TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
MỞ ĐẦU . 1
1. Lý do chọn đề tài. 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn . 2
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu. 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 6
5. Phương pháp nghiên cứu. 6
6. Kết quả và tính ứng dụng của đề tài. 7
7. Kết cấu của luận văn . 7
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU LỊCH
TRÊN ĐỊA BÀN CẤP HUYỆN . 8
1.1. Tổng quan về du lịch. 8
1.1.1. Khái niệm du lịch. 8
1.1.2. Phân loại các loại hình du lịch . 10
1.1.3. Đặc điểm của du lịch. 12
1.1.4. Vai trò của du lịch. 14
1.2. Quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn cấp huyện. 18
1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn cấp huyện. 18
1.2.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn cấp huyện. 20
1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn cấp huyện. 21
1.2.4. Sự cần thiết của quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn cấp huyện. 28
1.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn cấp
huyện . 30
1.3. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về du lịch của một số địa phương . 34
122 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 21/02/2022 | Lượt xem: 711 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ợt khách du lịch năm 2018. Đó là do Đà Lạt tuy đang là điểm đến du lịch nổi
tiếng trong nước, nhưng chưa tạo dựng được hình ảnh bên ngoài. Thực tế này đặt
ra yêu cầu cho các doanh nghiệp tiếp tục khai thác tốt nguồn khách nội địa và tăng
cường mở rộng hội nhập quốc tế.
Nếu so sánh số lượng khách du lịch quốc tế đến Đà Lạt với Sa Pa và Nha
Trang, là các địa phương có các đặc điểm phát triển du lịch tương đối giống với Đà
Lạt; thì cho thấy lượng du khách quốc tế đến với Đà Lạt còn tương đối thấp.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do Đà Lạt còn ít khu du lịch, dịch vụ giải trí
49
mang tầm cỡ quốc tế. Khách du lịch nội địa vẫn là thị trường chính của du lịch Đà
Lạt. Khách nội địa đến Đà Lạt tập trung nhiều ở các tỉnh, thành phố phía Nam như:
TP. Hồ Chí Minh, Khánh Hòa, Bình Dương, Đồng Nai Đa số khách du lịch nội
địa đến Đà Lạt nhằm nghỉ mát, tham quan các di tích lịch sử và danh lam thắng
cảnh, cùng với đó là tham dự các lễ hội mang tầm quốc gia, quốc tế. Ngoài lượng
khách nội địa đến Đà Lạt thông qua tham quan còn có một lượng khách du lịch đến
Đà Lạt là khách đi công vụ, hội nghị kết hợp du lịch.
Trong thời gian sắp tới, thành phố chủ trương đẩy mạnh phát triển các loại
hình du lịch và cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ du lịch nhằm thu hút du khách
quốc tế đến tham quan, du lịch; đồng thời không ngừng nâng cao chất lượng phục
vụ nhằm tăng số lượng khách du lịch nội địa.
2.2.2. Doanh thu du lịch
Ngành du lịch là ngành mang lại lợi nhuận cao cho phát triển kinh tế và xã
hội. Du lịch Đà Lạt với việc khai thác lợi thế sẵn có thực sự đã trở thành ngành có
doanh thu cao và ngày càng tăng. Từ năm 2014, ngành du lịch Đà Lạt phục hồi
nhanh chóng sau giai đoạn suy thoái kinh tế thế giới giai đoạn 2008 - 2013, tạo cơ
sở vững chắc cho sự phát triển vào giai đoạn sau. Doanh thu chuyên ngành du lịch
giai đoạn 2014 - 2018 tăng bình quân hàng năm đạt 9,2%.
