Luận văn Quản lý nhà nước đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang

MỞ ĐẦU. 1

CHưƠNG 1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA QLNN ĐỐI VỚI CHUYỂN

DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP . 14

1.1. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

nghiệp. 14

1.1.1. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp . 14

1.1.2 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp . 15

1.1.3 Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp . 17

1.1.4. Yêu cầu đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. 17

1.2. QLNN đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp cấp huyện . 21

1.2.1. Khái niệm và đặc điểm QLNN đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế

nông nghiệp. 21

1.2.2. Vai trò của QLNN đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. 23

1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước về nông nghiệp của chính quyền cấp

Huyện. 24

1.3. Một số nhân tố ảnh hưởng đến QLNN đối với chuyển dịch cơ cấu

kinh tế nông nghiệp cấp huyện . 31

1.3.1. Điều kiện tự nhiên. 31

1.3.2. Tác động của điều kiện kinh tế - xã hội. 32

1.3.3. Nhận thức của các chủ thể về quản lý, chuyển dịch cơ cấu kinh tế

nông nghiệp. 32

1.3.4. Tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế . 34

1.4. Kinh nghiệm của một số địa phương trong QLNN đối với chuyển

dịch cơ cấu kinh tế và bài học rút ra đối với huyện An Biên, tỉnh Kiên

Giang. 38

1.4.1. Kinh nghiệm của tỉnh Đồng Tháp . 38

pdf120 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 23/02/2022 | Lượt xem: 544 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý nhà nước đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ành chính liên quan đến các hoạt động đầu tư theo hướng đơn giản, minh bạch, “một cửa, một dấu”, Nhà nước phải đồng hành cùng doanh nghiệp để giải quyết vướng mắc, khó khăn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Triển khai tín dụng thông qua các tổ chức đoàn thể ở cơ sở, các tổ nhóm tiết kiệm vay vốn nhằm mang lại hiệu quả thiết thực đối với người dân nông thôn, người nghèo thiếu vốn sản xuất. Ba là, phát triển nguồn nhân lực đủ về số lượng và chất lượng đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, gắn với đào tạo, chuyển giao khoa học kỹ thuật. Vì đây là khâu cơ bản để việc quản lý nhà nước về nông nghiệp đạt hiệu quả tối ưu; đồng thời, làm tốt khâu phát triển nguồn nhân lực sẽ góp phần cơ bản cho việc kiện toàn, củng cố bộ máy quản lý nhà nước về nông nghiệp. Bốn là, làm tốt công tác tuyên truyền, thực hiện nghiêm chỉnh và đầy đủ quy định hiện hành của Nhà nước; chủ động xây dựng chương trình công tác, phân công trách nhiệm cho từng đơn vị, cá nhân; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc quá trình thực hiện; đồng thời có sự điều chỉnh kịp thời từ các chính sách cấp quốc gia và cấp tỉnh, cấp huyện. Năm là, tăng cường sự phối hợp giữa các sở, ban, ngành liên quan ở các cấp, đặc biệt là cấp cơ sở và nhân dân trong quá trình xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát sản xuất, kinh doanh nông nghiệp. Đẩy mạnh phân cấp cho cơ sở, lồng ghép các chương trình, dự án trong quá trình xây dựng kế hoạch và 43 tổ chức thực hiện. Sáu là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá cần xây dựng dự án, kế hoạch cụ thể, gắn với chế