MỤC LỤC
PHẦ N MỞ ĐẦU.5
1. Lí do chọn đề tài.5
2. Tình hình nghiên cứu .6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn .9
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.10
6. Đóng góp chính của luận văn.10
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.11
8. Kết cấu của luận văn .11
PHẦ N NỘI DUNG .12
CHưƠNG I : MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN LỰC LưỢNG
SẢN XUẤT TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở TỈNH BẮC GIANG.12
1.1. Lực lượng sản xuất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất .12
1.1.1. Khái niệm lực lượng sản xuất .12
1.1.2. Trình độ phát triển lực lượng sản xuất và những biểu hiện của nó .18
1.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Bắc Giang và sự
phát triển lực lượng sản xuất trong quá trình đó .25
1.2.1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bắc Giang .25
1.2.2. Sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác động của quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Bắc Giang .35
CHưƠNG II: PHÁT TRIỂN LỰC LưỢNG SẢN XUẤT TRONG QUÁ
TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG
THÔN Ở TỈNH BẮC GIANG HIỆN NAY – THỰC TRẠNG, NHỮNG VẤN
ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP .39
2.1. Thực trạng phát triển lực lượng sản xuất trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bắc Giang .39
2.1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội.39
2.1.2. Thưc trạng lưc̣ lươṇ g lao đôṇ g, tư liệu sản xuất và khoa học - công nghệ ở
nông thôn tỉnh Bắc Giang .43
2.2. Những vấn đề đặt ra đối với việc phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh Bắc Giang.662
2.2.1 Mâu thuẫn giữa yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn với năng lực người lao động còn thấp .66
2.2.2 Mâu thuẫn giữa yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn với tư liệu sản xuất, máy móc, công cụ nghèo nàn, lạc hậu.67
2.2.3 Mâu thuẫn giữa yêu cầu đẩy mạnh công nghịêp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn với việc ứng dụng khoa học - công nghệ vào lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn còn nhiều hạn chế .68
2.2.4. Mâu thuẫn giữa yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn với thực trạng cơ sở hạ tầng nông thôn còn nhiều hạn chế.70
2.3. Giải pháp phát triển lực lượng sản xuất trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Bắc Giang .73
2.3.1 Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, nâng cao hiệu lực quản lý của Ủy
ban nhân dân tỉnh đối với phát triển lực lượng sản xuất trong quá trình đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bắc Giang .73
2.3.2. Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất theo hướng khơi dậy, phát huy
nguồn lực con người, tài nguyên, phù hợp với lực lượng sản xuất một tỉnh trung du
đa dân tộc.77
2.3.3 Tập trung nguồn lực cho việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn
lao động, đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ kinh tế người địa phương phục
vụ cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn của tỉnh .80
2.3.4. Ưu tiên phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở vùng
sâu, vùng xa góp phần rút gắn khoảng cách phát triển giữa các địa bàn trong tỉnh.82
2.3.5. Xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng nông thôn .84
2.3.6. Phát triển khoa học công nghệ, ứng dụng kỹ thuật mới vào quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn của tỉnh.87
PHẦN KẾT LUẬN.91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.93
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển lực lượng sản xuất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bắc Giang hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ài người. Lực lượng sản xuất là biểu hiện của mối quan hệ
giữa con người và tự nhiên. Thực chất của mối quan hệ ấy là việc con người
chinh phục, tác động, cải biến, tái tạo giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất
và để làm được việc đó thì con người cẩn phải có một sức mạnh tổng hợp của
người lao động với tư liệu sản xuất.
Lực lượng sản xuất là hệ thống phương thức kết hợp giữa người lao
động với tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất vật chất của xã hội nhất
định. Nó là hệ thống phương thức kết hợp chứ không phải chỉ một kiểu kết
hợp. Những phương thức kết hợp ở mỗi xã hội nhất định thể hiện năng lực
hoạt động thực tiễn của con người. Chính vì vậy, lực lượng sản xuất là yếu tố
quyết định nhất đến sự phát triển, vận động của xã hội loài người.