0
20
40
60
80
2014 2015 2016 2017 2018
Dịch vụ
Lữ hành
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu doanh thu du lịch Đà Lạt giai đoạn 2014 - 2018
Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2014 - 2018
Tốc độ tăng trưởng bình quân nhanh, song tỷ trọng đóng góp của du lịch vào
khu vực dịch vụ, toàn nền kinh tế địa phương còn ở mức thấp. Đây là vấn đề cần
50
được chú trọng để đảm bảo phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của
thành phố. chưa khẳng định được vai trò động lực, tạo điều kiện cho các ngành
kinh tế khác phát triển; giá trị xuất khẩu dịch vụ du lịch không đáng kể, năng suất
lao động ở mức độ trung bình; sức mua và giá cả dịch vụ du lịch, mức độ thỏa mãn
của du kháchvẫn còn khiêm tốn... Nguyên nhân có nhiều nhưng đáng quan tâm
nhất là dịch vụ du lịch chất lượng cao phát triển còn chậm; hàng hóa, sản phẩm du
lịch còn đơn điệu, trùng lắp, chưa hấp dẫn du khách; hoạt động du lịch chưa đáp
ứng được cả mục tiêu du lịch, tham quan và mục tiêu công việc (trong khi các nơi
khác đã chú ý đầu tư phát triển đồng đều cho các mục tiêu này); công tác quy
hoạch du lịch chưa đồng bộ, thiếu điểm nhấn; các dự án đầu tư vào du lịch còn dàn
trải, thiếu những dự án lớn, tiến độ thực hiện chậm; việc bảo tồn, khai thác danh
lam thắng cảnh để phát triển du lịch hiệu quả chưa cao, tình trạng xuống cấp còn
xẩy ra; công tác quản lý các hoạt động liên quan đến du lịch chưa có sự phối hợp
chặt chẽ, hiệu quả; môi trường du lịch có lúc, có nơi chưa thực sự lành mạnh; hệ
thống hạ tầng du lịch, nhất là giao thông còn nhiều hạn chế; nguồn nhân lực chưa
đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch chất lượng cao
Về cơ cấu doanh thu, có thể thấy doanh thu du lịch Đà Lạt chủ yếu vẫn là từ
dịch vụ là chủ yếu. Điều này cho thấy, du lịch Đà Lạt hiện nay mới chỉ cung cấp
chủ yếu các dịch vụ về ăn uống, lưu trú, giải trí vui chơi doanh thu từ lữ hành
còn ít so với mặt bằng chung. Năm 2018, trong cơ cấu doanh thu, doanh thu dịch
vụ chiếm tỷ lệ 65% tổng doanh thu của ngành. Doanh thu từ lữ hành chiếm tỷ lệ
tương đối, chỉ chiếm 35%. Hoạt động lữ hành đã có những bước phát triển vượt
bậc, tại thành phố hiện có 101 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành, theo đó, năm qua
các đơn vị lữ hành tại Đà Lạt đã đón tiếp và phục vụ cho nhiều lượt khách quốc tế,
nội địa.
2.2.3. Lao động du lịch
Nhìn chung, lực lượng lao động của ngành du lịch Đà Lạt tuy đông nhưng
vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, đang trong tình trạng vừa thừa, vừa thiếu. Thừa lao
động lớn tuổi, chưa qua đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, thiếu lao động được
đào tạo cơ bản về ngoại ngữ. Chất lượng đội ngũ lao động quản lí của ngành du
51
lịch chưa cao, năng lực quản lí còn hạn chế, cơ cấu đào tạo chưa hợp lí, vẫn còn
thiếu những người thực sự giỏi về chuyên môn, có thể hoạch định chiến lược kinh
doanh của các đơn vị.
Số lượng lao động trong ngành tăng theo từng năm nhưng tỷ lệ không nhiều.
Chủ yếu là lao động phổ thông, trung cấp, do đó chất lượng phục vụ chưa cao. Tuy
nhiên, từ năm 2014 trở đi với chính sách nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
ngành du lịch của thành phố, chất lượng lao động trong ngành du lịch ngày một
tăng lên, lao động có chuyên môn nghiệp vụ và trình độ cao chiếm tỷ lệ ngày càng
lớn trong tổng cơ cấu lao động du lịch của thành phố. Tính đến hết năm 2018, số
lao động trực tiếp phục vụ ngành du lịch khoảng 11200 lao động (trong đó có 30
CBCC đang làm việc trong các cơ quan quản lý về du lịch; 7600 lao động trong
lĩnh vực lưu trú; 1350 lao động trong lĩnh vực lữ hành – vận chuyển, 2220 lao
động đang làm việc tại các khu, điểm u lịch), trong đó có khoảng 77% lao động
được qua đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ du lịch. Tỷ lệ lao động được đào tạo,
đào tạo lại, bố trí đúng ngành nghề, lao động có kinh nghiệm nghề nghiệp, trình độ
ngoại ngữ có xu hướng ngày càng tăng. Nguồn nhân lực du lịch nhìn chung đa
phần còn rất trẻ, độ tuổi lao động từ 18 - 35 tuổi chiếm hơn 60% trong tổng số lao
động trực tiếp phục vụ du lịch, phù hợp với đặc điểm của ngành.
