Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU . 1
Chương 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUAN HỆ CHA MẸ VỚI CON TUỔI
THIẾU NIÊN. 5
1.1. Lược sử nghiên cứu vấn đề. 5
1.1.1. Nghiên cứu ở nước ngoài. 5
1.1.2. Nghiên cứu ở trong nước . 9
1.2. Quan hệ và quan hệ cha mẹ với con . 13
1.2.1. Khái niệm quan hệ . 13
1.2.2. Quan hệ cha mẹ với con. 16
1.3. Quan hệ cha mẹ với con tuổi thiếu niên . 19
1.3.1. Đặc trưng quan hệ cha mẹ với con tuổi thiếu niên. 19
1.3.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến quan hệ cha mẹ với con tuổi thiếu niên 23
1.3.2.1. Những yếu tố thuộc về học sinh . 23
1.3.2.2. Những yếu tố thuộc về cha mẹ . 30
1.3.3. Các kiểu quan hệ cha mẹ với con tuổi thiếu niên. 33
1.4. Những tình huống biểu hiện quan hệ cha mẹ với con tuổi thiếu niên. 49
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 . 51
Chương 2 THỰC TRẠNG QUAN HỆ CHA MẸ VỚI CON TUỔI
THIẾU NIÊN. 52
2.1. Mẫu nghiên cứu . 52
2.1.1. Đôi nét về trường Trung học cơ sở Võ Trường Toản . 52
2.1.2. Mẫu nghiên cứu . 53
194 trang |
Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 646 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quan hệ cha mẹ với con tuổi thiếu niên thị xã Dĩ an tỉnh Bình Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng thứ hai. Hầu hết các em cho rằng quan hệ với bạn bè
thuộc phạm vi quan hệ cá nhân riêng tư và các em có quyền giao tiếp với bạn
bè và bảo vệ quyền đó. Thế nên, nếu cha mẹ thường xuyên sử dụng kiểu QH
cha mẹ - trẻ nhỏ như là can thiệp, khắc khe, áp đặt con trong vấn đề giao lưu
kết bạn của con sẽ ít nhiều dẫn đến xung đột giữa cha mẹ và con. Hoặc nếu
trong giai đoạn lứa tuổi này, cha mẹ vẫn cho rằng các em là con nít, còn nhỏ
nên cha mẹ thường dễ dãi, để con tự do, muốn làm gì thì làm, cha mẹ ít quan
tâm và vẫn giữ thái độ nuông chiều theo ý thích của các em trong việc chơi
với bạn cũng có thể dẫn những hậu quả xấu. Bởi vì, chính nhu cầu giao tiếp
với bạn rất cao mà đã có không ít trẻ không thể tránh khỏi việc kết thân với
những người bạn, nhóm bạn không tốt, làm ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhân
cách đang được hình thành của các em. Thế nên, đối với quan hệ bạn bè của
con, CMHS càng phải nên thường xuyên sử dụng kiểu QH cha mẹ - người
bạn với con hơn để có thể tạo mọi điều kiện giúp các con thỏa mãn nhu cầu
giao tiếp với bạn một cách có chọn lọc và nếu trẻ có chơi với bạn bè không
tốt, cha mẹ cũng nên nhẹ nhàng tìm cách khuyên bảo và không nên cấm đoán
trẻ một cách nghiêm khắc cứng nhắc. Bởi vì, theo nghiên cứu của tác giả
Hoàng Thị Diệu Hồng, khi bị cha mẹ cấm chơi chung với một số người bạn
của trẻ mà cha mẹ cho là không tốt thì biểu hiện của trẻ là: Vâng lời và không
72
chơi với các bạn ấy nữa (32,67%); “Vâng, dạ” cho qua chuyện nhưng vẫn
lén chơi cùng các bạn ấy (9%); Cố gắng giải thích với cha mẹ đó là những
người bạn tốt (49,67%); Cãi lại và quyết bảo vệ bạn mình (4,33%); Tức giận
và bỏ đi chơi vì cho rằng cha mẹ không tôn trọng mình (4,33%).[21, tr.50].
Như vậy, trong 100 trẻ khi bị cấm đoán trong việc chơi với bạn, chỉ có
khoảng 32 trẻ sẽ vâng lời và không chơi với các bạn ấy nữa, còn lại 68 trẻ vẫn
muốn tiếp tục chơi với những người bạn mà các em đã chọn. Do vậy, đối với
quan hệ bạn bè của trẻ, cha mẹ cũng cần cởi mở, chan hòa với các bạn của
con như với bạn của chính mình, như vậy mới có được sự tiếp xúc tâm tình
thực sự giữa cha mẹ và các con và chỉ khi có được điều đó thì mọi tác động
của cha mẹ với con mới trở nên hiệu quả.