biến và thị trường tiêu thụ, chú trọng đến các hoạt động giúp nâng cao tính cạnh tranh và giảm thiểu những rào cản về thị trường nhằm cải thiện việc tiếp cận thị trường, đem lại hiệu quả sản xuất cao hơn cho người nông dân. 44 Tiểu kết Chƣơng 1 Theo đó chương 1, luận văn đã hệ thống hình thành khung lý thuyết, cơ sở lý luận quản lý Nhà nước về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, luận văn đã trình bày các quan niệm chung về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp sự cần thiết và vai trò của chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chương 1 cũng đã đi sâu phân tích về nội dung quản lý Nhà nước đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn cấp huyện, những nhân tố ảnh hưởng và chương này đã mô tả một số kinh nghiệm của huyện từ đó r t ra bài học kinh nghiệm cho huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang trong quản lý nhà nước đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn huyện. Khung lý thuyết nêu trên là những cơ sở lý luận và căn cứ quan trọng để luận văn nghiên cứu, làm rõ thực trạng quản lý Nhà nước về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tại chương 2 và đề xuất giải pháp hoàn thiện tại chương 3. 45 CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG 2.1. Điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội của huyện An Biên tác động đến QLNN đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp 2.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên Huyện An Biên nằm trong vùng U Minh Thượng thuộc tỉnh Kiên Giang, cách trung tâm Thành phố Rạch Giá 28 km về phía Nam, có tọa độ địa lý từ 9040’- 9058’ vĩ độ Bắc và từ 104057’-105013’ kinh độ Đông. Địa giới hành chính của huyện được xác định như sau: - Phía Đông Bắc giáp huyện Châu Thành; - Phía Đông giáp huyện Gò Quao; - Phía Bắc, Tây Bắc giáp vịnh Rạch Giá; - Phía Nam giáp huyện U Minh Thượng; - Phía Tây Nam giáp huyện An Minh. Địa hình, địa mạo. Địa hình của huyện nhìn chung tương đối bằng ph ng, có nhiều sông rạch chằng chịt, hướng dốc chính từ Tây xuống Đông Nam và thấp dần về phía Đông kênh xáng Xẻo Rô với cao độ trung bình từ 0,2-0,4m cao độ lớn nhất đạt 0,45m ở phía Đông Bắc và thấp nhất 0,1m ở phía Đông Nam, có thể chia thành 4 khu vực như sau: Khu vực 1: Phía bắc kênh Thứ Ba, phía Tây kênh Xẻo Rô với cao độ trung bình từ 0,2-0,4m so với mực nước biển. Khu vực 2: Phía nam kênh Thứ Ba và rạch Bào Môn, phía bắc kênh Chùa và kênh Số 1 với cao độ trung bình từ 0-0,2m so với mực nước biển. Khu vực 3: Phía đông kênh Xẻo Rô, phía bắc rạch Bào Môn với cao độ trung bình thấp hơn mực nước biển 0,1m. Khu vực 4: Phía bắc kênh Chùa và kênh Số 1 với cao độ trung bình từ 0,2- 46 0,4m so với mực nước biển. Khí hậu, thời tiết. - Huyện An Biên thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, mang đặc tính chung của vùng đồng bằng sông Cửu Long, nóng ẩm quanh năm. Nhiệt độ bình quân từ 27- 27,5 0C, nhiệt độ cao nhất là 370C, nhiệt độ thấp nhất 180C. Khí hậu chịu ảnh hưởng chính của gió mùa đông bắc và tây nam, thuận lợi cho thâm canh tăng vụ, tăng năng suất cây trồng, vật nuôi. - Khí hậu hàng năm được chia làm 2 mùa rõ rệt: + Mùa mưa từ tháng 05 đến tháng 11: Lượng mưa chiếm tới 90% tổng lượng mưa trong năm, với lượng mưa trung bình từ 88,1 – 544,5mm/tháng. Số ngày có mưa bình quân từ 135-162 ngày/năm. Trong