MỤC LỤC
Lời cảm ơn . i
Danh mục chữ viết tắt .ii
Mục lục.iii
Danh mục bảng.vi
Danh mục sơ đồ.vi
MỞ ĐẦU . 1
CHưƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC VÀ
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC TIỂU HỌC . 7
1.1.Tổng quan nghiên cứu về quản lý hoạt động xã hội hóa giáo dục Tiểu học. 7
1.1.1. Tình hình hoạt động xã hội hóa giáo dục ở ngoài nước . 7
1.1.2. Tình hình nghiên cứu hoạt động xã hội hóa giáo dục ở trong nước . 9
1.1.3. Nhận xét về tổng quan nghiên cứu quản lý hoạt động xã hội hóa giáo
dục Tiểu học. 12
1.2. Một số khái niệm cơ bản. 13
1.2.1. Quản lý . 13
1.2.2. Giáo dục và quản lý giáo dục. 14
1.2.3. Nhà trường và quản lý nhà trường . 17
1.2.4. Xã hội hóa . 19
1.2.5. Xã hội hóa giáo dục. 19
1.3. Hoạt động xã hội hóa giáo dục ở nhà trường Tiểu học. 20
1.3.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về giáo dục và xã hội hóa giáo dục . 20
1.3.2. Ý nghĩa, tầm quan trọng của xã hội hóa giáo dục . 21
1.3.3. Mục tiêu của hoạt động xã hội hóa giáo dục . 23
1.3.4. Những nguyên tắc cơ bản của hoạt động xã hội hoá giáo dục . 24
1.3.5. Nội dung của hoạt động xã hội hóa giáo dục. 25
1.3.6. Điều kiện của hoạt động xã hội hóa giáo dục . 27
1.4. Quản lý hoạt động xã hội hóa giáo dục Tiểu học . 29iv
1.4.1. Xây dựng kế hoạch phù hợp với hoạt động giáo dục và điều kiện thực
tế của địa phương, đơn vị. 29
1.4.2. Tổ chức thực hiện hoạt động xã hội hoá giáo dục . 29
1.4.3. Chỉ đạo, chỉ huy, điều phối . 30
1.4.4. Kiểm tra, đánh giá hoạt động XHHGD. 30
1.4.5. Thông tin . 30
Tiểu kết chương 1. 32
CHưƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI HÓA
GIÁO DỤC TIỂU HỌC Ở HUYỆN THANH TRÌ, THÀNH PHỐ HÀ
NỘI . 34
2.1. Vài nét về huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. 34
2.1.1. Tình hình địa lý, kinh tế - xã hội ở huyện Thanh Trì. 34
2.1.2. Tình hình Giáo dục - Đào tạo ở huyện Thanh Trì . 35
2.1.3. Tình hình giáo dục Tiểu học ở huyện Thanh Trì - Hà Nội. 37
2.2. Thực trạng hoạt động xã hội hóa giáo dục Tiểu học ở huyện Thanh Trì. 40
2.2.1. Nhận thức của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương, các đoàn thể,
nhân dân và cán bộ quản lý giáo dục đối với hoạt động xã hội hoá giáo dục. . 40
2.2.2. Những chủ trương, chính sách của các cấp lãnh đạo địa phương và
ngành giáo dục đối với hoạt động xã hội hoá giáo dục Tiểu học. 43
2.2.3. Hoạt động xã hội hoá giáo dục ở các trường Tiểu học huyện Thanh Trì,
thành phố Hà Nội . 45
2.3. Thực trạng quản lý hoạt động xã hội hoá giáo dục Tiểu học huyện Thanh
Trì, thành phố Hà Nội . 48
2.4. Kết quả chung và những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn quản lý
hoạt động xã hội hoá giáo dục Tiểu học ở huyện Thanh Trì . 50
2.4.1. Thành tựu . 50
2.4.2. Hạn chế. 53
2.4.3. Nguyên nhân . 54
Tiểu kết chương 2. 56v
CHưƠNG 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI
HÓA GIÁO DỤC TIỂU HỌC Ở HUYỆN THANH TRÌ, THÀNH PHỐ
HÀ NỘI . 57
3.1. Một số biện pháp quản lý hoạt động xã hội hoá giáo dục Tiểu học ở
huyện Thanh Trì - Hà Nội. 57
3.1.1. Biện pháp1: Tổ chức các hoạt động tuyên truyền nâng cao nhận thức về