14
Nhờ vậy, lực lượng sản xuất có thể hiểu là sự thống nhát hữu cơ của
lực lượng được con người sử dụng trong quá trình sản xuất nó bao gồm
người lao động với một thể lực, trí tuệ, kĩ năng, kinh nghiệm lao động và tư
liệu sản xuất mà trước hết là năng lực lao động
Từ cách hiểu trên chúng ta có thể hiểu lực lượng sản xuất bao gồm yếu
tố người và yếu tố vật, hay còn gọi là người lao động và tư liệu sản xuất.
- Người lao động
Người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, “lực lượng
sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân là người lao động” [46,
tr.430]. Để có thể tác động cải biến giới tự nhiên theo C. Mác, trước hết con
người cần phải có những yếu tố tạo nên khả năng lao động thuộc về thể chất
và trí tuệ: “để chiếm hữu được thực thể của tự nhiên dưới một hình thái có ích
cho đời sống của bản thân mình, con người vận dụng những sức mạnh tự
nhiên thuộc về thân thể của họ: tay và chân, đầu và hai bàn tay”[52, tr.266].
Ngoài sức mạnh về thể chất và trí tuệ thì người lao động cũng cần phải có
kinh nghiệm, kĩ năng và kĩ xảo lao động.
Người lao động là nhân tố giữ vai tò quyết định trong lực lượng sản
xuất. Xét đến cùng thì hầu hết các tư liệu sản xuất chủ yếu (trừ những đối
tượng lao động sẵn có trong tự nhiên) chỉ là sản phẩm lao động của con người
do con người tạo ra và không ngừng đổi mới, cải tiến. Không có người lao
động thì không có quá trình sản xuất.
Trong quá trình lao động thể lực và kĩ năng lao động không ngừng tăng
lên, đặc biệt là trí tuệ con người không ngừng phát triển, người lao động càng
ngày càng tiếp cận và tạo ra được những tư liệu sản xuất mới. Chính vì vậy tư
liệu sản xuất, đặc biệt là công cụ lao động chỉ là sự phản ánh trình độ của
người lao động.
- Tư liệu lao động
15
Nếu chỉ dừng lại ở yếu tố người lao động thì không thể gọi là lực lượng
sản xuất, quá trình lao động cũng không thể diễn ra. Bởi vì ngoài bản thân sự
lao động thì những yếu tố của lao động còn bao hàm đối tượng lao động và tư
liệu lao động, đó chính là tư liệu lao động - khí quan mới mà nhờ có trí tuệ
con người đã cải biến, sáng tạo ra bằng các vật liệu của tự nhiên và sử dụng
trong quá trình sản xuất: “Một vật do bản thân thiên nhiên cung cấp đã trở
thành một khí quan của sự hoạt động của con người, khí quan mà con người
đem chắp thêm vào những khí quan của cơ thể mình và do đó kéo dài cái tầm
thước tự nhiên của cơ thể đó”[52, tr.268]. Chính con người tạo ra tất cả những
phương tiện, máy móc, tạo ra công cụ lao động và sử dụng chúng tác động
vào đối tượng lao động, tạo ra các sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của mình.
Như vậy, tư liệu sản xuất là yếu tố của lực lượng sản xuất nó bao gồm
tư liệu lao động và đối tượng lao động. Điều này được C. Mác khẳng định:
“Nếu đứng về mặt kết quả của nó, tức là đứng về mặt sản phẩm mà xét toàn
bộ quá trình thì cả tư liệu lao động lẫn đối tượng lao động đều biểu hiện ra là
tư liệu sản xuất”[52, tr.271].