Sở dĩ có được kết quả trên ngoài vai trò của thành phố còn phải kể đến vai
trò của các doanh nghiệp khi tiến hành áp dụng được mô hình quản trị nguồn nhân
lực tiên tiến, làm tốt các khâu tuyển chọn, đào tạo bồi dưỡng, sử dụng và duy trì
nguồn nhân lực.
22.98
48.83
28.19
Đại học, Cao đẳng
Trung cấp
Sơ cấp
Biểu đồ 2.3: Cơ cấu trình độ lao động ngành du lịch Đà Lạt năm 2018
Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lâm Đồng
52
Tuy nhiên, chất lượng lao động nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu
của từng nghề, trong quá trình phục vụ vẫn hay mắc sai sót, tỷ lệ khách phàn nàn
về chất lượng dịch vụ còn khá cao, đặc biệt là đội ngũ hướng dẫn viên du lịch của
thành phố. Trong tổng số lao động trực tiếp, đội ngũ hướng dẫn viên chỉ chiếm từ
13 - 14%. Đây là lực lượng nòng cốt, trực tiếp tổ chức và tiếp xúc với khách du
lịch nhưng số lượng quá ít nên cường độ làm việc của họ trong mùa du lịch khá
cao, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng phục vụ.
2.2.4. Dịch vụ khách sạn, lữ hành
Có thể nói, thị trường kinh doanh khách sạn trên địa bàn thành phố Đà Lạt
có qui mô mở rộng trong giai đoạn 2014 - 2018. Năm 2014, Đà Lạt có 858 khách
sạn trong đó có 281 khách sạn có sao, đến năm năm 2018 là 1399 khách sạn với
426 khách sạn có sao với tốc độ tăng bình quân năm trong giai đoạn này là 2,73%.
LĨNH VỰC
KINH DOANH
ĐVT 2014 2015 2016 2017 2018
Khách sạn KS 858 936 1055 1244 1399
Lữ hành DN 46 49 57 63 67
Tổng cộng 904 985 1112 1307 1466
Bảng 2.4: Số lượng doanh nghiệp du lịch tại Đà Lạt giai đoạn 2014 - 2018
Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lâm Đồng
Hoạt động kinh doanh của các khách sạn giữ tốc độ tăng trưởng khá ổn định
trong giai đoạn 2014 - 2018, với công suất sử dụng phòng bình quân tăng cao từ
76% - 83%. Theo Báo cáo tổng kết công tác năm 2018 của Sở VHTTDL tỉnh Lâm
Đồng, các khách sạn từ 3 đến 5 sao có công suất sử dụng phòng vào mùa lễ hội có
thể lên đến 90-100%.
Hoạt động kinh doanh lữ hành của thành phố Đà Lạt trong những năm qua
tiếp tục phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Sau hơn 9 năm kể từ năm 2008,
số lượng các đơn vị kinh doanh lữ hành đã tăng lên. Tính đến cuối năm 2018 có 67
đơn vị kinh doanh lữ hành, trong đó có 24 đơn vị kinh doanh lữ hành quốc tế và 43
đơn vị kinh doanh lữ hành nội địa.
Nhìn chung, các đơn vị đã tổ chức được nhiều chương trình tham quan trong
53
nước và nước ngoài khá hấp dẫn, tạo được ấn tượng tốt đối với du khách về chất
lượng, chương trình tham quan và chất lượng phục vụ của đội ngũ hướng dẫn viên,
lái xe du lịch. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp có chức năng kinh doanh lữ hành
quốc tế của thành phố chưa có khả năng tổ chức các tour du lịch quốc tế, đưa
khách nước ngoài vào Việt Nam và đưa khách Việt Nam ra nước ngoài, do đó phải
nối tuyến dẫn đến tình trạng bị động về nguồn khách, khả năng khai thác nguồn
khách du lịch quốc tế trực tiếp còn thấp.
