Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Danh mục chữ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DI
TÍCH LỊCH SỬ 8
1.1. Một số khái niệm cơ bản 8
1.2. Đặc điểm và các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về di tích lịch
sử
1.3. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về di tích lịch sử 15
1.4. Cơ sở pháp lý của hoạt động quản lý nhà nước đối với di tích lịch sử 50
1.5. Chủ thể và nội dung quản lý nhà nước về di tích lịch sử 23
1.6. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về di tích lịch sử 32
Tiểu kết chương 1 34
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG DI TÍCH LỊCH SỬ VÀ QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC ĐỐI VỚI DI TÍCH LỊCH SỬ CẤP QUỐC GIA TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH ĐẮK LẮK
35
2.1. Khái quát địa bàn nghiên cứu 35
2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về di tích lịch sử cấp quốc gia 41
2.3. Đánh giá chung 56
2.4. Các vấn đề đặt ra từ thực trạng quản lý nhà nước về di tích lịch sử cấp
quốc gia trên địa bàn tỉnh 61
Tiểu kết chương 2 62
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DI TÍCH LỊCH SỬ CẤP
QUỐC GIA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK
63
3.1. Phương hướng quản lý nhà nước về di tích lịch sử trên địa bàn tỉnh 63
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với di tích lịch
sử cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh 65
3.3. Một số khuyến nghị 73
Tiểu kết chương 3
104 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 17/03/2022 | Lượt xem: 466 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý nhà nước đối với di tích lịch sử cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
35
Chương 2.
THỰC TRẠNG DI TÍCH LỊCH SỬ VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI DI TÍCH LỊCH SỬ CẤP QUỐC GIA
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK
2.1. Khái quát địa bàn nghiên cứu
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, địa giới hành chính
2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Tỉnh Đắk Lắk nằm ở trung tâm vùng Tây Nguyên, đầu nguồn của hệ
thống sông Sêrêpôk và một phần của sông Ba, nằm trong khoảng tọa độ địa lý
từ 107˚28'57" đến 108˚59'37" độ kinh Đông và từ 12˚9'45" đến 13˚25'06" độ
vĩ Bắc, có độ cao trung bình 400 - 800 mét so với mặt nước biển, nằm cách
Hà Nội 1.410 km và cách Thành phố Hồ Chí Minh 350 km.
- Phía Bắc giáp tỉnh Gia Lai
- Phía Đông giáp Phú Yên và Khánh Hoà
- Phía Nam giáp Lâm Đồng và Đắk Nông
- Phía Tây giáp Campuchia.
Đắk Lắk có diện tích 13.030,48 km2, có 15 đơn vị hành chính , gồm 01
thành phố, 01 thị xã và 13 huyện. Trong đó có 184 đơn vị hành chính cấp xã,
gồm có 152 xã, 20 phường và 12 thị trấn.[1]
Địa hình của tỉnh rất đa dạng: nằm ở phía Tây và cuối dãy Trường Sơn,
là một cao nguyên rộng lớn, địa hình dốc thoải, lượn sóng, khá bằng phẳng
xen kẽ với các đồng bằng thấp ven theo các sông chính. Địa hình của tỉnh có
hướng thấp dần từ Đông Nam sang Tây Bắc.
Khí hậu toàn tỉnh được chia thành hai tiểu vùng. Vùng phía Tây Bắc có
khí hậu nắng nóng, khô hanh về mùa khô; vùng phía Đông và phía Nam có
khí hậu mát mẻ, ôn hoà. Nhìn chung khí hậu khác nhau giữa các dạng địa
hình và giảm dần theo độ cao: vùng dưới 300 m quanh năm nắng nóng, từ 400
36
- 800 m khí hậu nóng ẩm và trên 800 m khí hậu mát. Tuy nhiên, chế độ mưa
theo mùa là một hạn chế đối với phát triển sản xuất nông sản hàng hoá.
Khí hậu có 02 mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa bắt đầu từ
tháng 5 đến hết tháng 10, tập trung 90% lượng mưa hàng năm. Mùa khô từ
tháng 11 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa không đáng kể.
2.1.1.2. Địa giới hành chính
Buôn Ma Thuột là thành phố tỉnh lị của tỉnh Đắk Lắk và là thành phố
lớn nhất ở vùng Tây Nguyên Việt Nam.