Về quan hệ bạn bè của con, một điều cũng rất đáng được lưu ý trong quan
hệ bạn bè của con là CMHS nên tránh có sự mâu thuẫn với trẻ trong việc chọn
bạn của các em. Nghiên cứu thực tiễn cho thấy những ảnh hưởng về phía HS
sau khi xảy ra mâu thuẫn về chọn bạn với cha mẹ theo thứ tự từ cao đến thấp:
Sức khỏe bản thân giảm sút; Ngày càng rời xa bạn bè; Hay lảng tránh cha
mẹ; Gia đình ấm êm hơn; Bầu không khí gia đình nặng nề; Khó gần gũi cha
mẹ hơn; Tinh thần căng thẳng mệt mỏi; Thấy gần gũi với mọi thành viên
trong gia đình; Thấy thoải mái hơn khi gần cha mẹ; Gia đình không có thay
đổi gì cả, Thấy mối quan hệ của em với cha mẹ tốt hơn trước; Em thấy hiểu
cha mẹ nhiều hơn; Em chăm chỉ học hành hơn trước; Em dành nhiều thời
gian cho việc học hơn.[Nghiên cứu Tìm hiểu mâu thuẫn giữa cha mẹ và con
về nhu cầu chọn bạn của học sinh lớp 8, 9 tại Quận 10 Tp. HCM của tác giả
Nguyễn Văn Khoa (2003), tr.112]. Như vậy, sau khi xảy ra mâu thuẫn với cha
mẹ trong việc chọn bạn của trẻ thì trẻ thường có biểu hiện tiêu cực là sức
khỏe bản thân giảm sút, ngày càng rời xa bạn bè, hay lảng tránh cha mẹ, bầu
không khí gia đình nặng nề, khó gần gũi cha mẹ hơn, tinh thần căng thẳng
73
mệt mỏi. Tất cả những ảnh hưởng này đều không tốt đối với trẻ và cha mẹ của
trẻ. Một số nghiên cứu của các tác giả nước ngoài cũng cho rằng nguyên nhân
khiến các em rơi vào nhóm bạn xấu thường bắt nguồn từ gia đình. Một trong
những sai lầm của cha mẹ là quá nghiêm khắc, cứng nhắc đối với con. Điều
này làm chia rẽ cha mẹ với con và làm tăng độ nhạy cảm của trẻ đối với các
tác động tiêu cực từ bạn bè (Fuligni và Eccles, 1993). Một thái cực khác là bố
mẹ có thể quá thờ ơ với con, coi nhẹ sự kiểm soát và điều chỉnh hành vi của
chúng (Barber và đồng nghiệp, 1994; Brown và đồng nghiệp, 1993; Dishion
và đồng nghiệp, 1995) [dẫn theo 12]
Bảng 2.7d: Cách ƯX của cha mẹ đối với những vấn đề thuộc tâm tư,
tình cảm của con
Một số tình
huống
ƯX của cha mẹ đối với con
tuổi TN
HS CMHS Mức ý
nghĩa N %
N
%
12. Khi biết con
viết nhật ký, ƯX
của cha (mẹ)
thường là:
1.Con muốn làm gì thì làm 94
29,4
38
11,3 0,000*
2.Không cho phép con có
chuyện riêng tư
3.Tôn trọng sự riêng tư của
con
226
70,6
298
88,7
13. Khi con buồn,
ƯX của cha (mẹ)
thường là:
1.Cho rằng vui buồn là
chuyện thường ngày 128
40,0
38
11,3 0,000* 2.Cho rằng con còn nhỏ, không có việc gì phải buồn
3.Chia sẻ và lắng nghe con
tâm sự
192
60,0
298
88,7
14. Cha (mẹ)
thường dùng cách
nào để tìm hiểu
tâm tư và suy
nghĩ của con?