2.2.5. Sản phẩm du lịch
Thành phố đã nổ lực tìm giải pháp xây dựng, phát triển, đa dạng hoá và nâng
cao chất lượng sản phẩm du lịch; tích cực mở rộng, liên kết giữa các tỉnh, vùng,
miền để nối tour du lịch nội địa và quốc tế. Nhờ đó, nhiều sản phẩm du lịch mới đã
ra đời thu hút được khách du lịch tham gia như du lịch văn hóa, du lịch biển, du
lịch sinh thái, du lịch làng quê, du lịch làng nghề, du lịch hội nghị. Hiện nay, thành
phố đang chú trọng xây dựng loại hình du lịch hội nghị và du lịch sinh thái kết hợp
nghỉ dưỡng, coi đây là sản phẩm du lịch mang tính đột phá của thành phố trong
giai đoạn sắp tới. Ngoài ra, thành phố đã thu hút nhiều thành phần kinh tế tham gia
phát triển sản phẩm du lịch, thị trường du lịch ngày càng được mở rộng, sản phẩm
du lịch dần được đa dạng hóa và nâng cao chất lượng.
Tổ chức xây dựng sản phẩm du lịch được Đà Lạt ngày càng quan tâm thông
qua các hoạt động khảo sát, xây dựng sản phẩm du lịch, tour, tuyến du lịch mới,
đặc biệt gắn du lịch với các điểm di tích lịch sử - văn hóa. Công tác phối hợp xúc
tiến, quảng bá du lịch, liên kết hợp tác phát triển du lịch với các đơn vị bạn có sự
tiến bộ rõ rệt. Các đơn vị kinh doanh dịch vụ du lịch phục vụ ngày càng tốt, có
nhiều dịch vụ mới đáp ứng được nhu cầu giải trí của khách trong những dịp lễ, tết.
Các sản phẩm du lịch Đà Lạt từng bước đã phát huy được hiệu quả, đáp ứng nhu
cầu của khách du lịch ngày càng nhiều hơn. Khảo sát thực tế cho thấy, loại hình du
lịch, ẩm thực và cảnh quan thiên nhiên trên địa bàn Đà Lạt đều được đa số đánh giá
là hiệu quả.
Tuy sản phẩm du lịch của thành phố có phát triển và thu được những kết quả
đáng ghi nhận, nhưng còn thiếu tính độc đáo, hấp dẫn; dịch vụ du lịch chưa đa
54
dạng, phong phú. Sản phẩm du lịch phân bố không đồng đều, chưa phong phú, một
số tuyến, điểm du lịch mới hình thành nhưng chưa bổ sung dịch vụ thu hút du
khách. Quy mô sản phẩm du lịch của thành phố còn nhỏ, cần nâng cao chất lượng,
và cần có đề án, kế hoạch cụ thể để duy trì ổn định và phát triển. Các sản phẩm lưu
trú, dịch vụ du lịch chất lượng cao còn ít, còn thiếu sản phẩm du lịch đặc thù cao.
Sản phẩm du lịch của Đà Lạt và các địa phương khác có cùng điều kiện tự nhiên
còn trùng lắp, na ná giống nhau, cũng như các khu, điểm du lịch vẫn còn nhỏ lẻ và
trùng lắp. Hệ thống sản phẩm, dịch vụ du lịch tuy có phát triển, song chất lượng
chưa cao, chưa đủ sức hấp dẫn và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của du khách.
Các sản vật du lịch như quà lưu niệm, các món ẩm thực có mức độ phong phú, đa
dạng còn chưa cao.