Buôn Ma Thuột gốc tiếng Ê Đê, nghĩa là "bản hoặc làng của Ama
Thuột", nó xuất phát từ tên gọi buôn của A ma Thuột - tên một vị tù trưởng
giàu có và quyền uy nhất vùng; để rồi từ đây hình thành nên các buôn làng
xung quanh, phát triển thành thành phố Buôn Ma Thuột ngày hôm nay.
Sau khi chiếm Đắk Lắk, thực dân Pháp bắt tay xây dựng bộ máy thống
trị, thành lập đơn vị hành chính tỉnh Đắk Lắk vào năm 1904 theo Nghị định
của Toàn quyền Đông Dương. Chúng chia Đắk Lắk làm 5 quận, áp đặt chế độ
trực trị, thực hiện chính sách "chia để trị". Nhưng cũng chính từ sự áp bức,
bóc lột hà khắc đó, đồng bào các dân tộc Đắk Lắk đã liên tục và anh dũng
đứng lên chống thực dân Pháp, dưới sự lãnh đạo của các vị Tù trưởng. Trong
những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong tỉnh liên tục nổ ra các cuộc
khởi nghĩa và đấu tranh vũ trang, tiêu biểu hơn cả là cuộc nổi dậy của đồng
bào M’nông do N’Trang Lơng lãnh đạo, cuộc khởi nghĩa này kéo dài 23 năm
(1912-1935) lôi cuốn đồng bào các dân tộc, không chỉ ở cao nguyên
DakNông, mà cả Tây Nguyên và Campuchia hưởng ứng.[12]
Cùng với các cuộc đấu tranh và khởi nghĩa vũ trang do các vị tù trưởng
lãnh đạo, trong tỉnh cũng đã xuất hiện một số phong trào đấu tranh chính trị
hợp pháp của tầng lớp công chức, viên chức, trí thức, học sinh chống chính
sách chia để trị của thực dân Pháp, chống chính sách ngu dân, khinh miệt
đồng bào các dân tộc bản xứ. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh do hai giáo chức
37
yêu nước người Ê đê là Y Jút và Y út lãnh đạo (1925 - 1926). Cũng trong thời
kỳ này, do chính sách lập đồn điền khai thác thuộc địa, ở Đắk Lắk đã xuất
hiện một tầng lớp công nhân làm thuê cho các đồn điền bót lột và hành hạ. Để
chống lại sự áp bức bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp, công nhân các đồn
điền đã nhiều lần tổ chức các cuộc đấu tranh dưới nhiều hình thức khác nhau.
Tiêu biểu cho phong trào đấu tranh của công nhân thời kỳ này là cuộc đấu
tranh của công nhân đồn điền Mai ô (Maillot) năm 1927, cuộc đấu tranh của
công nhân đồn điền Rossi, CHPI năm 1933, công nhân cầu đường Buôn Hồ
1935 và sau này là công nhân đồn điền CADA...[12]
Khi cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai đi vào giai đọan kết thúc, nhất
là sau sự kiện Nhật đảo chính Pháp ngày 9/3/1945, tình hình phong trào Cách
mạng trong tỉnh phát triển sôi nổi. Ngày 24 tháng 8 năm 1945, sau cuộc khởi
nghĩa ở đồn điền CADA, cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền nổ ra thắng
lợi ở Buôn Ma Thuột: hàng vạn quần chúng đã đồng lọat đứng lên ủng hộ ủy
ban khởi nghĩa, giành chính quyền về tay nhân dân, thành lập chính quyền
cách mạng, mở ra một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập, tự do và nhân dân
làm chủ vận mệnh của mình.[12]
Ngày 30 tháng 12 năm 1945 quân đội Pháp quay lại xâm lược lần thứ
hai. Quân dân Buôn Ma Thuột và quân dân các dân tộc trong tỉnh đã đứng
dậy đấu tranh. Cuộc kháng chiến 9 năm trường kỳ, gian khổ và ác liệt cuối
cùng đã giành được thắng lợi.[12]
Nhưng khi cuộc kháng chiến chống Pháp vừa kết thúc, đế quốc Mỹ
nhảy vào miền Nam, với âm mưu xâm chiếm miền Nam chia cắt lâu dài đất
nước ta. Trong hơn 20 năm chiến chiếm đóng, đế quốc Mỹ và chính quyền
tay sai đã tập trung biết bao tiềm lực quân sự và chính trị, nhằm xây dựng