vai trò hoạt động xã hội hoá giáo dục Tiểu học. 57
3.1.2. Biện pháp 2: Xây dựng cơ chế quản lý, phối hợp, huy động các lực
lượng xã hội tham gia quản lý hoạt động XHH GDTH . 61
3.1.3. Biện pháp 3: Xây dựng các nội dung hoạt động xã hội hoá giáo dục
Tiểu học. 64
3.1.4. Biện pháp 4: Huy động các nguồn lực xã hội, nhất là sự phối hợp của 3
môi trường giáo dục: Nhà trường, gia đình và xã hội nhằm xây dựng trường
học thân thiện, học sinh tích cực. 67
3.1.5. Biện pháp 5: Phát huy vai trò nòng cốt của nhà trường trong việc đa
dạng hoá các loại hình giáo dục Tiểu học. 70
3.2. Kết quả khảo nghiệm tính cầp thiết và tính khả thi của các biện pháp
quản lý hoạt động xã hội hoá giáo dục Tiểu học ở huyện Thanh Trì qua ý kiến
chuyên gia . 74
3.2.1. Quy trình lấy ý kiến. 74
3.2.2. Kết quả thăm dò . 75
3.2.3. Mối tương quan giữa tính cấp thiết và tính khả thi của các biện pháp. 76
3.3. Mối quan hệ giữa các biện pháp . 77
Tiểu kết chương 3.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý hoạt động xã hội hoá giáo dục Tiểu học ở huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
học thông qua
liên kết đào tạo
nghề, tìm việc
làm với nâng
cao trình độ văn
hoá phổ thông
tập và loại
hình trường
lớp
bỏ học, lưu ban và trẻ không có
điều kiện đến trường.
Philippines
Nâng cao trình
độ học vấn và
việc làm
- Giáo dục
hoá xã hội
- Đa dạng
hoá các loại
hình học
tập
Lôi cuốn cộng đồng vào việc
chuyển giao công nghệ - kỹ
thuật sản xuất, đi đôi với việc
giáo dục thanh thiếu niên. ở
Philippin còn có trường học ở
xã chăm lo dạy văn hoá, dạy
nghề cho thanh niên và cả
người lớn, do địa phương xây
dựng, thể hiện rất rõ tinh thần
XHHGD.
Australia
Giáo dục là
cứu tinh của
đất nước
Thể chế
hoá trách
nhiệm
Lôi cuốn cộng đồng tham gia
vào giáo dục đang là vấn đề
quan trọng để cộng đồng có thể
hỗ trợ công tác quản lý và công
tác giáo dục.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu hoạt động xã hội hóa giáo dục ở trong nước
XHHGD là cuộc vận động lớn mang tính chất toàn xã hội, XHHGD thực
hiện quyền làm chủ thực sự của nhân dân đối với sự nghiệp giáo dục,
10
XHHGD là cách thức làm giáo dục và dân chủ hoá nhà trường, XHHGD là
chiến lược của đường lối giáo dục.
Giáo dục là phạm trù vĩnh cửu, sự ra đời của giáo dục gắn liền với sự
hình thành, tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Chức năng đầu tiên,
chức năng nguyên thuỷ của giáo dục là XHH.
Ngày nay, loài người đó bước vào thế kỷ XXI, thế kỷ mở ra cho nhân
loại một thời đại văn minh trí thức. Thời đại đó yêu cầu con người phải:
“Học để biết, học để làm, học để chung sống với người khác, học để khẳng
định mình và phát triển”. Tuy nhiên, không có một ngôi trường nào, người
thầy nào đủ sức đưa hết mọi tri thức, kỹ năng, thái độ vào dạy học nhà
trường. Bởi vậy, việc học tập ngày nay không chỉ diễn ra trong nhà trường mà
cũng phải học trong gia đình và ngoài xã hội với nhiều hình thức phong phú
và đa dạng; kéo dài suốt đời, học những gì cần cho cuộc sống khi có nhu cầu
và điều kiện, nghĩa là phải giáo dục cho mọi người và mọi người phải tự giáo
dục để tiến tới một xã hội học tập.