2.3. Quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn thành phố Đà Lạt giai đoạn
2014 - 2018
2.3.1. Xây dựng và thực hiện các văn bản quản lý nhà nước, quy hoạch,
kế hoạch, chính sách phát triển du lịch
Nhận thức được tầm quan trọng của du lịch đối với sự phát triển kinh tế xã
hội, Quyết định số 2473/QĐ-TTg ngày 30/11/2011 phê duyệt Chiến lược phát triển
du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã xác định: “Đến năm
2020, du lịch cơ bản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tính chuyên nghiệp, hệ
thống cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối đồng bộ, hiện đại, sản phẩm du lịch chất
lượng cao, đa dạng, có thương hiệu, có sức cạnh tranh mang đậm bản sắc văn hoá
dân tộc, thân thiện với môi trường, đưa Việt Nam trở thành điểm đến có đẳng cấp
trong khu vực Năm 2030, đưa Việt Nam thành một trong những điểm đến du lịch
ưa chuộng, có đẳng cấp trên thế giới” [42].
Đối với tỉnh Lâm Đồng thì Đà Lạt giữ một vị trí đặc biệt quan trọng, vì vậy,
qua nhiều năm, kể từ khi mới thành lập tỉnh, lãnh đạo tỉnh cũng như Trung ương
đã nhiều lần ban hành nhiều văn bản quy định về quy hoạch, kế hoạch, chính sách
phát triển du lịch của tỉnh nói chung và thành phố Đà Lạt nói riêng. Theo đó, gần
đây nhất là Quyết định số 1369/QĐ-UBND ngày 25/6/2010 về việc phê duyệt quy
hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Lâm Đồng đến năm 2020 với quan điểm cốt
55
lõi là “Xây dựng Đà Lạt trở thành một trung tâm du lịch lớn của vùng Tây Nguyên
và cả nước” [48].
Mặt khác, nhằm tạo điều kiện vững chắc cho việc xây dựng và phát triển du
lịch Đà Lạt về lâu dài, ngày 12/5/2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định
số 704/QĐ – TTg để Phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chung thành phố Đà Lạt và
vùng phụ cận đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050. Theo đó, mục tiêu phát
triển đề ra là “xây dựng phát triển thành phố Đà Lạt và vùng phụ cận đến năm
2030 trở thành một vùng đô thị hiện đại, đẳng cấp quốc tế; có đặc thù về khí hậu,
cảnh quan tự nhiên, văn hóa lịch sử và di sản kiến trúc tầm quốc gia, khu vực và
có ý nghĩa quốc tế” [43]. Tính chất của Đà Lạt được nêu lên tại quyết định phê
duyệt điều chỉnh quy hoạch này: “Là trung tâm hành chính – chính trị, kinh tế –
văn hóa, khoa học kĩ thuật của tỉnh Lâm Đồng; trung tâm du lịch sinh thái nghỉ
dưỡng cao cấp và văn hóa di sản tầm quốc gia, khu vực và quốc tế , trung tâm
nghiên cứu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao cấp quốc gia và quốc tế; trung
tâm nghiên cứu khoa học, giáo dục – đào tạo và chuyển giao công nghệ đa ngành
cấp quốc gia; trung tâm bảo tồn rừng cảnh quan và đa dạng sinh học cấp quốc
gia; trung tâm thương mại dịch vụ, hội chợ triển lãm; trung tâm văn hóa nghệ
thuật, thể dục – thể thao và văn hóa cấp vùng; có vị trí quan trọng về quốc phòng
đối với khu vực Tây Nguyên và cả nước” [43].
Ngoài việc điều chỉnh quy hoạch nói riêng, Chính phủ còn tiếp tục tạo điều
kiện về mặt cơ chế đặc thù cho phát triển du lịch Đà Lạt với việc ban hành Quyết
định số 1528/QĐ-TTg ngày 03/9/2015 ban hành một số cơ chế, chính sách đặc thù
phát triển thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Với cơ chế, chính sách đặc thù phát
triển thành phố Đà Lạt trên 05 lĩnh vực cơ bản, Đà Lạt có đầy đủ cơ sở pháp lý
quan trọng để xây dựng các chính sách, quy hoạch, chiến lược phát triển du lịch Đà
Lạt đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ X, nhiệm kỳ 2015 –
2020 cũng nêu rõ “Đẩy mạnh phát triển dịch vụ du lịch xây dựng Đà Lạt thành
trung tâm du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng cao cấp, hội nghị, hội thảo mang tầm khu
vực và quốc tế” [38]. Điều này thể hiện được sự quan tâm sâu sắc của các cấp lãnh
56
đạo tỉnh trong việc phát triển du lịch, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội
của Đà Lạt. Để cụ thể hóa vấn đề này, ngày 16/11/2016, tỉnh ủy Lâm Đồng cũng
ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TU về Phát triển du lịch chất lượng cao giai đoạn
2016 – 2020, định hướng đến năm 2025 trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, đây là văn
bản mang tính chỉ đạo chiến lược trong phát triển du lịch của tỉnh Lâm Đồng nói
chung cũng như thành phố Đà Lạt nói riêng, theo đó, Nghị quyết nêu rõ định
hướng chiến lược trong phát triển du lịch của Đà Lạt là: “Phát triển du lịch theo
hướng chuyên nghiệp, có trọng tâm, trọng điểm; chú trọng phát triển theo chiều
sâu, đảm bảo chất lượng và hiệu quả, khẳng định thương hiệu và khả năng cạnh
tranh; xây dựng Đà Lạt – Lâm Đồng trở thành trung tâm du lịch chất lượng cao,
là điểm đến “An toàn, Thân thiện”” [39].