1.Hỏi để con trả lời nhưng
con không thích nói thì thôi
không tìm hiểu nữa 94 29,4
36
10,7 0,000* 2.Bắt buộc con phải nói ra
hết những suy nghĩ của con
3.Quan sát, theo dõi thái độ
của con
226
70,6
300
89,3
* Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
74
Bảng 2.7d cho thấy, đối với đời sống tình cảm của các em tuổi TN, đa số
cha mẹ vẫn thường xuyên sử dụng kiểu QH cha mẹ - người bạn, được thể
hiện qua cách ƯX như: Khi biết con viết nhật ký, ƯX của cha (mẹ) thường là
tôn trọng sự riêng tư của con (88,7%); Khi con buồn, ƯX của cha (mẹ)
thường là chia sẻ và lắng nghe con tâm sự (88,7%) và đặc biệt là cha (mẹ)
thường dùng cách quan sát, theo dõi thái độ của con để tìm hiểu tâm tư và
suy nghĩ của con (89,3%). Như vậy, chỉ có khoảng 12% CMHS cho rằng họ
đã sử dụng kiểu QH cha mẹ - trẻ nhỏ với con. Tuy nhiên, trong suy nghĩ của
trẻ, trung bình có đến hơn 32% HS cho rằng trong vấn đề tâm tư, tình cảm của
các em, cha mẹ đã hoặc nghiêm khắc – cứng nhắc hoặc bàng quan – xa cách
trong ƯX với các em. Cụ thể như sau: có đến 29,4% HS cho rằng khi biết con
viết nhật ký, ƯX của cha (mẹ) thường là hoặc con muốn làm gì thì làm hoặc
không cho phép con có chuyện riêng tư; 40,0% HS khẳng định khi con buồn,
ƯX của cha (mẹ) thường là hoặc là cho rằng vui buồn là chuyện thường ngày
hoặc là cho rằng con còn nhỏ, không có việc gì phải buồn; 29,4% HS trả lời
để tìm hiểu tâm tư và suy nghĩ của con, cha (mẹ) thường dùng cách hoặc hỏi
để con trả lời nhưng con không thích nói thì thôi không tìm hiểu nữa hoặc bắt
buộc con phải nói ra hết những suy nghĩ của con.
Liên quan đến vấn đề này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn sâu HS và
CMHS về việc trẻ viết nhật ký.
Một bạn HS nữ, học lớp 8 đã tâm sự: “Em bắt đầu viết nhật ký vào năm
lớp 6. Lúc mới vào rường cấp II, em còn bỡ ngỡ nhiều thứ lắm, mấy bạn học
hồi tiểu học không có ai học chung nên em cũng không biết nói chuyện với ai
trong lớp cả. Từ đó, em đã viết nhật ký. Lên lớp 7, em cũng có kết thân với
một số bạn trong lớp và đôi lúc cũng hay xảy ra cãi vã giữa em và các bạn
ấy. Những lúc như thế em buồn lắm. Những khi ấy, em hay viết vào nhật ký
những bực bội, ấm ức đó. Mỗi lần viết xong là em thường nhét quyển nhật ký
75
vào trong hốc kệt của kệ tủ vì em sợ mẹ lén đọc nhật ký của em. Bởi vì mẹ hay
vào phòng riêng của em để dọn dẹp, có lúc còn lấy vở và bài kiểm tra của em
ra xem điểm nữa. Em không thích mẹ lấy đồ vật của em mà không xin ý kiến
của em.”
Một HS nữ khác, học lớp 9 cũng chia sẻ: “Học lớp 9 căng thẳng và áp lực
lắm chị ạ. Lúc nào mẹ cũng bắt em học, chỉ cần em ngồi không chút xíu là mẹ
lại kêu em học bài. Hồi đó em cũng hay bắt chước các bạn viết nhật ký.
Nhưng từ khi bị mẹ phát hiện, rồi mẹ lại đọc nội dung trong cuốn nhật ký đó
chho cả nhà nghe, em quê quá nên từ đó không viết nhật ký nữa. Những khi
buồn em chỉ thích nghe nhạc của Đông Nhi hoặc Bảo Thi. Em cũng muốn tâm
sự với mẹ lắm, mặc dù mẹ cũng chịu nghe em nói nhưng rồi cuối cùng mẹ lại
hay nói câu là: con nít, buồn chút rồi thôi, chứ có gì đâu. Em hơi bị sốc đó
chị”.
Từ nội dung trả lời phỏng vấn của hai em HS, chúng ta nhận thấy, ở lứa
tuổi này, cha mẹ rất hay lo sợ con mắc sai lầm trong cuộc sống. Nên theo một
số CMHS, một trong những cách để hiểu thêm về tâm tư tình cảm của con là
phải tìm đọc cho bằng được nhật ký của các em. Có CMHS đã đọc lén nhật lý
của con nhưng không để con biết và âm thầm, tế nhị quan sát, theo dõi các
em. Đây là điều rất đáng cảm thông cho các bậc làm cha làm mẹ mặc dù đã có
sự xúc phạm đến sự riêng tư của trẻ. Tuy nhiên cũng có những CMHS vẫn
xem các em như trẻ nhỏ nên hoặc không cho phép con có chuyện riêng tư nên
đã cấm không cho con viết nhật ký mà phải nói với cha mẹ mọi điều hoặc
công khai nội dung trong cuốn nhật ký đó ra cho cả nhà biết. Đây là điều cha
mẹ nên tránh. Thực ra, giữa CMHS và trẻ ở độ tuổi này đang tồn tại một
khoảng cách, và khoảng cách ấy rất dễ bị đẩy xa hơn nếu cha mẹ và con
không cố gắng gần gũi nhau, xem nhau như những người bạn thật sự. Những
khó khăn trong học tập và trong cuộc sống, sự cố trong gia đình nếu được
76
chia sẻ thì mọi việc việc sẽ ổn thỏa. Một tình cảm mới lạ, một nỗi buồn hay lo
lắng nếu được bộc bạch, được tâm sự thì chắc chắn giữa cha mẹ và con sẽ
cảm thấy thoải mái, dễ chịu hơn. Điều mà các em thường làm là các em hay
thủ thế, các em cứ cho rằng người lớn không chịu hiểu, không chấp nhận
những chuyện đang xảy ra đang xảy ra với các em Do vậy, giải pháp thủ
thế, giải pháp ngăn cản cha mẹ tìm hiểu, quan tâm và chia sẻ không phải là
giải pháp hữu hiệu, điều quan trọng là các em phải đặt mình vào vị trí của cha
mẹ để thấu hiểu và cảm thông cho cha mẹ, phải giải quyết mọi việc bằng cách
tạo niềm tin cho cha mẹ về bản thân mình.
Đối với những vấn đề thường gặp ở trẻ, bảng 2.7e cũng cho thấy, phần lớn
cha mẹ đã có sự tôn trọng các em, bằng chứng là Khi cấm con điều gì, ƯX của
cha (mẹ) thường là giải thích rõ lý do cho con hiểu (93,5%); Khi con có thái
độ thiếu tôn trọng người lớn, ƯX của cha (mẹ) thường là đặt con vào tình
huống cụ thể để khuyên dạy con (73,2%); Trong chỗ đông người, con làm sai
việc gì, ƯX của cha (mẹ) thường là khéo léo nhắc nhở, chứ không la rầy con
trước mặt nhiều người (94%). Ngoài ra, cha mẹ cũng cho phép các em có
những quyền hạn nhất định trong những vấn đề có liên quan các em gia đình,
đơn cử những tình huống như: Khi giao việc cho con, ƯX của cha (mẹ)
thường là trao đổi và bàn bạc với con (85,7%); Khi đưa ra quyết định có liên
quan đến con, ƯX của cha (mẹ) thường là hỏi ý kiến con (95,8%). Hơn thế
nữa, điều đáng mừng trong ƯX của cha mẹ với con trong các tình huống này
là Khi con gặp chuyện không hay, ƯX của cha (mẹ) thường là tìm hiểu
nguyên nhân sự việc và hướng dẫn con cách giải quyết (97,6%). Bởi vì, mặc
dù, trong ƯX hàng ngày, cha mẹ đã thể hiện sự tôn trọng con và cho con có
những quyền độc lập và tự chủ nhưng không vì thế mà cha mẹ để con hoàn
toàn chịu trách nhiệm với suy nghĩ, hành động của mình và gạt bỏ hoàn toàn
sự hướng dẫn và theo dõi con trong sinh hoạt. Bởi vì trẻ tuổi TN không còn là
77
trẻ con nữa, nhưng cũng chưa hoàn toàn là người lớn nên các em rất cần sự
hướng dẫn thường xuyên và đúng đắn của cha mẹ về mọi mặt.
Thông qua một số tình huống trên chứng tỏ phần lớn cha mẹ sử dụng kiểu
QH cha mẹ - người bạn khi ƯX với trẻ. Tuy nhiên, cũng với những tình
huống đó, số trẻ có suy nghĩ cha mẹ sẽ ƯX với trẻ theo kiểu QH trên vẫn ít
hơn hơn với số cha mẹ đã ƯX theo kiểu QH đó. Bằng chứng là số CMHS sử
dụng kiểu QH cha mẹ - người bạn với con dao động từ 73,2% đến 97,6%.
Trong khi đó, số HS cho rằng cha mẹ sử dụng kiểu QH cha mẹ - người bạn
trong ƯX với các em dao động từ khoảng 51,9% đến 83,8%.