mùa mưa cũng có thời kỳ mưa ít hoặc không mưa kéo dài từ 7-15 ngày. + Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau: Chỉ chiếm khoảng 10% tổng lượng mưa năm; các tháng 1, 2, 3 lượng mưa rất ít, bình quân từ 11-50mm. Tuy nhiên gần đây khí hậu có sự biến đổi rõ nét làm bất lợi đến sản xuất như: Nắng nóng kéo dài, nhiệt độ có l c cao hơn 370C; việc phân chia 2 mùa không còn rõ ràng như trước, mùa mưa đến trễ và phân tán không đồng đều, lượng mưa trung bình thấp hơn so với các năm trước cần phải chuyển đổi sản xuất để thích ứng với khí hậu trong vùng. Mạng lƣới sông rạch. Hệ thống kênh rạch khá chằng chịt, có tác dụng cung cấp nước ngọt và thau chua rữa phèn cho sản xuất nông nghiệp vào mùa mưa, dẫn nước mặn nuôi tôm vào mùa khô ngoài ra còn đóng vai trò rất quan trọng trong tiêu thoát lũ. Mạng lưới dòng chảy khá dày, bắt nguồn từ sông cái lớn (sông tự nhiên) sau đó lan toả ra các kênh, rạch trong vùng. Chế độ thủy văn trên phần đất liền. Nguồn nước mặt của huyện chủ yếu sử dụng nguồn nước mưa, hàng năm đều thiếu nước ngọt do hệ thống kênh rạch không trực tiếp lấy được nước sông Hậu về. Hằng năm từ tháng 6 đến tháng 11 sản xuất chủ yếu sử dụng nước mưa, từ tháng 11 47 đến tháng 5 năm sau hầu hết kênh rạch trong huyện bị nhiễm mặn, không đủ nước tưới, gây khó khăn cho sản xuất vụ đông xuân và sinh hoạt của nhân dân. Theo tài liệu điều tra nguồn nước ngầm của Trường Đại học Cần thơ và kết quả khoan tìm kiếm nguồn nước phục vụ sinh hoạt của chương trình nước nông thôn tỉnh Kiên giang. Huyện An Biên có nguồn nước ngầm nguồn gốc biển ở độ sâu khai thác từ 80-130m, nước có độ mặn 0,9-1,2gam/lít, độ pH từ 6-8, nước có chứa hàm lượng sắt. Phải qua xử lý mới đạt yêu cầu phục vụ sinh hoạt và phục vụ sản xuất. Chế độ ngập lũ, úng. Chế độ thủy văn ở An Biên phụ thuộc vào địa hình, phân bố lượng mưa và triều biển Tây. Cùng với tác động của thủy triều và địa hình thấp, mưa lớn kéo dài từ tháng 6 đến tháng 10 dẫn tới ngập lũ cục bộ ở một số khu vực trũng thấp, vào cuối mùa mưa lượng mưa ít nên cần kéo dài thời gian giữ nước ngọt để sản xuất 2 vụ l a trong năm. Chế độ xâm nhập mặn. Hàng năm do lượng nước thượng nguồn sông Mekong và lượng mưa tại chỗ giảm dần, dẫn tới mực nước trong các kênh rạch xuống thấp, kết hợp với chế độ triều biển Tây đã làm cho quá trình xâm nhập mặn đi sâu vào nội đồng. Xâm nhập mặn đã tác động lớn đến hoạt động sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện An Biên cả tích cực lẫn tiêu cực. - Về mặt tích cực: Cung cấp nước mặn cho hoạt động nuôi trồng thủy sản (nuôi tôm, cua) vốn là thế mạnh của huyện, là động lực th c đẩy kinh tế của huyện phát triển trong những năm qua và thời gian tới. - Về tiêu cực: xâm nhập mặn sâu vào nội đồng đã làm thiệt hại về sản xuất l a, hoa màu của người dân, nhất là những năm thời tiết cực đoan do El Nino. Cụ thể trong mùa khô năm 2015-2016, nước mặn xâm nhập sớm hơn các năm trước gần 01 tháng (cuối tháng 11 mặn đã xâm nhập vào các tuyến kênh chính chưa có công trình ngăn mặn) làm thiệt hại l a trên 22.000 ha, tôm trên 4.000 ha, rau màu ảnh hưởng trên 95%, hầu như nông dân không trồng được hoa màu để cung cấp cho thị trường. 