Nhằm cụ thể hóa Nghị quyết này trong thực tế, ngày 06/7/2017, UBND tỉnh
Lâm Đồng đã ban hành Quyết định số 1499/QĐ-UBND về ban hành kế hoạch triển
khai thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 6/01/2017 của Bộ Chính trị và Nghị
quyết số 07-NQ/TU ngày 16/11/2016 của Tỉnh ủy Lâm Đồng. Nội dung của Quyết
định số 1499/QĐ-UBND cũng xác định: “Xây dựng đề án phát triển và khai thác
có hiệu quả các sản phẩm du lịch đặc thù, có tính cạnh tranh cao, mang thương
hiệu du lịch Đà Lạt - Lâm Đồng như: du lịch nông nghiệp, du lịch thể thao, du lịch
mạo hiểm, du lịch làng nghề, du lịch văn hóa, du lịch di sản, du lịch lễ hội...” [49].
Để thực hiện có hiệu quả các nội dung của Quyết định số 1499/QĐ-UBND,
ngày 20/9/2017, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lâm Đồng đã ban hành Kế
hoạch số 58/KH-VHTTDL thực hiện Quyết định số 1499/QĐ-UBND ngày
06/7/2017 của UBND tỉnh về việc ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị
quyết số 08-NQ/TW ngày 16/01/2017 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 07-
NQ/TU ngày 16/11/2016 của Tỉnh ủy Lâm Đồng. Kế hoạch đã nêu rõ trách nhiệm
của các bên có liên quan cũng như phân công nhiệm vụ cụ thể cho các phòng ban
thuộc Sở trong việc chủ trì và phối hợp với các ngành, địa phương thực hiện các
chương trình, nội dung được UBND tỉnh giao đúng tiến độ thời gian và hiệu quả.
Trong nội dung của Kế hoạch, Đà Lạt tiếp tục được chọn là địa phương trọng điểm
trong việc triển khai thực hiện các nội dung.
57
Bên cạnh đó, nhằm đẩy mạnh kết quả thực hiện các loại hình du lịch tại Đà
Lạt nói riêng và tỉnh Lâm Đồng nói chung, ngày 06/3/2018, UBND tỉnh Lâm Đồng
cũng đã ban hành Quyết định số 450/QĐ-UBND về việc phê duyệt Đề án “Bảo
tồn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc bản địa, khôi phục và phát triển các làng
nghề truyền thống gắn với hoạt động du lịch trên địa bàn Lâm Đồng giai đoạn
2018 - 2020 và định hướng đến năm 2030”. Quyết định ra đời đã góp phần bảo tồn,
phát huy văn hóa truyền thống các dân tộc bản địa, làng nghề truyền thống phục vụ
phát triển du lịch; phù hợp với quy hoạch phát triển du lịch của tỉnh nói chung và
Đà Lạt nói riêng; đồng thời thực hiện tốt các nhiệm vụ, chỉ tiêu về văn hóa, du lịch
mà Nghị quyết của các cấp ủy đảng, chương trình, kế hoạch của tỉnh đã đề ra.