Sự không tương đồng trong kết quả nghiên cứu này rất đáng để chúng ta
lưu tâm. Bởi vì, một trong những đặc trưng quan trọng tâm lý của các em là
hình thành năng lực tự ý trong sự phát triển nhân cách của trẻ tuổi TN, khi đó,
các em biết tự nhận thức – tự đánh giá, hình thành sự tự đánh giá và hành
động ý chí với những kế hoạch cụ thể. Trên cơ sở tự nhận thức, tự đánh giá và
tự giáo dục bản thân, các em mới có khả năng điều khiển, điều chỉnh hoạt
động của bản thân cho phù hợp với yêu cầu khách quan, mới giữ được quan
hệ, giữ được vị trí xứng đáng trong xã hội, trong lớp học, trong nhóm bạn.
Các em rất nhạy cảm với lời đánh giá của xã hội, của người lớn. Do vậy, nếu
như cách ƯX của cha mẹ với các em không khéo léo, tế nhị, luôn ƯX với trẻ
một cách hoặc nghiêm khắc – cứng nhắc hoặc bàng quan – xa cách thì sẽ là
hoàn toàn không phù phù hợp với nguyện vọng của trẻ tuổi ở lứa tuổi này. Ví
dụ điển hình về cách ƯX này như sau: Khi giao việc cho con, ƯX của cha
(mẹ) thường là hoặc bắt con làm và không được có ý kiến hoặc con không
thích làm cũng không sao; Khi đưa ra quyết định có liên quan đến con, ƯX
của cha (mẹ) thường là hoặc không cho con có ý kiến hoặc tùy ý con muốn
sao cũng được; Khi con có thái độ thiếu tôn trọng người lớn, ƯX của cha
(mẹ) thường là hoặc trách phạt nghiêm khắc hoặc lờ đi (Bảng 2.7e)
78
Bảng 2.7e: Cách ƯX của cha mẹ
đối với những vấn đề thường gặp của con
Một số tình huống Ứng xử của cha mẹ đối với con tuổi TN
HS CMHS Mức ý
nghĩa N %
N
%
15. Khi giao việc
cho con, ƯX của
cha (mẹ) thường
là:
1.Con không thích làm cũng
không sao 138
43,1
48
14,3 0,000* 2.Bắt con làm và không
được có ý kiến
3.Trao đổi và bàn bạc với
con
182
56,9
288
85,7
16. Khi đưa ra
quyết định có liên
quan đến con, ƯX
của cha (mẹ)
thường là:
1.Tùy ý con muốn sao cũng
được 52 16,3
14
4,2 0,000* 2.Không cho con có ý kiến
3.Hỏi ý kiến con
268
83,8
322
95,8
17. Khi cấm con
điều gì, ƯX của
cha (mẹ) thường
là:
1.Nếu con không thích thì
thôi không cấm nữa 62
19,4
22
6,5 0,000* 2.Không bao giờ giải thích lý do
3.Giải thích rõ lý do cho
con hiểu
258
80,6
314
93,5
18. Khi con có thái
độ thiếu tôn trọng
người lớn, ƯX của
cha (mẹ) thường
là:
1.Lờ đi 154
48,1
90
26,8
0,000*
2.Trách phạt nghiêm khắc
3.Đặt con vào tình huống cụ
thể để khuyên dạy con 166 51,9
246
73,2
19.Trong chỗ đông
người, con làm sai
việc gì, ƯX của
cha (mẹ) thường
là:
1.Im lặng, xem như không
có gì 70 21,9
20
6,0
0,000* 2.La rầy con ngay lập tức 3.Khéo léo nhắc nhở, chứ
không la rầy con trước mặt
nhiều người
250
78,1
316
94,0
20. Khi con gặp
chuyện không hay,
ƯX của cha (mẹ)
thường là:
1.Luôn bênh vực con 70
21,9
8
2,4
0,000*
2.Trách phạt con
3.Tìm hiểu nguyên nhân sự
việc và hướng dẫn con cách
giải quyết
250
78,1
328
97,6
* Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
79
Để hiểu đúng về trẻ, một trong cách hữu hiệu là cha mẹ phải thường
xuyên trò chuyện với trẻ và khuyến khích trẻ nói lên suy nghĩ của mình. Thế
nhưng, kết quả trình bày ở bảng 2,7f cho thấy, có 11,9% CMHS đã thường
hoặc là không có gì để nói hoặc là nhắc nhở, la rầy con nhưng có đến 38,1%
HS đã nghĩ như thế về cha mẹ của mình.
Bảng 2.7f: Cách ƯX của cha mẹ trong các cuộc trò chuyện với con
Một số tình huống
ƯX của cha mẹ đối với
con tuổi TN
HS CMHS
Mức ý
nghĩa
N
%
N
%
Trong các cuộc trò
chuyện giữa con và
cha mẹ, ƯX của cha
(mẹ) thường là:
1.Không có gì để nói 122
38,1
40
11,9
0,000*
2.Nhắc nhở, la rầy con
3.Khuyến khích con nói
ra những điều con nghĩ
198
61,9
296
88,1
* Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
Trao đổi với chúng tôi về vấn đề này, mẹ của một HS lớp 7 đã trả lời câu
hỏi phỏng vấn của chúng tôi như sau: “Con tôi đang có nhiều sự thay đổi quá.