48 Để khai thác tốt các tác động tích cực, hạn chế tiêu cực cần xây dựng hệ thống công trình kiểm soát mặn một cách chủ động, quy hoạch chuyển đổi tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp phù hợp với mặn, ngọt của từng vùng sinh thái. 2.1.2. Điều kiện kinh tế - văn hóa xã hội An Biên thuộc vùng khí hậu khá ổn định, ít thiên tai, thuận lợi cho việc sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản. Huyện nằm trong vùng U Minh Thượng, có tổng diện tích tự nhiên 40.029 ha, dân số năm 2014 có 125.196 người, mật độ dân số 313 người/km2, đơn vị hành chính gồm 8 xã và 1 thị trấn. Huyện có nhiều lợi thế phát triển kinh tế - xã hội nói chung, nông nghiệp nông thôn nói riêng, thể hiện ở các khía cạnh như sau: - Có hệ sinh thái đa dạng, mặt nước bãi bồi ven biển với nhiều loài thuỷ sản có giá trị kinh tế cao; bờ biển dài 21km và rừng phòng hộ ven biển ổn định môi trường sinh thái góp phần chắn sóng, chắn gió, ổn định sản xuất cho người dân trong vùng. Có hạ tầng giao thông, thuỷ lợi, đê ven biển thuận lợi cho huyện phát triển mô hình sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản, các ngành chế biến, dịch vụ. Cụ thể một số chỉ tiêu kinh tế nông nghiệp theo số liệu thống kê năm 2016 (so với năm 2012) đạt như sau: “Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân hàng năm đạt 13,37%/năm (chỉ tiêu NQ 14%). Thu nhập bình quân đầu người 32,211 triệu đồng/người/năm (tương đương 1.508 USD) (chỉ tiêu NQ 29,555 triệu đồng), vượt 8,98% Nghị quyết, tăng 2,38 lần so đầu nhiệm kỳ. Bảng 2.1 Thu nhập bình quân đầu người, giai đoạn 2012 – 2016 ĐVT: Triệu đồng Năm 2012 2013 2014 2015 2016 Thu nhập bình quân/người 21,484 25,969 29,126 32,211 34,144 (Nguồn: Niên giám thống kê huyện An Biên, 2016) Nhìn vào bảng 2.1 ta thấy thu nhập bình quân đầu người tăng từ năm 2012 – 2016, nếu 2012 chỉ có 21.484.000 đồng/người thì đến năm 2016 thu nhập đạt 34.144.000 đồng/người tăng lên 12.630.000 đồng/người. Cơ cấu kinh tế chuyển 49 dịch cơ bản đ ng hướng; tỷ trọng nông-lâm-thủy sản 58,58% (giảm 11,19%); công nghiệp-xây dựng 4,19% (tăng 1,11%); dịch vụ 37,23% (tăng 10,08% so với năm 2012). “Nông-lâm-thủy sản duy trì mức tăng trưởng khá, tốc độ phát triển bình quân hàng năm 10,32%. Sản lượng lương thực đạt 269.333 tấn (Sản lượng l a 269.333 tấn, vượt 7,92% NQ, tăng 1,54 lần so đầu nhiệm kỳ), vượt 7,92% so Nghị quyết, tăng 1,54 lần so đầu nhiệm kỳ. Sản lượng khai thác và nuôi trồng thủy sản nhiều năm liền đạt khá. Đã hình thành một số vùng nuôi tôm công nghiệp, quãng canh cải tiến và mô hình tôm-lúa, tôm-cua-l a, nuôi cá nước lợ,... có hiệu quả. Tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp giai đoạn 2010-2015 là 9,75%, trong đó: trồng trọt 10,31%, chăn nuôi 5,98% và dịch vụ 2,55%. Bố trí cây trồng phù hợp với từng vùng sinh thái, sản xuất đ ng lịch thời vụ, đã hạn chế được các loại dịch bệnh, năng suất cây trồng và sản phẩm đạt chất lượng ngày càng tăng” [8]. Bảng 2.2. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn huyện giai đoạn 2012-2016 Năm Nông nghiệp Công nghiệp Thƣơng mại - dịch vụ Giá trị (Triệu đồng) Tỷ lệ (%) Giá trị (Triệu đồng) Tỷ lệ (%) Giá trị (Triệu đồng) Tỷ lệ (%) Năm 2012 3,428,134 69.77 151,161 3.08 1,334,000 27.15 Năm 2013 3,105,433 60.29 190,547 3.70 1,855,000 36.01 Năm 2014 3,469,018 61.84 201,300 3.59 1,939,000 34.57 Năm 2015 3,545,706 58.90 216,249 3.59 2,258,000 37.51 Năm 2016 3,304,134 58.58 236,435 4.19 2,100,000 37.23 (Nguồn: Chi Cục thống kê huyện An Biên, 2016 ) Nhìn vào bảng 2.2 ta thấy