Đối tượng lao động là những yếu tố của tự nhiên mà lao động của con
người tác động vào nhằm biến đổi nó, cải tạo nó, tái tạo nó cho phù hợp với
mục đích của mình. Trong lực lượng sản xuất nếu yếu tố người lao động là
chủ thể của quá trình lao động thì đối tượng lao động là khách thể, là những gì
mà lao động của con người hướng tới, C. Mác khẳng định: “Công nhân không
thể sáng tạo ra cái gì hết nếu không có giới tự nhiên, nếu không có thế giới
hữu hình bên ngoài. Đó là vật liệu, trong đó lao động của anh ta được thực
hiện, trong đó lao động của anh ta được triển khai, từ đó và nhờ đó, lao động
của anh ta sản xuất ra sản phẩm”[54, tr.130].
Mọi đối tượng lao động đều là yếu tố của tự nhiên nhưng không phải
yếu tố nào của tự nhiên cũng là đối tượng lao động. Chỉ những yếu tố nào của
tự nhiên mà lao động của con người hướng tới mới là đối tượng lao động.
16
Đối tượng lao động rất phong phú và đa dạng. Trong quá trình sản xuất,
có những vật phẩm trong tự nhiên con người chỉ việc khai thác mang về là có
thể đáp ứng được nhu cầu nào đó của mình, cũng có những vật phẩm lại phải
trải qua nhiều lần cải tạo, qua nhiều khâu trung gian mới trở thành sản phẩm
đáp ứng nhu cầu của con người. Khi nền sản xuất xã hội càng phát triển, khoa
học - công nghệ càng cao, thì loại đối tượng phải cải tạo nhiều lần càng được
mở rộng.
Như vậy, đối tượng lao động gồm hai loại là đối tượng lao động có sẵn
trong tự nhiên như là đất đai, nguồn nước, khoáng sản Loại này thường là
đối tượng của các ngành công nghiệp khai thác. Ngoài những đối tượng lao
động có sẵn trong tự nhiên, còn có những loại do con người tạo ra như sợi để
dệt vải, sắt thép để chế tạo máy gọi là nguyên liệu. Loại này thường là đối
tượng của các ngành công nghiệp chế biến.
Trong quá trình sản xuất của cải vật chất, để cải biến được đối tượng
lao động, con người phải sử dụng tư liệu lao động. Tư liệu lao động là vật hay
hệ thống những vật mà con người đặt ở giữa họ và đối tượng lao động, làm
nhiệm vụ truyền dẫn sự tác động của con người lên đối tượng lao động, biến
đối tượng lao động thành sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của con người. Theo
nghĩa đó, thì tư liệu lao động được chia làm hai loại: Thứ nhất, những công cụ
lao động, Thứ hai, những điều kiện vật chất cần thiết của quá trình lao động,
sản xuất.
Công cụ lao động là những vật thể hay phức hợp vật thể do con người
và xã hội tạo ra, để đặt giữa con người và đối tượng lao động. Chúng có vai
trò truyền dẫn sức lực và trí tuệ của con người đến đối tượng lao động, cải
biến những vật liệu của tự nhiên thành sản phẩm đáp ứng nhu cầu nào đó của
con người.
Cùng với người lao động, công cụ lao động là yếu tố cơ bản của lực
lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Công cụ lao
17
động là khí quan vật chất nối dài và nhân lên sức mạnh của con người lên, nói
lên thực chất mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, đó không chỉ là quan
hệ nhìn ngắm mà là quan hệ chiếm hữu, chinh phục, cải tạo. Công cụ lao
động là yếu tố động nhất, cách mạng nhất trong tư liệu sản xuất, nó không
ngừng được cải tiến và hoàn thiện trong quá trình lao động sản xuất, sự biến
đổi của nó sẽ dẫn đến những biến đổi sâu sắc trong toàn bộ tư liệu sản xuất.
Con người thường xuyên tìm cách làm giảm chi phí sức lao động của
mình, nhưng lại muốn sản xuất ra nhiều sản phẩm cần thiết. Vì vậy, con người
liên tục cải tiến công cụ lao động của mình ngày càng tinh xảo và hiện đại,
phù hợp với những thao tác, yêu cầu của con người đặt ra, khi nào con người
đạt được một năng suất lao động cao nhất với một chi phí sức lao động
(cường độ làm việc) thấp nhất thì công cụ lao động đang ở trình độ cao.