Đắk Lắk thành một địa bàn chiến lược trọng yếu, với nhiều thủ đoạn hòng đè
bẹp ý chí cách mạng của đồng bào các dân tộc Đắk Lắk. Nhưng vượt lên trên
mọi hy sinh tổn thất to lớn và nặng nề nhất, quân dân các dân tộc đã kề vai sát
38
cánh bên nhau, bền bĩ đấu tranh, lần lượt đập tan các âm mưu, thủ đọan của
kẻ thù, lập nên những chiến công oanh liệt. Cuối cùng đã làm nên chiến thắng
Buôn Ma Thuột ngày 10/03/1975, mở đầu cho cuộc Tổng tiến công và nổi
dậy giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, mở ra một kỷ nguyên mới: kỷ
nguyên độc lập, tự do, thống nhất, cả nước đi lên Chủ nghĩa xã hội.[12]
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Kinh tế chủ đạo của Đắk Lắk chủ yếu dựa vào sản xuất và xuất khẩu
nông sản, lâm sản. Tỉnh có tiềm năng về du lịch sinh thái. Trong bảng xếp
hạng về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm 2017, tỉnh
Đắk Lắk xếp ở vị trí thứ 31/63 tỉnh thành. Đắk Lắk là tỉnh có diện tích và sản
phẩm cà phê xuất khẩu lớn nhất cả nước, với diện tích 182.343 ha và sản
lượng thu hoạch hàng năm đạt trên 400.000 tấn, chiếm 40% sản lượng cả
nước. Tỉnh cũng là nơi trồng bông, cacao, cao su, điều lớn của Việt Nam.
Đồng thời, là nơi phát triển các loại cây ăn trái khác, như cây bơ, sầu riêng,
chôm chôm, xoài...
Năm 2018, Đánh giá về việc thực hiện 18 chỉ tiêu nhiệm vụ chủ yếu
năm 2016 cho thấy, có 15/18 chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch đề ra, nổi bật nhất
là chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế, thu ngân sách nhà nước. Cụ thể, tổng sản
phẩm xã hội (GRDP - theo giá so sánh 2010) ước thực hiện 51.496 tỷ đồng,
đạt 100,03% kế hoạch; tăng trưởng kinh tế 7,82%. [1]
Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt 5.500 tỷ đồng, đạt 110% dự
toán HĐND tỉnh giao (KH: 5000 tỷ đồng, tăng 6,3% so với thực hiện năm
2017) và đạt 117,5% kế hoạch Trung ương giao.[1]
Thu nhập bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt 41,1 triệu đồng
(KH:41 triệu đồng).
Phấn đấu đến năm 2019, kinh tế Đắk Lắk đi theo hướng tăng trưởng
xanh, khai thác các lợi thế phát triển theo chiều sâu, liên kết mở, hội nhập khu
vực và quốc tế. Tổng sản phẩm xã hội (GRDP - theo giá so sánh 2010) ước
39
đạt 56.000 tỷ đồng, tăng trưởng kinh tế 8,7 - 9%. Thu nhập bình quân đầu
người đạt 45,5 triệu đồng.[1]
Dân số toàn tỉnh đạt 1.896.578 người, mật độ dân số đạt hơn 145,55
người/km². Trong đó, dân số sống tại thành thị đạt 464.357 người, dân số
sống tại nông thôn đạt 1.432.221 người (số liệu thống kê năm 2017). Dân số
tỉnh phân bố không đều trên địa bàn các huyện, tập trung chủ yếu ở thành phố
Buôn Ma Thuột, thị trấn, huyện lỵ, ven các trục Quốc lộ 14, 26, 27 chạy qua
như Krông Búk, Krông Pắk, Ea Kar, Krông Ana. Các huyện có mật độ dân số
thấp chủ yếu là các huyện đặc biệt khó khăn như Ea Súp, Buôn Đôn, Lắk,
Krông Bông, M’Đrắk, Ea Hleo.[Niên giám thống kê tỉnh Đắk Lắk, 2017]
Trên địa bàn tỉnh, ngoài các dân tộc thiểu số tại chỗ còn có số đông
khác dân di cư từ các tỉnh phía Bắc và miền Trung đến Đắk Lắk sinh cơ lập
nghiệp. Trong những năm gần đây, dân số của Đắk Lắk có biến động do tăng
cơ học, chủ yếu là di dân tự do, điều này đã gây nên sức ép lớn cho tỉnh về
giải quyết đất ở, đất sản xuất và các vấn đề đời sống xã hội, an ninh trật tự và
môi trường sinh thái.