Đối với các cấp ủy Đảng, chính quyền tại thành phố Đà Lạt thì ngoài các
văn bản, chính sách, chiến lược, quy hoạch của cấp ủy, chính quyền cấp trên là cơ
sở pháp lý quan trọng để xây dựng và tổ chức thực hiện các chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch; cấp ủy Đảng, chính quyền tại thành phố Đà Lạt cũng chú trọng xây dựng
riêng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch để cụ thể hóa các văn bản của cấp trên;
theo đó, Thành ủy Đà Lạt đã ban hành Nghị quyết số 06-NQ/Th.U ngày
28/02/2017 về phát triển du lịch chất lượng cao đến năm 2020, định hướng đến
năm 2025 trên địa bàn thành phố Đà Lạt. Nghị quyết số 06-NQ/Th.U là văn bản
quan trọng, thể hiện tầm nhìn, quyết tâm của lãnh đạo thành phố trong việc xây
dựng và phát triển du lịch của thành phố trong tương lai; đồng thời đây cũng là văn
bản mang tính chỉ đạo quan trọng để các cơ quan, ban, ngành trên địa bàn thành
phố triển khai thực hiện có hiệu quả mục tiêu xây dựng thành phố Đà Lạt thành đô
thị du lịch trọng điểm của quốc gia.
Nhằm xác định nội dung, tiến độ, phân công trách nhiệm cụ thể cho các
phòng ban, đơn vị và UBND các phường xã đối với từng nội dung công việc để
triển khai thực hiện có hiệu quả các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển du
lịch Đà Lạt nói chung và Nghị quyết số 06-NQ/Th.U nói riêng, ngày 19/4/2017,
UBND thành phố Đà Lạt đã ban hành Quyết định số 1249/QĐ-UBND ban hành
Kế hoạch phát triển du lịch chất lượng cao đến năm 2020, định hướng đến năm
2025 trên địa bàn thành phố Đà Lạt. Kế hoạch đã cụ thể hóa chương trình phát
58
triển du lịch chất lượng cao trên địa bàn thành phố Đà Lạt đến năm 2020, định
hướng đến năm 2025 theo Nghị quyết số 06-NQ/Th.U và Nghị quyết số 07-
NQ/TU, nhằm từng bước nâng cao tỷ trọng du lịch và dịch vụ trong cơ cấu kinh tế
của địa phương, khẳng định du lịch là ngành kinh tế động lực của thành phố.
Thành phố cũng chú trọng đến việc nâng cao chất lượng đội ngũ lao động
trong lĩnh vực du lịch với việc ban hành Quyết định số 3494/QĐ-UBND ngày
18/10/2016 về việc ban hành Kế hoạch đào tạo trình độ sơ cấp, dưới 3 tháng cho
lao động thành phố Đà Lạt giai đoạn 2016 – 2020. Mặt khác, nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động QLNN về du lịch của chính UBND thành phố cũng như
các cơ quan chính quyền các cấp trên địa bàn thành phố, từ năm 2007 đến nay,
hằng năm UBND thành phố đều ban hành kế hoạch kiểm tra các nội dung liên
quan đến du lịch như: an toàn vệ sinh thực phẩm, nhà hàng, khách sạn trên địa
bàn thành phố và thành lập Đoàn kiểm tra để triển khai thực hiện nhiệm vụ theo kế
hoạch đã đề ra.
Tóm lại, có thể nhận thấy trong QLNN về du lịch của địa phương, thành phố
Đà Lạt cũng đang dần hoàn thiện những cơ sở pháp lý cho công tác này nhằm phục
vụ tốt việc QLNN về du lịch trên địa bàn thành phố. Tuy nhiên so với tính chất và
phạm vi QLNN về du lịch thì các văn bản, chiến lược, quy hoạch liên quan đến
lĩnh vực du lịch được UBND thành phố Đà Lạt ban hành vẫn còn hạn chế và chậm
được ban hành. Ngoài ra, các văn bản khác ở những lĩnh vực khác hỗ trợ cho du
lịch cũng chưa được xây dựng kịp thời và hợp lý.
2.3.2. Tổ chức bộ máy và nhân sự quản lý nhà nước về du lịch
UBND thành phố, với địa vị pháp lý là cơ quan chấp hành của HĐND thành
phố thực hiện các hoạt động QLNN trên địa bàn thành phố. UBND thành phố tiến
hành xây dựng và tổ chức bộ máy để thực hiện tốt các nhiệm vụ QLNN tại địa
phương trong đó có QLNN về du lịch.
