệu sản xuất của hộ gia đình, tự hạch toán và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh. Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất tiến bộ, hiệu quả và phù hợp với đặc điểm và hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp, do đó đây là hình thức tổ chức phổ biến trong nông nghiệp và không chỉ được phát triển ở các nước công nghiệp mà còn được phát triển ở tất cả các nước trên thế giới (Pháp luật về trang trại, 2005). Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá lớn trong nông, lâm, ngư nghiệp của các thành phần kinh tế khác nhau ở nông thôn, có sức đầu tư lớn, có năng lực quản lý trực tiếp quá trình sản xuất kinh doanh, có phương pháp tạo ra sức sinh lời cao hơn bình thường trên đồng vốn bỏ ra; có trình độ đưa những thành tựu khoa học công nghệ mới kết tinh trong hàng hoá tạo ra sức cạnh tranh cao hơn trên thị trường xã hội, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao (Hội Khoa học kinh tế Việt Nam, 2000). Từ thực tiễn và các quan điểm trên, theo tác giả luận văn, kinh tế trang trại có thể hiểu như sau: Kinh tế trang trại là là loại hình kinh tế sản xuất hàng hóa, phát triển chủ yếu trên cơ sở kinh tế hộ nhưng ở quy mô lớn hơn, được đầu tư nhiều hơn về vốn và kỹ thuật, có thể thuê mướn nhân công để sản xuất ra một hoặc vài loại sản phẩm hàng hóa từ nông nghiệp với khối lượng lớn cho thị trường. 1.2.1.2. Đặc trưng của kinh tế trang trại - Trang trại là hình thức tổ chức kinh tế trong nông, lâm, ngư nghiệp, được hình thành trên cơ sở kinh tế hộ nhưng mang tính chất sản xuất hàng hoá rõ rệt, đạt khối lượng và tỷ lệ sản phẩm hàng hoá lớn hơn và thu được lợi nhuận nhiều hơn. - Tư liệu sản xuất trong trang trại thuộc quyền sở hữu hay sử dụng của một người chủ. Trang trại hoàn toàn có quyền tự chủ trong tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh. 13 - Kinh doanh sản xuất nông sản hàng hóa cho thị trường, tỷ suất hàng hóa càng cao, càng thể hiện bản chất và trình độ phát triển kinh tế trang trại. - Quy mô sản xuất của trang trại trước hết là quy mô đất đai được tập trung đến mức đủ lớn theo yêu cầu của sản xuất hàng hóa, chuyên canh và thâm canh, nhưng không vượt quá tầm kiểm soát quá trình sản xuất trên đồng ruộng hoặc trong chuồng trại của chủ trang trại. - Cách thức tổ chức và quản lý đi dần vào phương thức kinh doanh song trực tiếp, đơn giản và gọn nhẹ vừa mang tính gia đình, vừa mang tính doanh nghiệp. - Trình độ áp dụng khoa học - kỹ thuật cao hơn nhiều so với hộ tiểu nông. Mức độ đầu tư công nghệ và trình độ công nghệ được các trang trại đưa vào sử dụng ngày càng cao thể hiện ở các biện pháp kỹ thuật mới, tiên tiến được áp dụng ngày càng nhiều nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm để có sức cạnh tranh trên thị trường. - Chủ yếu sử dụng lao động của gia đình, việc thuê mướn lao động chỉ phát sinh khi thực sự cần thiết với quy mô hạn chế, với một số trang trại tương đối lớn, việc thuê mướn lao động trở thành thường xuyên, với quy mô lớn hơn. - Chủ trang trại là nhà kinh doanh, là người có ý chí và tham vọng làm giàu, có năng lực tổ chức, quản lý, có kiến thức và kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp, đồng thời có hiểu biết nhất định về kinh doanh, về thị trường, có mối quan hệ chặt chẽ với thị trường. - Đối với kinh tế trang trại, việc hạch toán dưới hình thức giá trị là cần thiết, hoạt động sản xuất kinh doanh luôn gắn chặt với thị trường, lấy thị trường và lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh. - Kinh tế trang trại còn có đặc trưng thể hiện sự phát triển cao hơn về chất so với kinh tế nông hộ, điểm khác chủ yếu giữa kinh tế nông hộ với kinh tế trang trại là mục tiêu và quy mô sản xuất hàng hoá; sản xuất hàng hoá là đặc trưng có tính bản chất của kinh tế trang trại. 1.2.2. Nguồn gốc hình thành kinh tế trang trại Trong nông nghiệp nước ta từ sau đổi mới, kinh tế trang trại được hình thành và phát triển từ ba nguồn gốc: 14 - Từ kinh tế nông hộ sản xuất tự cấp, tự túc đi dần vào kinh doanh sản xuất hàng hóa rồi chuyển lên kinh tế trang trại gia đình. Loại hình kinh tế trang trại này chiếm số đông, thông thường khoảng 60-80% tổng số trang trại, tùy thuộc vào điều kiện cụ thể ở từng vùng, từng địa phương. - Một số người trong các bộ phận dân cư khác có khả năng kinh tế bỏ vốn ra thuê đất hoặc mua đất lập trang trại, loại này gọi là trang trại tiểu chủ, ngày càng tăng thêm nhưng cũng chỉ vào khoàng 10% tổng số trang trại. - Những hộ nhận khoán trở thành đơn vị kinh tế trang trại trong các nông, lâm trường quốc doanh. 1.2.3. Vai trò của kinh tế trang trại - Thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, góp phần đưa nông nghiệp từng bước tiến lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Với cách thức tổ chức sản xuất và quản lý kinh doanh tiên tiến, trang trại là nơi tiếp nhận và truyền tải, áp dụng thành tựu, các tiến bộ khoa học công nghệ đến hộ nông dân thông qua chính hoạt động sản xuất của mình. - Vai trò huy động khai thác tiềm năng và lợi thế so sánh phục vụ nhu cầu xã hội làm phương thức sản xuất chủ yếu. Vì vậy, nó cho phép huy động khai thác đất đai, sức lao động và nguồn lực khác một cách hợp lý, đầy đủ và có hiệu quả. Nhờ vậy nó góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung. - Trang trại với hiệu quả sản xuất cao, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị hàng hóa cao, khắc phục dần tình trạng manh mún, tạo vùng chuyên môn hóa cao, đẩy nhanh nông nghiệp sang sản xuất hàng hóa. - Kinh tế trang trại tạo ra nhiều nông sản, nhất là các nông sản làm nguyên liệu cho công nghiệp. Vì vậy, trang trại góp phần thúc đẩy công nghiệp nhất là công nghiệp chế biến và dịch vụ sản xuất ở nông thôn phát triển. - Kinh tế trang trại là đơn vị sản xuất có quy mô lớn hơn kinh tế hộ, nên có khả năng áp dụng hiệu quả các thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực. 15 Xét từ góc độ phát triển bền vững, vai trò và hiệu quả phát triển kinh tế trang trại được đánh giá, nhìn nhận trên cả ba mặt đó là: hiệu quả về kinh tế, xã hội và môi trường. * Về mặt kinh tế Kinh tế trang trại đã tạo ra bước chuyển biến về giá trị sản phẩm hàng hóa và thu nhập của trang trại vượt trội hẳn so với kinh tế hộ, khắc phục dần tình trạng sản xuất phân tán, manh mún tạo nên những vùng chuyên môn hóa, tập trung hàng hóa và thâm canh cao. Mặt khác qua thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trang trại góp phần thúc đẩy phát triển công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến và dịch vụ sản xuất ở nông thôn, góp phần tích cực thúc đẩy sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn. * Về mặt xã hội: - Kinh tế trang trại thu hút lao động, hạn chế bớt làn sóng di cư từ nông thôn ra thành thị, làm giảm áp lực đối với xã hội. Phát triển kinh tế trang trại làm tăng hộ giàu ở nông thôn, tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho người lao động và dân cư ở nông thôn, góp phần xóa đói giảm nghèo, thúc đẩy phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn. - Ngoài ra, việc phát triển kinh tế trang trại còn góp phần đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm. Mặc dù đóng góp của ngành nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế có giảm về tỷ trọng một cách tương đối nhưng giá trị tuyệt đối đóng