Càng ngày nó càng bướng bỉnh, tôi nói mà nó chẳng chịu nghe, cứ làm theo
những gì nó thích. Lúc nào tôi cũng la rầy nhắc nhở nó từ việc học đến việc
vui chơi bè bạn. Tôi cứ tranh thủ lúc nó vui vẻ, không học bài, tôi đến dặn dò,
nhắc nhở nó phải lo học hành.”
Trả lời câu hỏi “Trong các cuộc trò chuyện giữa cha mẹ và con, chị và con
thường nói về vấn đề gì?” của chúng tôi, mẹ của một em HS lớp 8 đã chia sẻ:
“Chị luôn dành thời gian trò chuyện với con vào những khi con rãnh rỗi. Vì
chị có nghe đài Bình Dương và được các chuyên gia tư vấn khuyên nên
thường xuyên gần gũi trò chuyện với con. Nhưng khổ một nỗi là chị và con
không thể trò chuyện lâu được. Nó nói tới đâu là chị lại muốn phát điên đến
đấy vì những câu chuyện của nó, nhưng chị vẫn cố kềm chế cảm xúc và cuối
80
cùng chị và con đành phải dừng cuộc nói chuyện. Chị không thể hiểu được
mấy đứa trẻ bây giờ nó có suy nghĩ sao sao đó. Con chị là con gái, chỉ mới có
học lớp 8 thôi mà lại nói về những chuyện tình yêu, tình dục của bạn bè nó rồi
còn “chat sex”, “cứu net” gì đó, thật tình là chị cũng hiểu nghĩa của những
từ đó là gì, khi hỏi kỹ lại con, nó giải thích thì chị mới té ngửa.Chị cũng
không rành về mạng miết gì đó nên khi con đề cập đến chị cũng bó tay, đâu
biết nói với con ra sao. Cuối cùng chị đành phải nhắc nhở, la rầy con không
được bắt chước như các bạn thì nó lại tỏ vẻ không vui, mặt xị xuống, bỏ đi
không thèm nói chuyện nữa”.
Rõ ràng, cha mẹ cũng cần có sự tìm hiểu nhất định về những gì trẻ đang
quan tâm để có thể trò chuyện, trao đổi cùng với trẻ đến nơi đến chốn. Sự
hiểu biết về thế giới của các em sẽ giúp cha mẹ giữ được sự bình tĩnh, bình
thường trong những câu chuyện của trẻ và khi đó cha mẹ mới có thể khuyến
khích trẻ nói hết những điều trẻ nghĩ và cũng để tránh được thái độ chê trách,
phê phán dẫn đến cuộc trò chuyện giữa cha mẹ và con hoặc là không có gì để
nói hoặc là chỉ toàn những lời nhắc nhở và la rầy.
Từ số liệu nghiên cứu và nội dung trả phỏng vấn mẹ của HS, chúng ta có
thể nhận thấy, trên thực tế cha mẹ và trẻ thường xuyên tiếp xúc với nhau. Nội
dung và cách thức của các cuộc tiếp xúc rất khác nhau tùy theo mỗi gia đình.