Công cụ lao động hiện thực hóa cái trừu tượng của tư duy con người, là
vật hóa trí tuệ và tài năng của con người. Nói như vậy là sức mạnh tinh thần
đã trở thành sức mạnh vật chất. Công cụ lao đông được tạo ra, nó lại làm hoàn
thiện chính bản thân người tạo ra nó. Đồng thời, công cụ lao động cũng làm
biến đổi toàn bộ tư liệu sản xuất. Xét đến cùng, nguyên nhân sâu xa của mọi
biến đổi xã hội là ở công cụ lao động. Trình độ phát triển của công cụ lao
động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn
phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử.
Có rất nhiều cách gọi khác nhau đối với yếu tố thứ hai trong tư liệu lao
động như là điều kiện phương tiện sản xuất, tư liệu phụ, cơ sở hạ tầng của sản
xuất, kết cấu hạ tầng của sản xuất Tuy nhiên, tôi cho rằng yếu tố thứ hai
của tư liệu lao động là những điều kiện vật chất cần thiết trong quá trình lao
động sản xuất là phù hợp.
Những điều kiện vật chất cần thiết của quá trình lao động sản xuất được
hiểu là hệ thống những công trình, những phương tiện phục vụ sản xuất như
nhà kho, nhà xưởng, bến bãi, công trình và phương tiện giao thông vận tải, hệ
18
thống thông tin liên lạc, hệ thống điện nước, thủy lợi Những yếu tố này
không tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất nhưng nếu thiếu chúng thì quá
trình sản xuất không diễn ra hoặc diễn ra một cách không hoàn hảo, kém hiệu
quả. Trước đây, tồn tại quan niệm phổ biến cho rằng những điều kiện vật chất
cần thiết chỉ là yếu tố dịch chuyển giá trị bên ngoài không được coi trọng thì
nay nhận thức lại và thấy rằng nó có ảnh hưởng lớn đến giá trị sản phẩm đến
sản xuất, nó là yếu tố nội sinh của quá trình sản xuất góp phần tạo ra giá trị
mới. Sản xuất càng phát triển thì yêu cầu những điều kiện vật chất cần thiết
của quá trình sản xuất cũng phải phát triển theo.
Trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất khoa học đóng vai trò
ngày càng quan trọng. Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất và là
động lực mạnh mẽ đã thúc đẩy sản xuất phát triển. Tri thức khoa học đã thâm
nhập vào hầu hết các yếu tố của lực lượng sản xuất. Trí tuệ và tri thức của con
người liên tục phát triển. Những phát minh khoa học đã trở thành điểm xuất
phát ra đời những ngành sản xuất mới, máy móc, thiết bị, công cụ lao động,
ngày càng tinh xảo và hiện đại Về đối tượng lao động, thì khoa học đã tạo
ra được nhiều đối tượng lao động nhân tạo, những vật liệu mới, năng lượng
mới Điều này chứng minh dự đoán khoa học sẽ trở thành “lực lượng sản
xuất trực tiếp” của C. Mác đang là hiện thực.
Khoa học là kết quả nghiên cứu của hoạt động thực tiễn, nhưng đến
lượt nó lại có tác động mạnh mẽ tới hoạt động sản xuất. Khoa học trong thời
đại ngày nay đã rút ngắn khoảng cách đến tối thiểu từ sáng chế, phát minh,
đến ứng dụng vào sản xuất, đem lại hiệu quả nhanh. Khoa học trở thành yếu
tố không thể thiếu được của sản xuất, tạo cho lực lượng sản xuất có bước phát
triển nhảy vọt. Cái đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại chính là khoa
học và công nghệ hiện đại.
1.1.2. Trình độ phát triển lực lượng sản xuất và những biểu hiện của nó
19
Khuynh hướng chung của quá trình sản xuất vật chất là không ngừng
phát triển. Sự phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát
triển của lực lượng sản xuất. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong
từng giai đoạn lịch sử cụ thể thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con
người trong giai đoạn lịch sử đó.
Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là khái niệm dùng để chỉ sự
phát triển của công cụ sản xuất cũng như khả năng của con người thông qua
việc sử dụng công cụ lao động thực hiện quá trình cải biến giới tự nhiên nhằm
đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của mình.
Để đánh giá được trình độ của lực lượng sản xuất ở mỗi thời kì lịch sử
chúng ta căn cứ vào những biểu hiện của nó. Trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất được biểu hiện thông qua những yếu tố cấu thành nó, đồng thời biểu
hiện thông qua tính chất của nó, thông qua khả năng ứng dụng khoa học vào
sản xuất, qua phân công lao động xã hội và qua năng suất lao động.
1.1.2.1. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất biểu hiện qua trình
độ của các yếu tố cấu thành nó
- Biểu hiện qua trình độ người lao đông
Trong lực lượng sản xuất có mối quan hệ hữu cơ giữa hai yếu tố cấu
thành đó là tư liệu sản xuất và con người (yếu tố người và vật). Trong mối
quan hệ này vai trò của các yếu tố khác khi tham gia vào quá trình sản xuất
chỉ có thể đánh giá khi xem xét nó trong mối quan hệ với nhân tố con người.
Bởi vì các nguồn lực như tài nguyên thiên nhiên, thiết bị máy móc thực
chất chỉ là những nguồn lực phụ thuộc vào con người. Chúng chỉ được phát
hiện, cải tạo, biến đổi và phát huy tác dụng khi có sự kết hợp với nhân tố con
người. Thiếu nhân tố con người thì các yếu tố khác đều không thể trở thành
lực lượng sản xuất. Điều này có nghĩa là lực lượng sản xuất do con người tạo
ra, là sản phẩm hoạt động của con người.
20
C. Mác chỉ rõ: “Lực lượng sản xuất là kết quả của nghị lực thực tiễn
của con người”[53, tr.675]. Như vậy, lực lượng sản xuất biểu hiện trình độ,
năng lực của con người trong mỗi thời kỳ lịch sử. Xét trong toàn bộ lịch sử thì
trình độ, năng lực, kĩ năng của người lao động ở xã hội sau bao giờ cũng cao
hơn so với xã hội trước đó, như Ph. Ăngghen khẳng định: “Người vô sản
thuộc về một xã hội có trình độ phát triển cao hơn và bản thân họ cũng ở trình
độ cao hơn người nô lệ” [49, tr.460]. Do đó nếu trình độ của người lao động ở
một chế độ xã hội kém thì chứng tỏ trình độ của lực lượng sản xuất ở chế độ
đó cũng thấp kém. Như vậy, trình độ, năng lực, kinh nghiệm của người lao
động là căn cứ để nhận thức trình độ phát triển lực lương sản xuất.
- Biểu hiện qua trình độ của tư liệu sản xuất
Trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện qua các yếu tố mà lao động
của con người tác động vào để biến đổi thành những sản phẩm phục vụ con
người. Đó là đối tượng lao động. Khi trình độ của lực lượng sản xuất thấp
kém thì những đối tượng lao động có sẵn trong tự nhiên là đối tượng chính
của con người. Những đối tượng này chỉ cần con người “bứt” ra khỏi giới tự
nhiên hoặc trải qua số ít lần tác động là có thể sử dụng ngay được. Lực lượng
sản xuất phát triển đến một trình độ cao thì sự phụ thuộc của con người vào tự
nhiên sẽ ít đi, nhiều đối tượng lao động nhân tạo sẽ được sử dụng chủ yếu
đem lại hiệu quả kinh tế cao. Chính vì vậy, những đối tượng nhân tạo được tái chế
qua nhiều lần sử dụng cũng là căn cứ để nhận thức trình độ lực lượng sản xuất.
Trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện thông qua trình độ của tư liệu
lao động trước hết là công cụ lao động. Công cụ lao động là yếu tố động nhất,
cách mạng nhất của tư liệu sản xuất, là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên
của con người và do đó cũng là thước đo trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất: “Các tư liệu lao động (công cụ lao động) không những là cái thước đo
sự phát triển sức lao động của con người, mà còn là một chỉ tiêu của những
quan hệ xã hội trong đó lao động được tiến hành” [48, tr.65]. Công cụ lao
21
động là biểu hiện rõ nét nhất trình độ của lực lượng sản xuất vì bản thân công
cụ lao động do con người tạo ra là sự kết tinh những tri thức mà con người đạt
được trong mỗi thời đại nhất định. Do vậy, để nhận thức về trình độ của lực
lượng sản xuất ta cũng cần phải dựa vào trình độ của công cụ lao động. Thời
đại kinh tế nào sử dụng những công cụ lao động tinh xảo, hiện đại thì chứng
tỏ lực lượng sản xuất ở một trình độ cao. vì vậy, công cụ lao động là tiêu
chuẩn để phân biệt các thời đại kinh tế.
C. Mác và Ph. Ăngghen cũng đề cập đến những điều kiện vật chất cần
thiết của quá trình lao động, sự phát triển của nó cũng biểu hiện trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Khi đánh giá về yếu tố này trong tư liệu lao động
dưới chủ nghĩa tư bản, C.Mác và Ph. Ăngghen nhắc nhiều đến sự phát triển
của phương tiện giao thông, đường sắt như là biểu hiện quan trọng trong sự
phát triển của lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản. Những tư liệu này
không trực tiếp làm ra sản phẩm nhưng có ảnh hưởng lớn đến sản xuất. Sản
xuất càng phát triển thì đòi hỏi những điều kiện vật chất cần thiết hỗ trợ sản
xuất cũng phải phát triển theo. Ở đâu có đường xá, phương tiện giao thông,
nhà kho hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống, điện, nước phát triển thì ở đó
sản xuất phát triển, trình độ của lực lượng sản xuất cao.
1.1.2.2. Trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện qua tính chất của nó
Gắn liền với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là tính chất của
nó. Tính chất của lực lượng sản xuất là một trong những biểu hiện về trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Trong tác phẩm “Chống Đuyrinh” khi xem
xét sự mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất đã phát triển với quan hệ sản xuất
cũ, lỗi thời, lạc hậu, Ph. Ăngghen chỉ rõ khi lực lượng sản xuất ở trình độ thủ
công thì nó mang tính cá nhân, còn khi đạt đến tình độ cơ khí hóa thì nó mang
tính xã hội.
Theo Ph. Ăngghen ở xã hội tiền tư bản nền sản xuất manh mún, mang
tính tự cung, tự cấp thì lực lượng sản xuất mang tính chất cá nhân. Ph.
22
Ăngghen viết: “Trước nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, tức là trong thời trung
cổ, khắp nơi đều có nền sản xuất nhỏ mà cơ sở là chế độ sở hữu tư nhân của
những người lao động đối với những tư liệu sản xuất của họ; nông nghiệp của
những tiểu nông, tự do hay nông nô, thủ công nghiệp ở thành thị. Những tư
liệu lao động - đất đai, nông cụ, dụng cụ thủ công - là những tư liệu lao động
của cá nhân chỉ nhằm cho việc sử dụng của cá nhân, do đó chúng nhất định
phải nhỏ bé, tí hon, có hạn. Cũng chính vì thế mà thường thường chúng thuộc
về bản thân người sản xuất” [51, tr.373]. Như vậy, tư liệu sản xuất cá nhân
gắn với nền sản xuất nhỏ, ứng với mỗi giai đoạn mà lực lượng sản xuất còn ở
trình độ thủ công với quy mô nhỏ và phân tán.
Theo Ph. Ăngghen trong xã hội tư bản chủ nghĩa giai cấp tư sản đã biến
những tư liệu sản xuất nhỏ, phân tán thành những tư liệu sản xuất to lớn, biến
những tư liệu sản xuất do cá nhân thành những tư liệu sản xuất xã hội.