XHHGD là một quan điểm của Đảng và Nhà nước ta. Quan điểm đó là
sự đúc kết truyền thống hiếu học, đề cao sự học và chăm lo việc học hành
của nhân dân ta suốt hàng nghìn năm lịch sử phát triển của dân tộc. Từ cách
mạng tháng 8/1945 thành công đến nay, nhiều văn bản của Đảng và Nhà
nước ta chỉ đạo sự nghiệp giáo dục đó khẳng định: “Giáo dục là sự nghiệp của
quần chúng”, “Nhà nước và Nhân dân cùng làm giáo dục”. Nghị quyết Hội
nghị TW 4 khoá VII nhấn mạnh: “Nhà nước cần đầu tư nhiều hơn cho giáo
dục, nhưng vấn đề quan trọng là phải quán triệt sâu sắc và tiến hành tốt việc
xã hội hoá các nguồn đầu tư, mở rộng phong trào xây dựng phát triển giáo
dục trong nhân dân, coi giáo dục là sự nghiệp của toàn xã hội”. Nghị quyết
Hội nghị TW 2 khoá VIII một lần nữa khẳng định: “Giáo dục là sự nghiệp của
toàn Đảng của Nhà nước và của toàn dân”. Nghị quyết TW 6 khoá IX, Đảng
ta chỉ ra: “Đẩy mạnh XHHGD, xây dựng xã hội học tập, coi giáo dục là sự
nghiệp của toàn dân và XHHGD là một giải pháp quan trọng để tiếp tục phát
11
triển giáo dục”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta lại tiếp tục
khẳng định: “Đẩy mạnh XHHGD”. Điều 12, Luật Giáo dục 2005 đã nêu: Xã
hội hóa sự nghiệp giáo dục để thực hiện đa dạng hoá các loại hình trường và
các loại hình giáo dục; khuyến khích huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá
nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục”. Trên cơ sở quan điểm của
Đảng, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 90/CP về phương hướng và chủ
trương XHH các hoạt động giáo dục nhằm cụ thể hoá chủ trương, nội dung,
biện pháp XHH hoạt động GD & ĐT. Ngày 18/4/2005, Chính phủ ban hành
Nghị quyết số 05/2005 NQ- CP về đẩy mạnh XHH các hoạt động GD & ĐT.
Ngày 24/6/2005, Bộ GD & ĐT đó ban hành Quyết định số 20/2005/ QĐ-
BGD&ĐT phê duyệt đề án “Quy hoạch phát triển XHHGD giai đoạn 2005 -
2020”.
Bên cạnh những chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước nêu trên,
các nhà khoa học, nhà quản lý giáo dục nước ta cũng có nhiều công trình
nghiên cứu về XHHGD. Như tác giả Phạm Minh Hạc: “Xã hội hoá công tác
giáo dục, một con đường phát triển giáo dục của nước ta”[27]. Trong tác
phẩm “Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XX”, tác giả Phạm
Minh Hạc nói rằng: “Sự nghiệp giáo dục không chỉ là của Nhà nước mà là của
toàn xã hội. Mọi người cùng làm giáo dục, Nhà nước và xã hội, trung ương và
địa phương cùng làm giáo dục” [26].
Nghiên cứu của Đặng Quốc Bảo cho rằng: “XHHGD phản ánh bản
chất luận đề: Giáo dục cho tất cả mọi người, tất cả cho sự nghiệp giáo dục
(Education for All, All for Education EFA- AFE). Vậy việc huy động toàn
xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền
giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của Nhà nước không phải là một ý tưởng
mới lạ...” [17, tr.6].
Tác phẩm “Xã hội hoá công tác giáo dục, nhận thức và hành động” của
Viện Khoa học giáo dục Việt Nam xuất bản do tập thể Bùi Gia Thịnh, Vũ Tấn
Quang, Nguyễn Thanh Bình nghiên cứu biên soạn đó góp phần hoàn thiện
về nhận thức lý luận và hướng dẫn XHHGD.
12
Điều đáng quan tâm là không phải chỉ ở các nước kém phát triển cũng đó
đề ra nhiều giải pháp đẩy mạnh hoạt động XHHGD để phát triển sự nghiệp
giáo dục, bởi XHHGD là một hệ thống định hướng hoạt động của mọi người,
mọi lực lượng xã hội, nhằm hoàn lại bản chất xã hội của giáo dục, cho giáo
dục và trả lại nhiệm vụ giáo dục của toàn xã hội cho chính xã hội để tiến tới
xây dựng một xã hội học tập. Tổ chức văn hoá giáo dục Liên hiệp quốc
(UNESCO) đó khuyến nghị: Giáo dục không chỉ bó hẹp trong nhà trường.
Giáo dục phải trở thành phong trào quần chúng thực sự.