Một số cha mẹ và trẻ có gặp gỡ, có phát biểu với nhau nhưng chưa tạo ra một
cuộc trò chuyện thực sự. Do một số thói quen chi phối, các bậc cha mẹ khi
tiếp xúc với trẻ thường chuyển cuộc đối thoại thành buổi độc thoại cho con
nghe – cha mẹ thuyết giảng trước con: khuyên bảo, la rầy, nhắc nhở, chỉ trích,
lên lớp, tra hỏi, đánh giá, dò xét Trong các buổi trò chuyện như vậy, cha
mẹ thường thể hiện những vai trò như Tổng tư lệnh (cha mẹ tự cho mình là
người có quyền kiểm soát mọi thứ ở trẻ và đòi hỏi trẻ phải tuân phục theo
những “khuôn phép” bằng thái độ mệnh lệnh, chỉ huy, dọa nạt); Nhà đạo
81
đức (cha mẹ thường thuyết giáo trước trẻ “con phải thế này, con nên thế kia”
và quan tâm, đến việc làm sao để trẻ luôn có thái độ đúng đắn); Nhà bác học
(cha mẹ hoặc cố tỏ ra cho con biết rằng người lớn đã từng trải và tích lũy
nhiều kinh nghiệm mà trẻ cần phải học hỏi hoặc lên lớp, khuyên nhủ, kêu gọi
trẻ phải nể trọng và cố tỏ ra mình siêu phàm); Quan tòa (cha mẹ chú trọng vào
việc phán xét tội lỗi của con và luôn chứng tỏ mình đúng, còn trẻ lúc nào
cũng sai); Nhà phê bình (giống như “quan tòa, nhà đạo đức, nhà bác học”, cha
mẹ luôn cho rằng mình đúng, đồng thời dựa vào sự nhạo báng, chỉ trích, đùa
giỡn để dìm đứa trẻ xuống); Nhà tâm lý (cha mẹ cố gắng phân tích, chất vấn,
lý giải để giải quyết vấn đề để giải quyết vấn đề cho con); Người nhũ mẫu
(cha mẹ thường trấn an, xoa dịu, coi nhẹ cảm giác của trẻ, cố ý đơn giản hóa
mọi vấn đề con gặp phải). Nếu cha mẹ thường xuyên có những biểu hiện như
vậy, trẻ sẽ khép kín các suy nghĩ của mình hoặc những điều trẻ nói ra chỉ là
theo ý muốn của cha mẹ, chứ trẻ không dám nói thật với suy nghĩ của mình.
Như vậy, cuộc tiếp xúc đó thật ra không có những dấu hiệu của cuộc trò
chuyện. [dẫn theo 19, tr. 34, 35]
Những phân tích trên cho thấy, đa số CMHS đã thường xuyên sử dụng
kiểu QH cha mẹ - người bạn với trẻ, tuy nhiên, vẫn còn không ít HS cho rằng
cha mẹ vẫn sử dụng kiểu QH cha mẹ - trẻ nhỏ với các em. Vậy, nguyên nhân
của sự khác biệt trên là do đâu? Theo chúng tôi, về phía HS, có thể trong tâm
lý của trẻ tuổi TN, khi tương tác với người lớn, các em có xu hướng “cường
điệu hóa”, “kịch hóa” các tác động của người lớn trong ƯX hàng ngày. Với
cùng một tác động, các em phản ứng khác so với học sinh nhỏ và người
trưởng thành. Các em thường suy diễn, thổi phồng, cường điệu hóa quá mức
tầm quan trọng của các tác động đó, đặc biệt là các tác động liên quan đến
danh dự và lòng tự trọng của các em. Vì vậy, chỉ cần một sự tác động không
khéo léo của người lớn sẽ khiến cho các em có suy nghĩ không đúng về cha
82
mẹ của mình. Về phía CMHS, mặc dù trong nhận thức, hầu hết cha mẹ đều
mong muốn có QH tốt đẹp, cách ƯX phù hợp với mong đợi của con mình thế
nhưng việc thể hiện ra bằng thái độ, hành vi và cử chỉ còn phụ thuộc vào kỹ
năng, sự khéo léo và tinh tế của mỗi ông bố bà mẹ.
Trên đây là nhìn nhận của HS về cách cha (mẹ) ƯX trong quan QHCM-C,
liệu rằng cách suy nghĩ đó có bị chi phối bởi yếu tố giới tính hay hay từng độ
tuổi khác nhau không?
Số liệu ở bảng 2.8 cho thấy, có 76% HS nam cho rằng cha mẹ của em sử
dụng kiểu QH cha mẹ - người bạn, trong khi đó có đến 84,6% HS nữ cho rằng
cha mẹ của em có kiểu QH như thế với mình. Thực tế trên cho thấy, xét về
tổng thể, HS nam và HS nữ có sự nhất trí với nhau trong việc nhìn nhận kiểu
QHCM-C và không có sự khác biệt có nghĩa thống kê (Mức ý nghĩa = 0,077
> 0,05).
Bảng 2.8: Kiểu quan QH cha mẹ với con (So sánh theo giới tính của HS)
Kiểu quan hệ cha mẹ với con tuổi TN
HS nam HS nữ
N
%
N
%
Quan hệ cha mẹ - trẻ nhỏ
32
23,2
28
15,4
Quan hệ cha mẹ - người bạn
106
76,8
154
84,6
Kiểm định chi bình phương Mức ý nghĩa = 0,077
Tuy nhiên, khi xem xét cụ thể các tình huống, PL2 [bảng 13] cho thấy,
trong 21 tình huống ƯX chúng tôi đưa ra, số HS nữ được cha mẹ sử dụng
kiểu QH cha mẹ - người bạn nhiều hơn số HS nam được cha mẹ sử dụng kiểu
QH nhu thế, và chỉ có 4 tình huống mà sự chênh lệch đó có sự khác biệt có ý
83
nghĩa thống kê (Mức ý nghĩa < 0,05) như: Khi con hỏi về những điều khó hiểu
trong bài học; Con xin tiền mua sách vở học tập; Con đi học về trễ; Khi con
buồn.