góp lại không giảm mà ngày càng tăng lên. * Về mặt môi trường - Kinh tế trang trại góp phần cải tạo môi trường sống và bảo vệ môi trường sinh thái. Kinh tế trang trại góp phần sử dụng đất đai, nguồn nước hợp lý, tiết kiệm. Sự áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến trong các trang trại giúp cho việc bảo vệ đất đai khỏi bị ô nhiễm, thoái hóa, tiết kiệm nước và hạn chế ô nhiễm nguồn nước. - Đối với trang trại chăn nuôi, người chăn nuôi vẫn phải đối mặt với tình trạng chất thải của gia súc, gia cầm gây ô nhiễm môi trường nhưng hiện nay với kỹ thuật hầm biogas, sử dụng chế phẩm sinh học trong chăn nuôi đã cùng lúc giải quyết vấn đề nguồn năng lượng, nhiên liệu dùng trong gia đình và lượng phân hữu cơ phục vụ cho nhu cầu phân bón của trang trại. Đây là một kỹ thuật phù hợp với mọi loại hình trang trại chăn nuôi. 16 Ba mặt trên của trang trại có mối quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại với nhau. Sự kết hợp hài hòa ba mặt này đảm bảo cho kinh tế trang trại phát triển bền vững. 1.2.4. Tiêu chí nhận dạng kinh tế trang trại ở Việt Nam Theo quy định tại Điều 5 Thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT ngày 13/4/2011 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định về tiêu chí và thủ tục cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại thì: Cá nhân, hộ gia đình sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản đạt tiêu chuẩn kinh tế trang trại phải thỏa mãn điều kiện sau.  Đối với cơ sở trồng trọt, nuôi trồng thuỷ sản, sản xuất tổng hợp - Có diện tích trên mức hạn điền, tối thiểu: + 3,1 ha đối với vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long. + 2,1 ha đối với các tỉnh còn lại. - Giá trị sản lượng hàng hóa đạt 700 triệu đồng/năm.  Đối với cơ sở chăn nuôi Giá trị sản lượng hàng hóa từ 1.000 triệu đồng/năm trở lên;  Đối với cơ sở sản xuất lâm nghiệp Diện tích tối thiểu 31 ha và giá trị sản lượng hàng hóa bình quân đạt 500 triệu đồng/năm trở lên. 1.3. Phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi 1.3.1. Một số khái niệm 1.3.1.1. Khái niệm và đặc điểm kinh tế trang trại chăn nuôi  Khái niệm kinh tế trang trại chăn nuôi Kinh tế trang trại chăn nuôi là một hình thức tổ chức kinh tế - hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp với nông sản hàng hoá là sản phẩm của chăn nuôi đại gia súc, gia cầm Đó là tổng thể các mối quan hệ kinh tế của các tổ chức sản xuất hoạt động kinh doanh nông nghiệp, xét ở phạm vi chăn nuôi. Bao gồm các hoạt động trước và sau sản xuất nông sản hàng hoá xung quanh các trục trung tâm là hệ thống các trang trại chăn nuôi ở các vùng kinh tế khác nhau. Kinh tế trang trại chăn nuôi cũng là sản phẩm của thời kỳ công nghiệp hoá, quá trình hình thành và phát triển các trang trại gắn liền với quá trình công nghiệp hoá từ thấp 17 đến cao, tỷ trọng hàng hoá từ thấp đến cao cũng như trình độ sản xuất, qui mô và năng lực sản xuất đáp ứng được nhu cầu sản phẩm hàng hoá như thịt, trứng, sữa trên thị trường, phù hợp với sự phát triển kinh tế thị trường hiện nay. Kinh tế trang trại chăn nuôi là một bộ phận của hệ thống kinh tế trang trại nói chung, là một bộ phận của nền sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp. Khác với các ngành sản xuất khác: Lâm nghiệp hay Thuỷ sản phụ thuộc nhiều vào điều kiện đất đai, khí tượng và thời tiết, nhưng đối với chăn nuôi đó chỉ là những ảnh hưởng tác động đến vật nuôi, nó phụ thuộc chính vào điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng của các trang trại. Sản phẩm của chăn nuôi phục vụ trự

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf00050008104_1647_2006104.pdf
Tài liệu liên quan