1.1.3. Nhận xét về tổng quan nghiên cứu quản lý hoạt động xã hội hóa giáo
dục Tiểu học
Vấn đề XHHGD đó được nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn khá sâu
rộng và lâu dài trong lịch sử giáo dục nước ta và các nước trên thế giới. Bên
cạnh các công trình nghiên cứu khoa học nói chung về hoạt động XHHGD
trong những năm gần đây được nhiều nhà quản lý giáo dục nước ta quan
tâm. Các hoạt động của XHHGD là vấn đề rộng lớn, do vậy việc nghiên cứu
hoạt động XHHGD nói chung và quản lý XHHGD ở cấp Tiểu học nói riêng
vẫn có ý nghĩa thực tiễn cao. Ngày nay, giáo dục có vai trò ngày càng quan
trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở tất cả các nước trên thế giới, các
nước phát triển cũng như các nước đang phát triển. Giáo dục thực sự trở thành
nhân tố phát triển kinh tế. Văn minh trí tuệ, kinh tế tri thức, sự phát triển vũ
bão của thông tin, khoa học, công nghệ... đòi hỏi nâng cao mặt bằng dân trí
ngang tầm thời đại. Vấn đề huy động nguồn nhân lực, làm phong phú nguồn
trí tuệ vì những mục tiêu kinh tế và phát triển xã hội....Vì thế ở các nước đều
tập trung đầu tư cho giáo dục bằng mọi nguồn lực (của cải và sức người).
Mặt khác, những vấn đề xã hội cũng vẫn được giải quyết theo xu hướng
thúc đẩy phát triển kinh tế là nâng cao chất lượng cuộc sống bằng những
hưởng thụ vật chất và tinh thần cho con người theo từng cấp độ, mức độ thực
tế, thiết thực. Từ đó vấn đề dân chủ hoá đặt ra, mở đường cho sự tham gia của
mọi người vào các quá trình quản lý xã hội. Giáo dục cũng được giải quyết
13
theo tinh thần dân chủ hoá, phi tập trung hoá, trong đó vấn đề mở rộng và vận
động sự tham gia của xã hội, của mọi tầng lớp nhân dân vào việc giáo dục
cũng được đặt ra theo chiều hướng bức xúc hơn.
Cách giải quyết của mỗi nước tuy khác nhau do phụ thuộc vào hoàn cảnh
kinh tế, văn hoá, xã hội, chính sách của từng nước, nhưng các nước đều tiếp
tục hoàn thiện hơn hoặc hướng tới mục tiêu: làm cho toàn dân quan tâm,
chăm lo đến giáo dục trong điều kiện và tình cảm của mình với ý thức đầy đủ
của một người công dân đã hiểu về giáo dục và đặc tính chuyên biệt của nó,
thông qua các hoạt động ở tầm vĩ mô như các luật, các chế độ chính sách, các
văn bản định hướng của Nhà nước hay của ngành giáo dục ..., hay thông qua
các hoạt động ở tầm vi mô như các hoạt động của các cá nhân, của các gia
đình, của các tổ chức xã hội ...
Nói tóm lại, xu thế chung của mọi nước khi tiến hành XHHGD là tăng
cường cộng đồng trách nhiệm, đa dạng hoá các loại hình trường, lớp và đa
dạng hoá nguồn đầu tư, gắn môi trường giáo dục, đào tạo với mục tiêu phát
triển kinh tế, xã hội, đặc biệt coi trọng thể chế các nội dung XHHGD.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lý
Khi nghiên cứu về cơ sở khoa học của quản lý, các mác đã khẳng định:
“Tất cả mọi người lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến
hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo
để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung
phát sinh từ sự vận động những khí quan độc lập của nó. Một người đọc
tấu vĩ cầm thì tự mình điều khiển lấy mình còn một giàn nhạc thì cần phải
có “nhạc trưởng”. [6, tr.125]
Về nội dung khái niệm quản lý có nhiều cách hiểu
+ Theo Aunapu F.F: “Quản lý là một hệ thống XHCN, là một khoa học
và là một nghệ thuật tác động vào hệ thống xã hội chủ yếu là quản lý con
người nhằm đạt được những mục tiêu xác định. Hệ thống đó vừa động vừa ổn
14
định bao gồm nhiều thành phần có tác động qua lại lẫn nhau.” [1, tr.54]
+ F.W.Taylor cho rằng: “Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn
khác làm và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt
nhất và rẻ nhất”.
+ Harol Koontz khẳng định: “Quản lý là sự tác động thiết yếu bảo đảm
sự nỗ lực của cá nhân nhằm đạt được các mục tiêu của tổ chức.”[20, tr.85]
+ Theo Nguyễn Minh Đạo: “Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức
có định hướng của chủ thể (người quản lý, người tổ chức quản lý) lên khách
thể (đối tượng quản lý) về các mặt chính trị, xã hội, văn hóa, kinh tếbằng
một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và
các biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển
của đối tượng.” [24, tr.97]
Trên đây là những quan niệm khác nhau về quản lý nhưng vẫn cho thấy
một ý nghĩa chung:
Quản lý là quá trình tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng nhằm
điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội, hành vi hoạt động của con người
để đạt tới mục đích, đúng với ý chí của nhà quản lý và phù hợp với quy luật
khách quan.