Riêng các khối lớp, qua số liệu trình bày ở bảng 2.9 chúng ta nhận thấy,
có khoảng 87% HS lớp 7 cho rằng cha mẹ của em sử dụng kiểu QH kiểu cha
mẹ - người bạn, trong khi đó có 79% HS lớp 8 và 78,3% HS lớp 9 cho rằng
cha mẹ của em có kiểu QH như thế đối với mình. Bảng 2.9 cũng cho thấy, có
sự thống nhất giữa HS các khối lớp 7, lớp 8 và lớp 9 trong việc nhìn nhận
kiểu QHCM-C và không có sự khác biệt có nghĩa thống kê (Mức ý nghĩa =
0,205 > 0,05).
Bảng 2.9: Kiểu QH cha mẹ với con (So sánh theo khối lớp của HS)
Kiểu quan hệ cha mẹ với con tuổi TN
HS lớp 7 HS lớp 8 HS lớp 9
N
%
N
%
N
%
Quan hệ cha mẹ - trẻ nhỏ
13
13,0
21
21,0
26
21,7
Quan hệ cha mẹ - người bạn
87
87,0
79
79,0
94
78,3
Kiểm định chi bình phương Mức ý nghĩa = 0,205
Tìm hiểu chi tiết ở PL2 [bảng 14] cho thấy, nhìn chung, trong 21 tình
huống ƯX chúng tôi đưa ra, xét ở từng tình huống cụ thể, tỷ lệ HS của các
khối lớp có sự nhìn nhận không giống nhau (lớp 7 cao hơn lớp 8 và lớp 9) và
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (Mức ý nghĩa < 0,05) được thể hiện ở một
số tình huống như: Khi con bị giáo viên phàn nàn về việc học; Khi biết con có
một buổi nghỉ học không phép; Khi đưa ra quyết định có liên quan đến con;
Khi thấy con có ý muốn đua đòi cho bằng bạn bè; Con đi học về trễ, Con bị
84
điểm kém; Khi cấm con điều gì; Khi con buồn; Khi con có thái độ thiếu tôn
trọng người lớn; Trong các cuộc trò chuyện giữa con và cha mẹ.
Như vậy, nhìn chung, cách nhìn nhận của HS về cha mẹ của chúng trong
QHCM-C ít bị chi phối bởi giới tính và độ tuổi của trẻ. Và theo kết quả khảo
sát, kiểu QHCM-C mà cha mẹ sử dụng với con của mình cũng không bị ảnh
hưởng bởi yếu tố là cha của HS hay là mẹ của HS (Bảng 2.10). Nhưng khi xét
từng tình huống cụ thể, vẫn có một số tình huống CMHS chưa có sự nhất trí
về cách ƯX trong QHCM-C, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (Mức ý
nghĩa < 0,05) ở một số tình huống: Con xin tiền mua sách vở học tập; Khi
thấy con có ý muốn đua đòi cho bằng bạn bè. [PL2, bảng 15]
Bảng 2.10: Kiểu QH cha mẹ với con
(So sánh theo quan hệ của cha mẹ với con)
Các kiểu quan hệ
Cha của HS Mẹ của HS
N
%
N
%
Quan hệ cha mẹ - trẻ nhỏ
5
4,2
6
2,8
Quan hệ cha mẹ - người bạn
115
95,8
210
97,2
Kiểm định chi bình phương Mức ý nghĩa = 0,493
Về phía CMHS, mặc dù cha của HS và mẹ của HS đề có sự nhất trí với
nhau về cách ƯX trong QHCM-C tuổi TN, nhưng cũng với những tình huống
đó, xét về CMHS có con trai và CMHS có con gái (Bảng 2.11), CMHS có con
học lớp 7, lớp 8 hay lớp 9 nhau (Bảng 2.12) thì các bậc cha mẹ vẫn chưa có
sự nhất trí cách ƯX với con trong QHCM-C tuổi TN. Sự chưa nhất trí trong
việc sử dụng kiểu QH của được thể hiện rõ qua những tình huống cụ thể ở
PL2 [bảng 16 và bảng 17].
85
Bảng 2.11: Kiểu QH cha mẹ với con
(So sánh theo CMHS có con trai hay con gái)
Kiểu quan hệ cha mẹ với con
tuổi TN
CMHS có con trai CMHS có
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tvefile_2013_02_22_9339376536_4221_1871092.pdf