PhĂngghen viết: “Thay cho guồng quay sợi, khung cửi dệt tay, búa thợ rèn là
máy xe sợi, máy dệt, búa chạy bằng hơi nước, thay cho xưởng thợ cá thể là
công xưởng đòi hỏi lao động chung của hàng trăm, hàng nghìn công nhân.
Cũng như tư liệu sản xuất, bản thân sự sản xuất cũng biến đổi từ chỗ là một
loạt động tác phân tán thành một loạt động tác xã hội và sản phẩm cũng từ sản
phẩm cá nhân biến thành sản phẩm xã hội” [51, tr.373].
Như vậy, tính chất của lực lượng sản xuất phản ánh trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Ở trình độ thủ công, lực lượng sản xuất có tính chất cá
nhân, khi lực lượng sản xuất đạt đến trình độ cơ khí hóa, công nghiệp phát
triển thì lực lượng sản xuất mang tính xã hội. Lực lượng sản xuất càng phát
triển thì tính xã hội hóa càng cao.
1.1.2.3. Trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện qua việc ứng dụng
khoa học vào sản xuất
Khoa học đang trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp”. Nó là yếu tố
nằm bên trong, gắn liền trực tiếp với con người và tư liệu sản xuất, khoa học
23
có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Khi tri thức
khoa học thâm nhập vào hầu hết các yếu tố của lực lượng sản xuất thì nó làm
cho lực lượng sản xuất phát triển nhanh, tạo ra bước nhảy vọt.
C. Mác và Ph. Ăngghen đặc biệt đánh giá cao vai trò của khoa học khi
các ông phân tích lực lượng sản xuất của xã hội tư bản. Nền đại công nghiệp
ra đời là kết quả tất yếu của cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra trên thế giới
bắt đầu từ nước Anh. Theo Ph. Ăngghen: “Sở dĩ có cuộc cách mạng đó là do
có sự phát minh ra máy hơi nước, máy kéo sợi, máy dệt và hàng loạt những
thiết bị máy móc khác. Những máy móc đó làm thay đổi toàn bộ phương
thức sản xuất tồn tại từ trước tới nay” [49, tr.475]. Do vậy, sự thắng lợi của
chủ nghĩa tư bản là do nó biết ứng dụng những thành tựu khoa học của nhân
loại vào quá trình sản xuất, làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ
hơn bao giờ hết.
Như vậy, chúng ta có thể khẳng định ở nơi nào, chế độ nào biết vận
dụng những thành tựu của khoa học vào sản xuất thì ở đó sản xuất phát triển,
lực lượng sản xuất có trình độ cao.
1.1.2.4. Trình độ của lực lương sản xuất biểu hiện ở trình độ phân công
lao đông xã hội
Phân công lao động xã hội chính là sự chuyên môn hóa sản xuất. Trong
xã hội tiền tư bản, nền sản xuất chủ yếu bởi công cụ thủ công, phân công lao
động ở trình độ thấp, mang tính tự phát. Từ xã hội tư bản, khi mà công nghiệp
cơ khí phát triển thì công cụ lao động là máy móc là chính, thì trình độ phân
công lao động xã hội cao hơn, mang tính tự giác. Càng về sau này khoa học -
công nghệ càng phát triển thì công cụ lao động tiên tiến, hiện đại, hệ thống
sản xuất bán tự động, tự động hóa được sử dụng phổ biến thì trình độ phân
công lao động, cũng như chuyên môn hóa sản xuất là rất cao. Như vậy, sự
phân công lao động liên quan trực tiếp đến công cụ lao động. C.Mác viết: “
Lao động được tổ chức, được phân công một cách khác nhau, tùy theo những
24
công cụ mà lao động sử dụng. Cái cối xay chạy bằng tay giả định một sự phân
công khác với cái cối xay chạy bằng hơi nước” [49, tr.213]. Như vậy, chính sự
thay đổi, phát triển công cụ lao động dẫn đến sự thay đổi, phát triển của phân
công lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội là biểu hiện của sự phát triển lực lượng sản
xuất. Con người càng nắm bắt nhiều tri thức khoa học, vận dụng và tạo ra
những công cụ lao động thì sự phân công lao động xã hội càng phát triển.