Một xã hội, một tổ chức hay một cộng đồng muốn phát triển tốt, trước
hết phải có một cơ chế quản lý tốt. Cơ chế ấy phải chi phối và tác động vào
mọi lĩnh vực hoạt động của hệ thống tổ chức, xã hội và làm cho nó vận động
theo chiều hướng tích cực mà chủ thể quản lý từ trước.
1.2.2. Giáo dục và quản lý giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt trong lịch sử nhân loại, là một
trong những lĩnh vực hoạt động xã hội nhằm kế thừa, duy trì và phát triển nền
văn hoá xã hội, văn minh của nhân loại. Giáo dục có tính phổ biến và vĩnh
hằng, là nhân tố cốt lõi và tồn tại khách quan trong mọi giai đoạn phát triển
của xã hội. Theo nghĩa chung nhất: “Giáo dục là quá trình truyền thụ và lĩnh
hội những tri thức, kỹ xảo và những kinh nghiệm nhằm chuẩn bị cho con
15
người bước vào cuộc sống lao động và sinh hoạt xã hội; là một nhu cầu tất
yếu của xã hội loài người, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của con người
và xã hội”.
Giáo dục là điều kiện để con người gắn bó với nhau một cách có hiệu
quả theo mục tiêu đổi mới điều kiện sinh tồn, bởi vì hành động của bất kỳ cá
nhân nào cũng bị hạn chế do khả năng và kinh nghiệm, tri thức của thế hệ
trước truyền lại cho thế hệ sau rồi cứ thế tích luỹ và ngày càng phong phú.
Giáo dục không tồn tại “tự thân, biệt lập” mà nó tồn tại trong một xã hội
cụ thể và mọi sự giáo dục đều hướng tới sự tiến hoá của xã hội, nói cách
khác là luôn có một nền giáo dục xã hội. Giáo dục luôn được quy định bởi
điều kiện, định hướng về chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội cụ thể. Không có
xã hội nào có thể tồn tại mà không có giáo dục và mọi sự giáo dục đều nhằm
mục đích phục vụ cho sự tiến bộ của xã hội. Mối quan hệ biện chứng đó
trong thời đại kinh tế tri thức hiện nay được thể hiện rất sinh động. Mọi
quốc gia thế giới đều quan tâm đến việc đổi mới nền giáo dục của mình để
phù hợp với thay đổi của xã hội và sự phát triển chung của nhân loại. Các
nước đều coi giáo dục là con đường cơ bản để khỏi tụt hậu và phát triển bền
vững. Đảng ta chủ trương phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu, là điều
kiện tiên quyết để phát triển nguồn nhân lực - yếu tố cơ bản để xã hội phát
triển nhanh và bền vững. Giáo dục vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự
phát triển xã hội, văn hoá, kinh tế, chính trị.
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo, giáo dục (G) có thể coi là tâm giao điểm
của hai trục: trục văn hoá - chính trị (V-C) và trục kinh tế - xã hội (K-X)
K
V G C
X
Sơ đồ 1.1: Mô hình giáo dục
16
Quản lý giáo dục là một hoạt động đặc trưng của lao động xã hội. Đây là
một hoạt động chuyên môn nhằm thực hiện quá trình truyền đạt và lĩnh hội
kinh nghiệm lịch sử xã hội qua các thế hệ, đồng thời là động lực thúc đẩy sự
phát triển của xã hội. Để hoạt động này vận hành có hiệu quả, giáo dục phải
được tổ chức thành các cơ sở, tạo nên một hệ thống các cơ sở giáo dục, điều
này dẫn đến một tất yếu là phải có một lĩnh vực hoạt động có tính độc lập
tương đối trong giáo dục, đó là công tác quản lý giáo dục để quản lý các cơ sở
giáo dục có trong thực tiễn. Trong quá trình nghiên cứu về lĩnh vực quản giáo,
đã có nhiều tác giả đưa ra khái niệm quản lý giáo dục như sau:
Theo M.I. Konđacốp: Quản lý giáo dục là tập hợp những biện pháp
tổ chức, phương pháp, kế hoạch hoá, tài chính, cung tiêunhằm đảm bảo
sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục, bảo
đảm sự tiếp tục phát triển và mở rộng cả về mặt số lượng cũng như chất
lượng [23,tr.17].