UBND thành phố có các cơ quan chuyên môn là các Phòng và cơ quan
tương đương Phòng (gọi chung là Phòng). Các cơ quan chuyên môn này là cơ quan
tham mưu, giúp UBND thành phố thực hiện chức năng QLNN ở địa phương và
thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo sự ủy quyền của UBND thành phố; góp
59
phần đảm bảo sự quản lý thống nhất ngành hoặc lĩnh vực công tác ở địa phương.
Hoạt động của các Phòng chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác
của UBND thành phố, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn về chuyên
môn nghiệp vụ của các Sở và cơ quan tương đương Sở. Theo đó, Phòng Văn hóa
và Thông tin (sau đây viết tắt là VHTT) thành phố là cơ quan chuyên môn, có trách
nhiệm tham mưu giúp việc cho UBND thành phố trong công tác QLNN về du lịch
trên địa bàn thành phố.
Trong những năm qua, Phòng VHTT thành phố Đà Lạt đã hoàn thành tốt
nhiệm vụ tham mưu, giúp việc cho UBND thành phố trong công tác QLNN về du
lịch trên địa bàn thành phố. Tuy nhiên, vì đội ngũ biên chế mỏng nhưng khối lượng
công việc theo Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày 05/5/2014 của Chính phủ về
quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh lại rất nhiều, bao gồm “Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân
cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Văn hóa; gia đình; thể dục,
thể thao; du lịch; quảng cáo; bưu chính; viễn thông; công nghệ thông tin; phát
thanh truyền hình; báo chí; xuất bản; thông tin cơ sở; thông tin đối ngoại; hạ tầng
thông tin” [9], điều này dễ gây quá tải trong công việc của Phòng và gián tiếp ảnh
hưởng đến hiệu quả công tác tham mưu về QLNN về du lịch trong thời gian vừa
qua cũng như sắp tới. Do đó, việc bổ sung thêm biên chế cho hoạt động của Phòng
là vấn đề cần thiết và có tính cấp bách nhằm góp phần nâng cao hiệu quả tham
mưu về QLNN trên các lĩnh vực của Phòng, trong đó có lĩnh vực du lịch.
Tuy thực hiện nhiều mảng công tác khác nhau trong khi số lượng biên chế
mỏng nhưng kết quả hoạt động QLNN về du lịch trên địa bàn thành phố Đà Lạt thì
không ngừng được nâng cao. Theo đó, truyền thông và báo chí quốc tế liên tục xếp
hạng Đà Lạt nằm trong danh sách 52 điểm đến hấp dẫn nhất nên ghé thăm qua các
năm, thứ hạng dao động từ 30 đến 40, trong các báo cáo xếp hạng luôn đề cập đến
vai trò của nhà nước trong quản lý có hiệu quả các doanh nghiệp lữ hành, dịch vụ
ăn uống, điều tiết, xây dựng hệ thống giao thông công cộng.. Điều này chứng tỏ
Phòng VHTT đã thực hiện rất tốt vai trò tham mưu giúp việc cho UBND thành phố
trong công tác QLNN về du lịch trên địa bàn thành phố.
60
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu mà Phòng VHTT thành phố Đà Lạt đã
đạt được trong tham mưu về QLNN về du lịch trên địa bàn thành phố thì cũng cần
nhìn nhận một số hạn chế như: thời gian tham mưu từ lúc có chủ trương cho đến
khi có văn bản chính thức còn chậm; năng lực tham mưu của một số CBCC chưa
được hoàn thiện, chưa đáp ứng được yêu cầu của hoạt động tham mưu về QLNN
về du lịch trên địa bàn thành phố
Nhằm triển khai hoạt động QLNN về du lịch, ngay từ khi có Luật Du lịch
năm 2005 và sau này là Luật Du lịch 2017, thì lãnh đạo thành phố đã quan tâm, tạo
điều kiện để thiết lập tổ chức, bố trí biên chế phù hợp, tạo tiền đề q
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_du_lich_tren_dia_ban_thanh_pho.pdf