Chính các nhà Mác xít khẳng định trình độ phát triển lực lượng sản xuất của
một dân tộc bộc lộ rõ nhất ở trình độ phát triển của sự phân công lao động.
1.1.2.5. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất biểu hiện qua năng
suất lao động
Chế độ xã hội sau thay thế chế độ xã hội trước đó xét đến cùng là do sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất của chế độ xã hội mới
tạo ra một năng suất lao động mới, cao hơn. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - lênin cho rằng: suy cho cùng biểu hiện chung nhất của sự phát triển lực
lượng sản xuất là năng suất lao động. Do đó, V.I. Lênin khẳng định: “Xét đến
cùng thì năng suất lao động là quan trọng nhất, chủ yếu nhất cho thắng lợi của
chế độ xã hội mới” [47, tr.35].
Lực lượng sản xuất phát triển với trình độ cao là lực lượng sản xuất tạo
ra được năng suất lao động cao. C. Mác chỉ rõ: “Năng suất lao động phụ
thuộc vào tài nghệ khéo léo của người lao động và tính chất hoàn bị của công
cụ của họ” [52, tr.495]. Nghĩa là, nếu người lao động có năng lực và trình độ
thấp kém, công cụ lao động thô sơ thì năng suất lao động sẽ thấp. Ngược lại,
nếu người lao động có khả năng và trình độ cao, công cụ lao động tiên tiến,
hiện đại thì sẽ tạo ra một năng suất lao động cao. Như vậy, năng suất lao động
là biểu hiện tập trung nhất trình độ người lao động và sự phát triển của lực
lượng sản xuất phải căn cứ vào năng suất lao động nó tạo ra.
25
1.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Bắc
Giang và sự phát triển lực lƣợng sản xuất trong quá trình đó
1.2.1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh
Bắc Giang
1.2.1.1. Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp là việc sử dụng máy móc
rộng rãi, áp dụng khoa học - công nghệ hiện đại vào lĩnh vực sản xuất nông
nghiệp, nhằm khai thác tối đa mọi nguồn lực của ngành, từ đó nâng cao năng
suất và chất lượng sản phẩm.
Công nghiệp hóa nông nghiệp là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn
diện nền nông nghiệp sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng
sức lao động gắn với máy móc cơ khí là chính, điều này làm giảm chi phí sức
lao động của người nông dân, mà hiệu quả sản xuất lại tăng lên.
Hiện đại hóa nông nghiệp là quá trình áp dụng những thành tựu khoa
học - công nghệ tiên tiến vào hầu hết các khâu của quá trình sản xuất nông
nghiệp như nhân giống, sản xuất, bảo quản, chế biến. Những thành tựu khoa
học quan trọng nhất là công nghệ sinh học và công nghệ thông tin.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp là quá trình chuyển nền
nông nghiệp truyền thống phát triển thành nông nghiệp hiện đại. Về thực chất
đây là quá trình nâng cao trình độ sản xuất người nông dân, hiện đại hóa các
biện pháp sản xuất, hiện đại hóa công nghệ sản xuất và quản lí sản xuất nông
nghiệp. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp làm thay đổi căn bản tính
chất, phương thức sản xuất, cơ cấu sản xuất, hình thức tổ chức quản lí sản
xuất của một nền nông nghiệp tự cung, tự cấp dựa chủ yếu vào tự nhiên với kĩ
thuật thủ công sang một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa với kĩ thuật công
nghệ tiên tiến.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công
26
nghiệp chế biến và thị trường, thực hiện cơ khí hóa, thủy lợi hóa, sinh học
hóa, ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ, đưa thiết bị kỹ thuật và
công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp bao gồm cả lâm
nghiệp và ngư ngiệp nhằm nâng cao sản xuất, chất lượng hiệu quả và sức
cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa trên thị trường.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp diễn ra đồng thời với quá
trình công nghiệp hóa, hiện
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 02050004776_1_4371_2002883.pdf