Theo P.V.Khudominxky: Quản lý giáo dục là động tác có hệ thống, có
kế hoạch, có ý thức và có mục đích của các chủ thể quản lý ở các cấp khác
nhau đến tất cả các khâu của hệ thống (Bộ GD-ĐT đến nhà trường) nhằm
mục đích đảm bảo việc giáo dục Cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, bảo đảm
sự phát triển toàn diện, hài hoà của họ.
Theo tác giả Trần Kiểm: Quản lý giáo dục là tác động có hệ thống, có
kế hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau
nhằm mục đích đảm bảo hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận
thức và vận dụng của quy luật chung của xã hội cũng như các quy luật của
quản lý giáo dục, của sự phát triển tâm lý và thể lực của trẻ em [30, tr.64].
Như vậy, quản lý giáo dục có thể hiểu là: Sự tác động có tổ chức, có
định hướng phù hợp với quy luật khách quan của chủ thể quản lý đến đối
tượng quản lý nhằm đưa hoạt động giáo dục ở từng cơ sở và của toàn bộ hệ
thống giáo dục đạt tới mục tiêu đã định.
Trong quản lý giáo dục, chủ thể quản lý chính là bộ máy các cấp; đối
tượng quản lý chính là nguồn nhân lực, CSVC và các hoạt động thực hiện
17
chức năng của GD & ĐT. Như thế, sự tác động từ chủ thể quản lý đến khách
thể quản lý, có thể từ người quản lý đơn vị cơ sở giáo dục đến đối tượng
quản lý người dạy, người học, CSVC hoặc là sự tác động giữa các cấp
QLGD từ Trung ương đến địa phương.
Nội dung của quản lý giáo dục bao gồm một số vấn đề cơ bản sau:
Xây dựng và thực hiện chính sách, chiến lược và quy hoạch phát triển
giáo dục.
Ban hành, tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về giáo
dục, ban hành điều lệ nhà trường.
Quy định mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục, tiêu chuẩn nhà
giáo, cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học.
Tổ chức bộ máy quản lý giáo dục.
Tổ chức, chỉ đạo việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý- giáo viên.
Huy động quản lý sử dụng các nguồn lực. [....]
Quản lý giáo dục được thực hiện theo các nguyên tắc khác nhau, theo địa
bàn lãnh thổ, theo chuyên môn kỹ thuật, theo mục tiêu quản lý.
1.2.3. Nhà trường và quản lý nhà trường
Xã hội ngày càng phát triển đã thúc đẩy sự ra đời của nhà trường - nơi tổ
chức hoạt động giáo dục một cách có hệ thống và có kế hoạch nhất. Có
nhiều hình thức giáo dục khác nhau nhưng đều đảm bảo sự nhất quán giữa
mục tiêu, nội dung, phương pháp. Giáo dục tồn tại trên trục lưỡng cực Thầy-
Trò. Trong đó Trò đóng vai trò là trung tâm của quá trình giáo dục, Thầy có
vai trò tổ chức quá trình giáo dục. Nhà trường luôn gắn liền với đời sống cộng
đồng. Cộng đồng là nguồn lực của nhà trường. Giữa nhà trường và cộng
đồng có mối quan hệ hữu cơ, bền vững. Đây chính là cơ sở lý luận cho hoạt
động XHHGD, là sự gắn kết giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Điều 48,
Luật giáo dục năm 2005 chỉ rõ: “Nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc
dân thuộc mọi loại hình đều được thành lập theo quy hoạch của Nhà nước
nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục” [22,tr 46].
Nhà trường là một tổ chức giáo dục cơ sở trực tiếp làm công tác giáo
18
dục, đào tạo thế hệ trẻ, tham gia vào quá trình thực hiện mục tiêu: “Nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” cho đất nước. Tuy nhiên, nhà
trường ở mọi cấp học chỉ là một giai đoạn học tập trong cuộc đời của mỗi
người, việc tự giáo dục mới có ý nghĩa lớn lao đối với sự phát triển nhân
cách của mỗi con người. Vì vậy nhà trường, gia đình, xã hội phải có sự phối
hợp chặt chẽ trong quá trình giáo dục. Một trong những ưu tiên và mang
tính chiến lược cho giáo dục là sự tham gia của gia đình và cộng đồng ngày
càng nhiều hơn vào các hoạt động của nhà trường.