Tỉnh Đắk Lắk có 49 dân tộc cùng sinh sống. Trong đó dân tộc Kinh
chiếm đông nhất với 1.161.533 người, thứ hai là dân tộc Ê Đê có 298.534
người, thứ ba là dân tộc Nùng có 71.461 người, thứ tư là dân tộc Tày có
51.285 người. Cùng các dân tộc ít người khác như M'nông có 40.344
người, dân tộc Mông có 22.760 người, dân tộc Thái có 17.135 người, dân tộc
Mường có 15.510 người.[1]
2.1.3. Truyền thống văn hóa
Đến Đắk Lắk hầu như ai cũng ngạc nhiên trước một hiện thực văn hóa
dân gian vô cùng sống động, phong phú, đa dạng của các dân tộc sống trên
cao nguyên này. Các nền văn hóa dân gian ấy thống nhất trong sự đa dạng và
đa dạng trong sự thống nhất, tạo thành một bức tranh văn hóa dân gian Đắk
Lắk với những mảng màu khác nhau, nhưng lại kết hợp khá hài hòa tạo nên
40
một nét độc đáo, tinh tế, để rồi hình thành ba dòng văn hóa giàu bản sắc: Văn
hóa bản địa các dân tộc bản địa Tây Nguyên - Trường Sơn; văn hóa của các
dân tộc thiểu số phía Bắc; văn hóa dân tộc Kinh (người Việt), mang đủ sắc
thái ba miền Bắc - Trung - Nam.
Cả ba dòng văn hóa ấy tiêu biểu cho nền văn hóa Việt Nam đang hiện
diện và ngày càng phát triển, giao thoa, đan xen, bồi đắp cho nhau, tạo thành
nền văn hóa Đắk Lắk phong phú, đa dạng, đậm đà bản sắc dân tộc.
Đặc biệt, ở Đắk Lắk, cồng chiêng của các dân tộc Tây Nguyên đã được
thiêng hóa. Nó là công cụ duy nhất để con người thông tin với các vị thần linh
trong trời đất, là âm nhạc không thể thiếu được trong đời sống cộng đồng,
trong sinh hoạt văn hóa, trong nghi lễ và lễ hội của các buôn làng. Không gian
văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là Kiệt tác
truyền khẩu và phi vật thể nhân loại vào ngày 25 tháng 11 năm 2005.
Đến Đắk Lắk, chúng ta sẽ được tham dự các nghi lễ nông nghiệp (ăn
cơm mới, cúng hồn lúa, cầu mưa, cúng bến nước, lễ bỏ mả...) khá độc đáo và
sinh động của các dân tộc sinh sống lâu đời tại đây. Lễ hội mùa xuân của các
dân tộc thiểu số phía Bắc, lễ hội truyền thống của người Việt, đó là những lễ
hội vô cùng quan trọng trong đời sống cộng đồng của mỗi dân tộc. Nó mang
trong mình sức sống và ước mơ lý tưởng nhằm cầu mong cho mỗi gia đình và
cả cộng đồng ngày càng phát triển phồn thịnh.
Ngoài ra, Lễ hội cà phê Buôn Ma Thuột, hay Buôn Ma Thuột cà phê
Festival, là một lễ hội được tổ chức ở thành phố Buôn Ma Thuột của tỉnh Đắk
Lắk, đây là một lễ hội lớn ở Tây Nguyên. Được Thủ tướng chính phủ công
nhận mang tầm vóc một lễ hội cấp Quốc gia, tổ chức định kỳ hai năm một
lần.
Đó là những tiền đề tất yếu làm cho văn hóa các dân tộc bản địa Đắk
Lắk nảy sinh, tồn tại và lưu truyền từ đời này sang đời khác, trở thành truyền
thống. Nó chính là bức tranh sinh động về xã hội các tộc người bản địa qua
41
các thời kỳ lịch sử. Trong quá trình giao lưu, tiếp biến, giao thoa văn hóa, các
dân tộc bản địa Đắk Lắk cũng như Tây Nguyên cùng các dân tộc thiểu số phía
Bắc và người Việt vẫn giữ được những nét đặc trưng văn hóa riêng của mình,
gia nhập vào cái chung của văn hóa Đắk Lắk, tạo cho vùng đất này có một
nền văn hóa phong phú, đa dạng, giàu bản sắc.