năm 2012 cơ cấu nông nghiệp chiếm tỷ lệ 69,77%, 50 công nghiệp 3,08% và dịch vụ 27,15%, đến năm 2016 cơ cấu nông nghiệp giảm dần chỉ chiếm 58,58% và công nghiệp tăng 4,19% và dịch vụ tăng 37,23% như vậy có sự chuyển dịch từ nông nghiệp sang công nghiệp và thương mại dịch vụ do đất nông nghiệp đã được sử dụng có hiệu quả hơn, theo hướng thâm canh tăng vụ, bố trí cây trồng vật nuôi phù hợp. Kết quả đạt được rõ nhất là việc chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, đất sản xuất nông nghiệp kém hiệu quả chuyển sang nuôi trồng thủy sản và đất trồng l a 2 vụ kém hiệu quả sang sản xuất 1 vụ tôm - 1 vụ l a. Trong sản xuất nông nghiệp đã áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật đưa giống mới kháng sâu bệnh và đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vào sản xuất, tuyển chọn được các loại giống chất lượng năng suất cao, từ đó hạn chế được thiệt hại do sâu bệnh gây ra. Hiệu quả sản xuất trên một đơn vị diện tích canh tác đạt được ngày càng cao. Chăn nuôi gia s c, gia cầm có bước phát triển, chủ yếu là chăn nuôi trong hộ gia đình. Hệ thống thủy lợi cơ giới đáp ứng yêu cầu sản xuất, thủy lợi nội đồng bờ bao khép kín được đầu tư xây dựng đã đem lại hiệu quả trong sản xuất. Đầu tư xây dựng được 5 trạm bơm điện phục vụ cho 656 ha và cùng với chương trình ngọt hóa vùng bán đảo Cà Mau của Chính phủ đã có tác dụng th c đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển theo hướng ổn định vững chắc. Dịch vụ trong nông nghiệp nông thôn thời gian qua đã được ch trọng, các dịch vụ nông nghiệp phát triển mạnh gồm có cung ứng vật tư - kỹ thuật, chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ về cơ giới làm đất, thu hoạch... Các dịch vụ hỗ trợ về vốn (tín dụng, ngân hàng) đã gi p các hộ ngh o và đơn vị sản xuất kinh doanh khắc phục một phần khó khăn về vốn trong quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi và ứng dụng giống mới, mua sắm các phương tiện cơ giới để x c tiến quá trình cơ giới hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Giá trị sản lượng khai thác và nuôi trồng thủy sản chiếm 40,68% trong cơ cấu nông- lâm-ngư nghiệp, tốc độ tăng trưởng hàng năm 10,47% (Tổng sản lượng thủy sản 31.778 tấn, tăng 16.829 tấn so đầu nhiệm kỳ. Nuôi trồng thủy sản đa dạng với nhiều hình thức khác nhau như: nuôi cá nước ngọt, nuôi tôm s , cua ven biển, nuôi sò huyết và hến ở các bãi bồi, nuôi cua xen tôm. Phong trào nuôi tôm s phát triển nhanh về diện tích và năng suất ngày càng cao, chuyển 2.592 ha l a 2 vụ kém hiệu 51 quả sang 1 vụ tôm-1 vụ l a, nâng tổng DT tôm-lúa lên 10.895ha, phong trào nuôi tôm xen cua mang lại hiệu quả cao (Năng suất tôm nuôi từ 250kg/ha năm 2010 lên 430kg/ha năm 2015. DT nuôi tôm xen cua là 6.500 ha, sản lượng 585 tấn)” [8]. Công nghiệp-xây dựng phát triển khá: Tăng trưởng bình quân 24,94%. Giá trị sản xuất công nghiệp (giá so sánh 2010) từ 58.072 triệu đồng đầu nhiệm kỳ, cuối nhiệm kỳ lên 173.331 triệu đồng, đạt 118,19% so NQ và tăng 2,98 lần so với năm 2010 [8]. Thương mại dịch vụ phát triển nhanh, chiếm tỷ trọng 43,85% trong cơ cấu GDP (Nghị quyết 47,84%), tăng 4,34% so đầu nhiệm kỳ. Công tác phòng, chống gian lận thương mại thường xuyên được quan tâm. Lưu thông hàng hóa giữa huyện An Biên và các vùng trong tỉnh và ngoài tỉnh ngày một gia tăng. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tăng bình quân hàng năm 22,37%. Mạng lưới thương mại và buôn bán nhỏ phát triển tương đối rộng khắp trên địa bàn huyện đáp ứng được nhu cầu người tiêu dùng và sản xuất. Toàn huyện có 7 chợ huyện và xã; trong đó 3 chợ kiên cố, 4 chợ tạm [8]. “Giáo dục và đào tạo có bước phát triển, tiến bộ trên nhiều mặt. Huy động học sinh trong độ tuổi 6-14 tuổi đến trường đạt 98% (vượt 1,7% so NQ) (Chỉ tiêu nghị quyết 96% trở lên; vượt 1,7% so NQĐH và tăng 2,74% so với nhiệm kỳ trước.). Đội ngũ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn trên 98,5%; hàng năm tỷ lệ học sinh lên lớp đạt trên 98,8%; Toàn huyện đã hoàn thành cơ bản kiên cố hoá trường lớp bằng nguồn vốn từ ngân sách và kêu gọi tài trợ các nguồn vốn từ bên ngoài [8]. “Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được quan tâm. Thực hiện tốt các chương trình y tế Quốc gia, đi đôi với phòng ngừa có hiệu quả các loại dịch bệnh nguy hiểm, nên không có dịch bệnh lớn xảy ra. Cơ sở vật chất, đội ngũ y bác sĩ được tăng cường, đến nay 100% xã, thị trấn có trạm y tế và bác sĩ luân phiên xuống cơ sở khám bệnh cho nhân dân. Thực hiện tốt công tác dân số kế hoạch hoá gia đình, giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn 10,01% (NQ 10,97%0); tỷ lệ suy dinh dư ng trẻ em còn 13,85% (Nghị quyết 16,30%). Tỷ lệ người dân tham gia BHYT đến cuối 2015 đạt 72%. 52 Các chính sách xã hội và an sinh xã hội được quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện khá tốt. Trong nhiệm kỳ đã xây mới 482 căn và sửa chữa 81 căn nhà tình nghĩa cho người có công, với tổng số tiền 24,329 tỷ đồng; xây dựng mới 708 căn nhà theo Nghị định 167 của Chính phủ với tổng số tiền 13,992 tỷ đồng. Vận động quỹ “ngày vì người nghèo” cất mới 681 căn nhà đại đoàn kết, trị giá 13,487 tỷ đồng. Phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” phát triển sâu rộng. Thực hiện Chương trình mục tiêu giảm ngh o bền vững giai đoạn 2011-2015 với nhiều biện pháp đồng bộ, thiết thực, đã giảm tỷ lệ hộ ngh o từ 15,02% đầu nhiệm kỳ xuống còn 4,69% vào cuối năm 2015, vượt Nghị quyết đề ra.(11) công tác đào tạo nghề lao động nông thôn được quan tâm bằng nhiều hình thức, đã đào tạo được 5.608 lao động, nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề chiếm 30,32% trong tổng số lao động có việc làm ổn định. Tổng số dân độ tuổi lao động là 74.000; lao động có việc làm ổn định 56.000; tỷ lệ lao động qua đào tạo 30,32%” [8]. 2.1.3. Tác động của điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội đến quản lý nhà nước đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn huyện An Biên Vì nông nghiệp là ngành kinh tế sinh học nên quá trình phát triển của nó không chỉ phụ thuộc vào các yếu tố khách quan mà cả các yếu tố chủ quan, không chỉ chịu sự chi phối bởi các yếu tố kinh tế mà còn chịu tác động mạnh mẽ bởi các yếu tố tự nhiên, sinh học của đối tượng sản xuất. Thứ nhất: Trong thời gian qua do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng, mặn xâm nhập sâu vào nội đồng, đã và sẽ tác động rất lớn đến phát triển kinh tế xã hội nói chung và lĩnh vực nông nghiệp trên địa bàn Kiên Giang nói riêng, đòi hỏi phải có những chương trình, kế hoạch đầu tư dài hạn để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn huyện, biến những thách thức khó khăn thành cơ hội để phát triển, nâng cao hiệu quả sản xuất Thứ hai: Vì đối tượng SXNN là các sinh vật (cây, con), có độ nhạy cảm rất cao đối với môi trường mà ch ng sinh sống. Ch ng chỉ có thể sinh trưởng tốt khi 53 có điều kiện thời tiết, khí hậu phù hợp, thuận lợi. Nếu không hiểu về quy luật sinh trưởng của sinh vật trong tổ chức SXNN thì dẫn đến thất bại hoặc hiệu quả không cao. Trong nông nghiệp, do đối tượng của sản xuất là sinh vật, có chu kỳ sinh trưởng và thu hoạch nhất định và có tính thời vụ. Cho nên, nếu nhận thức và vận dụng đ ng quy luật sinh học và quy luật tự nhiên vào xây dựng và tổ chức việc chuyển dịch CCKTNN thì việc sử dụng các nguồn lực của sản xuất nông nghiệp có hiệu quả hơn, năng suất và chất lượng sản phẩm cao hơn. Thứ 3: Điều kiện tự nhiên là nhân tố tác động mạnh mẽ đối với tất cả các hoạt động của sản xuất nông nghiệp. Môi trường tự nhiên với các nguồn tài nguyên vô cùng phong ph , như đất, nước, khí hậu, thời tiết, ánh sáng... cung cấp những tư liệu sản xuất cơ bản để con người tiến hành sản xuất nông nghiệp, tạo ra lương thực, thực phẩm. Điều kiện tự nhiên ở mỗi vùng, mỗi quốc gia có những sự khác biệt, có nơi khó khăn và có nơi thuận lợi, song nếu chúng ta biết khai thác hợp lý vẫn có thể khai thác từ tự nhiên để tạo ra những nông phẩm có giá trị kinh tế. Do vậy, để có được một nền nông nghiệp phát triển, con người phải biết dựa vào điều kiện tự nhiên, dựa vào lợi thế của từng vùng, miền để xây dựng những chiến lược phát triển nông nghiệp cho phù hợp. Thứ tư: yếu tố thiên tai tự nhiên cũng là một trong những tác nhân đe doạ lớn cho phát triển nông nghiệp như những thiên tai: động đất, sóng thần, lũ lụt, hạn hán, mưa đá, sương muối... Những đe dọa thiên tai đang gây ra cho nông nghiệp, có một phần nguyên nhân do chính những hoạt động của con người gây ra, như: phá rừng, làm thủy điện, khí thải công nghiệp, khai thác tài nguyên đất không khoa học... Do vậy, con người phải tính toán và cân đối trong sự lựa chọn của mình để đem lại hiệu quả về lâu dài cho nông nghiệp phát triển, cũng chính là bảo vệ lợi ích lâu dài của mình. Thứ năm: Điều kiện kinh tế - xã hội cũng có tác động rất lớn tới một nền nông nghiệp nhất định. Đối với các quốc gia có nền kinh tế phát triển, các điều kiện để phát triển một nền nông nghiệp hiện đại sẽ dễ dàng hơn. Còn đối với các nước đang phát triển, việc hình thành một nền nông nghiệp phát triển sẽ gặp 54 nhiều khó khăn, trở ngại do yếu kém về khoa học, công nghệ, thiếu vốn, thiếu những người nông dân có trình độ và sự hậu thuẫn của Nhà nước để hỗ trợ cho nông dân trước những rủi ro trong sản xuất và tiêu thụ nông phẩm. Bên cạnh đó, quá trình phát triển kinh tế - xã hội cũng có những tác động tiêu cực tới nền nông nghiệp. Sự phát triển của công nghiệp thiếu cẩn trọng đang huỷ hoại môi trường nặng nề, gây thiệt hại rất lớn cho nông nghiệp. Việc chạy theo lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường khiến cho người nông dân dùng đủ mọi biện pháp để tăng sản lượng nhanh chóng, làm cho tài nguyên bị khai thác kiệt quệ, lãng phí, chất lượng sản phẩm không được đảm bảo, dư lượng chất hoá học trong nông sản cao. Sự phát triển của nhiều loại hình dịch vụ và đô thị hóa nhanh chóng làm quỹ đất nông nghiệp dần thu hẹp Nhận thức được những tác động của các nhân tố kinh tế - xã hội đối với phát triển nông nghiệp, chúng ta phải có chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cho phù hợp, có sự cân đối giữa công nghiệp, nông nghiệp với dịch vụ và phát huy thế mạnh của từng vùng. Thuận lợi hay khó khăn của điều kiện kinh tế - xã hội đối với phát triển nông nghiệp là những nhân tố có thể thay đổi và điều này phụ thuộc rất lớn vào hành động của chúng ta. 2.2. Tình hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn huyện An Biên 2.2.1. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nội bộ từng ngành 2.2.1.1. Chuyển dịch ngành sản xuất nông nghiệp (lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi) a. Đối với lĩnh vực Trồng trọt Bảng 2.3. Kết quả sản xuất lúa huyện giai đoạn 2012-2016 Stt Chỉ tiêu Đvt Thực hiện 2012 2013 2014 2015 2016 1 - Lúa cả năm Ha 778.44 728.64 72846. 43.022 461662 - Năng suất tấn/ha 5,65 5,57 5,86 5,93 4,28 - Sản lượng tấn 258.22 4 256.463 271.598 269.33 3 137.592 1.1 - L a Đông Ha 19.141 19.007 19.387 18.617 55 Stt Chỉ tiêu Đvt Thực hiện 2012 2013 2014 2015 2016 xuân 13,864 - Năng suất tấn/ha 5,75 5,78 6,44 6,5 4.04 - Sản lượng tấn 110.13 7 109.899 124.811 121.011 56,034 1.2 - Lúa Hè thu Ha 18.927 18.957 18.883 17.935 14,064 - Năng suất tấn/ha 5,48 5,44 5,56 5,7 4.92 - Sản lượng tấn 103.75 8 103.172 104.903 102.23 0 69,220 1.3 - Lúa Mùa Ha 8.209 8.062 8.048 8.864 4,188 - Năng suất tấn/ha 5,4 5,38 5,2 5,2 2.95 - Sản lượng tấn 44.329 43.392 41.884 46.093 12,338 2 DT lúa chất lƣợng cao % - - - - (Nguồn: Niên giám thống kê huyện An Biên năm 2012, 2016) Nhìn vào bảng 2.3 ta thấy cây trồng chính trên địa bàn huyện là cây lúa, chiếm 84% trên tổng diện tích đất trồng cây hàng năm và chiếm 81% diện tích đất sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra, các cây trồng cạn chính (gồm có khóm, mía, rau, dừa, và một số cây ăn quả khác. Tuy nhiên, diện tích các loại cây trồng cạn còn chiếm tỷ lệ nhỏ, trình độ thâm canh và mức độ ổn định còn thấp hơn nhiều so với sản xuất l a. So với năm 2012, sản lượng l a năm 2016 của huyện giảm 120.632 tấn. Năm 2016, diện tích l a cả năm là 32.116 ha, năng suất 4.28 tấn/ha, tổng sản lượng đạt 56 137.592 tấn. Diện tích, năng xuất và sản lượng l a đều giảm, do năm 2015 – 2016 ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, mặn xâm nhập sâu vào nội đồng đã làm ảnh hưởng và thiệt hại nghiêm trọng trên địa bàn huyện, huyện đã thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, điều chỉnh từ l a 02 vụ sang mô hình tôm – l a nên diện tích đất trồng l a ngày một giảm. Năm 2012: 45.877 ha, đến năm 2016: 32.116ha. b. Đối với lĩnh vực chăn nuôi. Bảng 2.4. Kết quả phát triển chăn nuôi giai đoạn 2012-2016 2012 2013 2014 2015 2016 Số lƣợng (Con) Trâu 174 153 127 95 90 Bò 54 38 43 61 82 Heo 22,165 19,610 19,690 17,966 20,127 Trong đó : heo nái 1,866 1,982 1,982 2,121 2,771 Gia cầm (Nghìn con) 317.277 303.792 329.684 256.272 189,051 Trong đó: Gà 188.550 145.478 175.450 148.840 118,257 Vịt 128.720 158.314 158.314 72,231 79,401 Sản lượng (Tấn) Thịt trâu hơi xuất chuồng 5.3 12.4 10.4 12.8 12 Thịt bò hơi xuất chuồng 1.5 4.0 - - - Thịt lợn hơi xuất chuồng 3,085.0 3,151.0 3,178.0 2,924.0 3,102 Thịt gia cầm giết bán 749.0 820.0 710.0 546.0 541.0 Trong đó: Thịt gà 392.0 398.0 268.5 236.0 233.0 Trứng (Nghìn quả) 2,106.0 2,129.0 1,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_quan_ly_nha_nuoc_doi_voi_chuyen_dich_co_cau_kinh_te.pdf
Tài liệu liên quan