Nhà trường là đơn vị của ngành giáo dục đồng thời là trung tâm văn hoá
của địa phương, nơi quy tụ đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân địa
phương. Thông qua nhà trường nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước được phổ biến đến cộng đồng dân cư thông qua học sinh, cha mẹ
học sinh và người thân của họ. Đội ngũ giáo viên trong các nhà trường do có
uy tín với đời sống cộng đồng đã trở thành các cán bộ hoạt động xã hội, tuyên
truyền viên và vận động thực hiện những chủ trương phát triển cộng đồng.
Trường học nằm trong hệ thống giáo dục và hệ thống xã hội, đặc điểm
thể chế là có sự kết hợp chặt chẽ, hữu cơ giữa đặc điểm nhà nước và đặc
điểm xã hội. Vì thế, trường học luôn có mối quan tâm và tác động qua lại với
môi trường xã hội. Tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng: “Trường là một thể chế
xã hội trong đó quá trình đào tạo giáo dục với sự hoạt động tương tác của hai
nhân tố Thầy và Trò”, “Trường học là bộ phận của cộng đồng và trong guồng
máy của hệ thống giáo dục quốc dân, nó là đơn vị cơ sở” [14, tr.63-65]. Bản
chất của công tác quản lý trường học là quá trình chỉ huy, điều khiển vận
động của các thành tố, đặc biệt là mối quan hệ giữa các thành tố. Mối quan hệ
đó là do quá trình sư phạm trong nhà trường quy định. Như vậy, công tác
quản lý trường học bao gồm sự quản lý các cơ quan hệ nội bộ (bên trong) của
nhà trường và quan hệ giữa trường học với (bên ngoài) xã hội.
Tóm lại: Quản lý trường học về bản chất là quản lý con người, do đó
công tác quản lý con người (của người cán bộ quản lý) đối với người cán bộ
19
giáo viên và học sinh là khâu trung tâm của quản lý trường học, là động lực
thúc đẩy sự phát triển của nhà trường.
1.2.4. Xã hội hóa
Trong xã hội học, XHH được sử dụng với nghĩa là quá trình con người
tiếp thu nền văn hoá của xã hội trong đó con người được sinh ra, quá trình nhờ
nó con người đạt được những đặc trưng xã hội của bản thân, học được cách suy
nghĩ, ứng xử được coi là thích hợp trong xã hội hay là quá trình chuyển biến cá
nhân còn mang tính sinh vật sang cá nhân có tính cách xã hội. Đây chính là quá
trình XHH cá nhân, quá trình hình thành và phát triển nhân cách.
Còn khái niệm XHH trong luận văn này thuộc phạm trù cách làm. XHH là
một khái niệm chỉ quá trình làm cho một cái gì đó mang tính xã hội hay trở
thành cái chung của xã hội, mà trước đây chỉ có một bộ phận của xã hội có
trách nhiệm quan tâm. Đó là quá trình XHH các vấn đề, hoạt động xã hội như
XHH hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục, thể thao...Hiện có nhiều cách
diễn đạt khác nhau nhưng nhìn chung đều thống nhất rằng bản chất của XHH
là cách làm, cách thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng bằng con đường
giác ngộ, huy động và tổ chức sự tham gia của mọi người dân, mọi lực lượng
xã hội, tạo ra sự phối hợp liên ngành một cách có kế hoạch dưới sự chỉ đạo và
quản lý thống nhất của Nhà nước, làm cho việc giải quyết các vấn đề xã hội
thực sự của dân, do dân và vì dân.
1.2.5. Xã hội hóa giáo dục
Xã hội hóa giáo dục nó thuộc phạm trù cách làm giáo dục. Xã hội loài
người hình thành đồng thời với sự ra đời của giáo dục. Có loài người thì phải
có giáo dục để thực hiện sự chuyển giao những kinh nghiệm từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Giáo dục là phương tiện tất yếu để xã hội tồn tại và phát
triển. Đó chính là bản chất xã hội của giáo dục, là cơ sở tư duy của XHHGD.
Tuy diễn đạt có khác nhau song phần lớn đều thống nhất quan điểm:
“Bản chất của xã hội hoá là cách làm, cách thực hiện chủ trương, đường lối
của Đảng bằng con đường giác ngộ, huy động và tổ chức sự tham gia của mọi
người dân, mọi lực lượng xã hội; tạo ra sự phối hợp liên ngành một cách có
20
kế hoạch dưới sự chỉ đạo và quản lý thống nhất của nhà nước làm cho việc
giải quyết các vấn đề xã hội thực sự của dân, do dân và vì dân” [1, tr.7].
Có thể hiểu một cách khái quát: XHHGD là việc thực hiện mối liên hệ
giữa hoạt động giáo dục và cộng động xã hội, là tìm cách hoàn nguyên bản
chất xã hội của giáo dục, làm cho giáo dục phù hợp với sự phát triển của xã
hội, thích ứng với xã hội.
Đây là một mối quan hệ biện chứng, thiết lập được mối quan hệ này làm
cho giáo dục phù hợp với sự phát triển xã hội. XHHGD là mở rộng quy mô,
mở rộng trách nhiệm giáo dục, chuyển hướng từ giáo dục tinh hoa thành giáo
dục đại chúng, giáo dục cho mọi người và tiến tới một xã hội học tập. Hoạt
động giáo dục từ chỗ trách nhiệm của ngành giáo dục, do nhà nước đảm
trách đến mọi người, mọi tổ chức và cộng đồng cùng tham gia làm giáo dục
1.3. Hoạt động xã hội hóa giáo dục ở nhà trƣờng Tiểu học
1.3.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về giáo dục và xã hội hóa giáo dục
Xuất phát từ tính chất xã hội vốn có của giáo dục, điều kiện thực tiễn
của giáo dục nước nhà, Đảng, Nhà nước ta luôn khẳng định XHHGD là một
tư tưởng chiến lược. Nghị quyết 4 của Hội nghị TW Đảng khoá VII đã chỉ
bản chất XHHGD là: “Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các
tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý
của nhà nước” [12, tr.61].
Nghị quyết TW 2 khoá VIII về “Định hướng chiến lược phát triển giáo
dục và đào tạo trong thời kỳ CNH-HĐH và nhiệm vụ đến năm 2000”của
Ban chấp hành TW Đảng cộng sản Việt Nam cũng đã chỉ rõ: “Phát triển giáo
dục là sự nghiệp của toàn xã hội, của Nhà nước và mỗi cộng đồng, từng gia
đình và mỗi công dân. Kết hợp giáo dục học đường, giáo dục gia đình, giáo
dục xã hội”. Nghị quyết TW 6 khoá IX, Đảng ta đã khẳng định: “Đẩy mạnh
XHHGD, xây dựng xã hội học tập, coi giáo dục là sự nghiệp của toàn dân và
XHHGD là một giải pháp quan trọng để tiếp tục phát triển giáo dục”. Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta lại tiếp tục khẳng định: “Đẩy mạnh
21
XHHGD”. Chủ trương XHHGD của Đảng được thể chế hoá sự nghiệp giáo
dục để thực hiện đa dạng hoá vào Hiến pháp 1992. Điều 12 của Luật giáo
dục 2005 đã nêu: Xã hội hoá sự nghiệp giáo dục để thực hiện đa dạng hoá các
loại hình trường và các hình thức giáo dục, khuyến khích huy động và tạo
điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục”.
Trên cơ sở quan điểm của Đảng, Chính phủ ban hành Nghị quyết số
90/CP ngày 21/8/1997 và Nghị quyết số 05/2005 NQ- CP ngày 18/4/2005
nhằm cụ thể hoá quan điểm: XHHGD là quá trình xã hội hoá giáo dục, vận
động và tổ chức tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn xã hội cùng làm
giáo dục, xây dựng một xã hội học tập; là sự cộng đồng trách nhiệm để phát
triển sự nghiệp giáo dục; là đa dạng hoá sự đầu tư vào các loại hình giáo dục,
các hình thức giáo dục dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà
nước. Quan điểm này là sự kế thừa, phát huy tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: “Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng. Cần phải phát huy đầy đủ tính
dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng mối quan hệ thật tốt, đoàn kết giữa thầy
và trò, giữa học trò với nhau, giữa cán bộ các cấp, giữa nhà trường và nhân
dân để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đó” [21, tr.258].
Trong Chiến lược phát triển giáo dục 2011- 2020, Chính phủ đã chỉ rõ:
XHHGD là quá trình làm cho mọi người có nghĩa vụ xây dựng và tạo điều
kiện cho giáo dục. Chiến lược cũng nhấn mạnh: Chấn hưng nền giáo dục
Việt Nam thành một nền giáo dục thực tiễn, đại chúng và hiệu quả, theo
phương châm đa dạng hoá, chuẩn hoá, hiện đại hoá, XHH, tạo bước phát
triển mạnh về giáo dục nguồn nhân lực. Vì vậy, thực hiện XHHGD để huy
động sức mạnh tổng hợp của toàn dân vào giáo dục, là điều kiện tiên quyết
để phát triển giáo dục, góp phần thúc đẩy sự phát triển nh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 05050002891_574_2002922.pdf