2.2. Thực trạng quản lý nhà nước đối với di tích lịch sử cấp quốc
gia trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
2.2.1. Khái quát về di tích lịch sử cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Đắk
Lắk
Trong những năm đổi mới đất nước, công tác bảo tồn các di tích trên
địa bàn tỉnh được các cấp uỷ Đảng, chính quyền quan tâm chỉ đạo. Tính tới
ngày 24 tháng 12 năm 2018, toàn tỉnh Đắk Lắk đã có 32 di tích được xếp
hạng, 17 di tích được xếp hạng di tích cấp Quốc gia.
Một số di tích lịch sử cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
Di tích lịch sử Đình Lạc Giao
Đình Lạc Giao tọa lạc tại số 67, đường Phan Bội Châu thuộc, phường
Thống Nhất, Tp. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Đình do nhân dân làng Lạc
Giao cùng nhau xây dựng vào năm 1928, với mục đích dùng làm nơi sinh
hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân và là nơi thờ thần hoàng làng. Năm
1930 triều đình Nhà Nguyễn sắc phong ông Ông Đào Duy Từ làng thành
hoàng làng và được thờ trong đình.
Bộ Văn hóa Thông tin (Bộ Văn Hóa, Thể thao và Du lịch) đã ra quyết
định số 168/QĐ-BVHTT ngày 02/3/1990 công nhận Đình Lạc Giao là di tích
lịch sử cấp quốc gia.
Di tích lịch sử Hang đá Đắk Tuôr
Tháng 5-1965 từ Hang đá Dak Tuôr, Tỉnh ủy đã lãnh đạo nhân dân các
dân tộc H9 vùng dậy phá ách kìm kẹp của địch, giải phóng một vùng đất rộng
lớn về phía Đông của tỉnh, vùng đất này nay thuộc huyện Krông Bông. Từ
42
vùng căn cứ cách mạng này, Tỉnh ủy tiếp tục lãnh đạo quân và dân trong tỉnh
kháng chiến, giải phóng Buôn Ma Thuột ngày 10-3-1975, mở màn cho Đại
thắng mùa Xuân năm 1975, toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Ngày 3/8/1991, Hang đá Dak Tuôr được Bộ Văn hóa - Thông tin công
nhận là di tích lịch sử cấp Quốc gia. Sở Văn hóa - Thông tin Đắk Lắk cũng đã
có dự án giữ gìn và tôn tạo lại khu di tích gồm : Hội trường Tỉnh ủy trong
hang đá; nơi ở và làm việc của đồng chí Huỳnh Văn Cần, nguyên Bí thư Tỉnh
ủy lúc bấy giờ. Qua khảo sát đã cho thấy khu di tích này có cả một hệ thống
hang đá liên hoàn gồm nhiều tầng lớp ăn sâu vào lòng núi đủ chỗ ở cho hàng
trăm sư đoàn.
Di tích lịch sử Đồn điền CADA
Di tích lịch sử CADA (kéo dài từ km 18 đến km 47 quốc lộ 26 thuộc xã
Ea Yông, huyện Krông Pač, do người Pháp xây dựng vào năm 1922, để trồng
chè và cà phê.
CADA là nơi thực dân Pháp mở đầu cho việc cướp đoạt đất đai để khai
thác tài nguyên một cách quy mô trong quá trình khai thác thuộc địa của thực
dân Pháp ở Đắk Lắk, việc lập đồn điền và du nhập chủ nghĩa tư bản thực dân
đã phá vỡ nền kinh tế truyền thống của các dân tộc thiểu số tại tỉnh.
Ngày 26/1/1999 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch) ban hành Quyết định số 02/1999-QĐ-BVHTT v/v
công nhận di tích lịch sử CADA, xã Ea Yông, huyện Krông Pač, tỉnh Đắk Lắk
là di tích Quốc gia.
Di tích lịch sử số 04 Nguyễn Du (Biệt điện Bảo đại)
Di tích số 04 Nguyễn Du (Biệt Điện Bảo Đại) tọa lạc tại số 02 Y
Ngông, Tp. Buôn Ma Thuột. Nơi đây trước năm 1905, nguyên là nhà hàng
Maison Lefévre, đến năm 1914 Sabatier về làm công sứ tại Đắk Lắk đã chọn
địa điểm này để xây dựng công sở được gọi là Toà Đại lý quận trưởng. Năm
1926, sau khi về thay Công sứ Sabatier Công sứ Giran đã cho cải tạo và xây
43
dựng toà nhà như hiện nay, và được gọi là Toà công sứ (Résidence) theo dân
địa phương gọi là Sang Ae Prong (nhà ông lớn).
Tháng 11/1947 sau khi được chính phủ Pháp bảo lãnh đưa Vĩnh Thụy
(Bảo Đại) về nước với danh nghĩa là Quốc trưởng. Bảo Đại đã đến đây ở và
làm việc trong khu vực này gần 8 tháng (từ tháng 11/1947 đến khoảng tháng
5/1948). Di tích này được Bộ VHTT (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch) ký quyết định xếp hạng di tích Quốc gia theo QĐ số: 02/1999 BVHTT
của Bộ trưởng Bộ VHTT ngày 26/01/1999.
Di tích lịch sử Miếu thờ CADA
Đây là một kiến trúc trong tổng thể khu Di tích lịch sử CADA. Miếu
thờ CADA là một trong những thành quả đấu tranh của công nhân lao động
với Chủ đồn điền; Miếu thờ được lập để thờ cúng Thần hoàng làng của quê
hương mới và những công nhân, chiến sĩ cách mạng đã hy sinh;
Miếu thờ CADA còn là nơi diễn ra một số cuộc họp Chi bộ Đảng Đồn
điền CADA trong những năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ ác liệt, là nơi
đặt hộp thư liên lạc, giao nhận nhiệm vụ, báo cáo của cơ sở cách mạng ở đồn
điền CADA. Miếu thờ CADA được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công
nhận là di tích lịch sử cấp Quốc gia ngày 17/09/2012.
Di tích lịch sử Địa điểm lưu niệm chiến sĩ Nam tiến
Địa điểm lưu niệm các chiến sỹ Nam tiến tại Buôn Ma Thuột, số 05
đường Lê Duẩn, phường Tự An, thành phố Buôn Ma Thuột vừa được Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích lịch sử quốc gia theo Quyết định
số 1350/QĐ-BVHTTDL ngày 24 tháng 4 năm 2015.
Tại đây đã diễn ra cuộc chiến đấu anh dũng giữa quân và dân Đắk Lắk
cùng với các chiến sỹ Nam tiến với quân Pháp xâm lược. Ngày 01/12/1945
(ngày 27 tháng 10 năm Ất Dậu), trong khi nhân dân thị xã Buôn Ma Thuột
vẫn sinh hoạt bình thường thì quân Pháp tràn đến. Hơn 100 chiến sỹ Nam tiến
44
của chi đội Vi Dân đã hy sinh tại đồn Bảo An binh (về sau là Khu thông tin
triển lãm của tỉnh, nay là số 05 đường Lê Duẩn).
Di tích lịch sử Khu căn cứ kháng chiến tỉnh Đắk Lắk 1965-1975 tại
huyện Krông Bông
Khu căn cứ kháng chiến tỉnh Đắk Lắk (1965 - 1975) nằm tại sườn núi
Čư Yang Sin, huyện Krông Bông (H9) đã trở thành căn cứ địa cách mạng của
tỉnh Đắk Lắk từ năm 1965-1975 và đóng vai trò là căn cứ địa cách mạng,
trung tâm đầu não của tỉnhTrong kháng chiến chống Mỹ, Khu căn cứ là nơi
đứng chân của Cơ quan Tỉnh ủy, các cơ quan, ban, ngành tỉnh, là đầu mối của
nhiều tuyến hành lang trọng yếu thuộc đường hành lang chiến lược Bắc -
Nam, Đông - Tây đảm bảo cho sự lãnh đạo của Trung ương Đảng đối với
chiến trường miền Nam kịp thời; đảm bảo sự chi viện sức người, sức của và
các phương tiện chiến tranh cho chiến trường miền Nam.
Ngày 09 tháng 3 năm 2017, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban
hành Quyết định số 822/QĐ-BVHTTDL về việc xếp hạng di tích quốc gia: Di
tích lịch sử Khu căn cứ kháng chiến tỉnh Đắk Lắk (1965 - 1975) xã Cư Pui,
Yang Mao, Hòa Phong, huyện Krông Bông.
2.2.2 Phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với di tích lịch sử
cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
2.2.2.1. Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chính sách bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử
Tháng 6 năm 2008, Liên bộ Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Bộ
Nội vụ ban hành Thông tư Liên tịch số 43/2008/TTLT-BVHTTDL-BNV
hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch thuộc UBND cấp tỉnh, Phòng Văn hoá và Thông tin
thuộc UBND cấp huyện. Trên cơ sở hướng dẫn này, Ngày 25/01/2016, Uỷ
ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 252/QĐ-UBND quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Văn hoá, Thể thao và Du
45
lịch.Trong đó, quy định rõ về mặt cơ cấu tổ chức, Sở Văn hoá, Thể thao và
Du lịch tỉnh Đắk Lắk có các phòng chuyên môn: Văn phòng, Thanh tra,
Phòng Kế hoạch - Tổng hợp, Phòng Nghiệp vụ văn hóa, Phòng Xây dựng nếp
sống Văn hóa và Gia đình, Phòng Nghiệp vụ thể dục thể thao, Phòng Nghiệp
vụ du lịch, Phòng Quy hoạch và phát triển tài nguyên du lịch, Phòng Quản lý
Di sản văn hóa. Như vậy, nếu trước đây, nhiệm vụ quản lý về di sản văn hoá
chỉ là một bộ phận thuộc quản lý của phòng Nghiệp vụ Văn hoá thì đến thời
điểm này, sự ra đời của phòng Di sản Văn hoá đã cho thấy sự quan tâm của
tỉnh cho lĩnh vực quản lý di sản văn hoá trong đó có quản lý nhà nước đối với
di tích lịch sử.
Căn cứ Thông tư liên tịch số 07/2015/TTLT-BVHTTDL-BNV ngày
14/9/2015 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương, phòng Văn hóa và Thông tin thuộc UBND huyện, quận, thị xã
thành phố thuộc tỉnh, phòng Di sản văn hóa được đổi tên thành phòng Quản
lý Di sản Văn hóa. Sự thay đổi này nhằm làm rõ chức năng quản lý nhà nước
về lĩnh vực di sản văn hóa của cơ quan chuyên môn cấp tỉnh.
Thực hiện Quyết định số 581/QĐ-TTg ngày 06/5/2009 của thủ tướng
Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020;
Thực hiện Kế hoạch số 523/KH-BVHTTDL ngày 14/02/2019 của Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch về việc tổng kết 10 năm thực hiện “Chiến lược phát
triển văn hóa đến năm 2020”, Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk ban hành Kế
hoạch tổ chức Tổng kết 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa đến
năm 2020 nhằm tổng kết, đánh giá kết quả 10 năm thực hiện Chiến lược phát
triển văn hóa giai đoạn 2009 - 2019, làm rõ những kết quả đạt được, những
hạn chế, khó khăn và nguyên nhân dẫn đến thành công, hạn chế trong quá
trình tổ chức thực hiện, làm rõ những vấn đề đặt ra, những điều chỉnh và đề
xuất mục tiêu, nhiệm vụ, phương hướng, giải pháp, cơ chế, chính sách,
46
phương thức thực hiện và các căn cứ để xây dựng Chiến lược phát triển văn
hóa Việt Nam đến năm 2030 phù hợp với thực tế và yêu cầu phát triển đất
nước trong giai đoạn mới.
Tỉnh đã triển khai tuyên truyền nội dung Luật Di sản Văn hóa năm
2001 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa năm 2009
nhằm đẩy mạnh các hoạt động bảo vệ, gìn giữ, tôn tạo và phát huy giá trị Di
sản văn hóa các dân tộc ở Đắk Lắk, góp phần hiệu quả xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Chỉ thị số 07/CT-UBND ngày 03 tháng 5 năm 2019 về công tác lập,
quản lý quy hoạch xây dựng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk nhằm tăng cường chấn
chỉnh công tác lập, quản lý quy hoạch xây dựng trên địa bàn tỉnh, UBND tỉnh
giao Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch chịu trách nhiệm chỉ đạo Thanh tra Sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với Thanh tra Sở Xây dựng, Thanh tra
các huyện, thị xã, thành phố tăng cường công tác quản lý quy hoạch, xây
dựng tại các khu vực bảo vệ di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh cấp quốc gia
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk để kiểm tra, xử lý kịp thời các trường hợp lấn chiếm
đất đai trong khu vực bảo vệ.
Xây dựng kế hoạch, tiến hành khảo sát, thu thập tư liệu, xây dựng lí
lịch, hồ sơ khoa học của di tích, tổ chức Hội nghị khoanh vùng các khu vực
bảo vệ di tích, đã hoàn thành 03 hồ sơ khoa học di tích trình cấp thẩm quyền
xếp hạng, trong đó có 01 di tích lịch sử cấp Quốc gia: Di tích Khu căn cứ
kháng chiến tỉnh Đắk Lắk (1965-1975) tại huyện Krông Bông; 01 Di tích lịch
sử cấp Quốc gia đề nghị công nhận là Di tích Quốc gia đặc biệt: Nhà đày
Buôn Ma Thuột.
Như vậy, có thể nói, từ năm 2010 đến nay, công tác quản lý nhà nước
về di tích lịch sử trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đã có bước ngoặt lớn. Việc ra đời
bộ máy quản lý cấp tỉnh trực tiếp là phòng Di sản văn hóa (nay là phòng Quản
lý Di sản Văn hóa) với chức năng, nhiệm vụ cụ thể đã góp nâng cao hiệu quả
47
quản lý nhà nước về lĩnh di sản nói chung và di tích nói riêng. Đây là bước
tiến lớn, nhằm cải thiện căn bản tình trạng có nơi quản lý còn chồng chéo, có
nơi lại buông lỏng quản lý như trước đây. Cùng với đó, những thể chế, chính
sách về công tác quản lý, bảo tồn, phát huy các di tích cũng được tỉnh cụ thể
hóa trong văn bản mang tính pháp quy được áp dụng trên địa bàn toàn tỉnh.
Đây chính là công cụ pháp lý quan trọng để hoạt động quản lý nhà nước về di
tích lịch sử trên địa bàn toàn tỉnh có căn cứ để thực hiện hiệu quả.
2.2.2.2. Thực trạng ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy
phạm pháp luật về di tích lịch sử
Ủy ban nhân dân tỉnh đã kịp thời ban hành và phê duyêt kế hoạch bảo
vệ khẩn cấp đối với các di tích quốc gia trọng điểm, ban hành quy định cụ thể
danh mục di tích ưu tiên đầu tư và huy động nguồn lực xã hội để tu bổ, tôn
tạo. Ban hành quy chế bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích trên đia bàn tỉnh.
Ban hành cơ chế phối hợp liên ngành đẻ quản lý di vật, cổ vật trong các di
tích lịch sử.
UBND tỉnh cũng đã có văn bản số 2957/UBND-KGVX, gửi Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch; Sở Nội vụ (Ban Tôn giáo); Sở Xây dựng; UBND
các huyện, thị xã, thành phố về tăng cường giám sát việc xây dựng, tu bổ, tôn
tạo các công trình di tích văn hóa, lịch sử, tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn
tỉnh.
Trên cơ sở thực hiện Công văn số 3008/VPCP-KGVX ngày 12/4/2019
của Văn phòng Chính phủ về việc báo cáo về hoạt động dịch vụ văn hóa, tâm
linh UBND tỉnh giao Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với
các Sở: Nội vụ (Ban Tôn giáo), Xây dựng; UBND các huyện, thị xã, thành
phố và các đơn vị liên quan căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao tăng
cường giám sát việc đầu tư xây dựng, tu bổ, tôn tạo các công trình di tích văn
hóa, lịch sử, tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
48
Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về di
sản văn hóa:
Từ cấp Trung tâm quản lý nhà nước đối với di tích lịch sử tỉnh đã chỉnh
sửa bổ sung các điều, khoản để tham mưu cho Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch trình UBND tỉnh ban hành Quyết định quy chế Quản lý, bảo vệ và phát
huy giá trị di tích trên địa bàn tỉnh.
Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã đề nghị UBND tỉnh ban hành các
Quyết định và bàn giao quyền quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch
sử cấp Quốc gia cho các địa phương như: Di tích lịch sử đồn điền CADA, Di
tích lịch sử Miếu thờ CADA xã Ea Yông, huyện Krông Pắk cho UBND huyện
Krông Pắk; Di tích hang đá Đắk Tuôr tại xã Cư Pui, huyện Krông
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_quan_ly_nha_nuoc_doi_voi_di_tich_lich_su_cap_quoc_g.pdf