Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .1
Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NưỚC VỀ KINH TẾ
CẤP XÃ.12
1.1. Các khái niệm có liên quan.12
1.1.1. Chính quyền cấp xã.12
1.1.2. Kinh tế cấp xã.13
1.1.3. Quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã .13
1.2. Quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã.14
1.2.1. Chủ thể quản lý nhà nước về kinh tế ở cấp xã.14
1.2.2. Vai trò quản lý nhà nước về kinh tế ở cấp xã.15
1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước về kinh tế ở cấp xã.17
1.3. Đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã.27
1.3.1. Khái niệm hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế.27
1.3.2. Tiêu chí để đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế cấp
xã.28
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NưỚC VỀ KINH TẾ CẤP
XÃ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HÒA THÀNH, TỈNH TÂY NINH.31
2.1. Tổng quan về huyện huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.31
2.1.1 Đặc điểm tự nhiên và điều kiện kinh tế-xã hội của huyện Hòa
Thành, tỉnh Tây Ninh.31
2.1.2 Tác động của đặc điểm tự nhiên và điều kiện kinh tế-xã hội của
huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh đến quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã
trên địa bàn huyện.322.2. Thực trạng quản lý Nhà nước về kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện
103 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 23/02/2022 | Lượt xem: 365 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý nhà nước về kinh tế cấp xã trên địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ề nông thôn gắn với du lịch còn ít, các làng nghề chưa gắn với tour du lịch
để tăng cường giới thiệu, tiêu thụ sản phẩm. Năng lực, kinh nghiệm quản lý
kinh doanh của các chủ hộ, chủ cơ sở sản xuất, trình độ kiến thức và tay nghề
của người lao động trong các làng nghề còn hạn chế. Trong bối cảnh hội nhập
quốc tế, đây thực sự là khó khăn lớn để có thể đáp ứng được những yêu cầu
tiêu chuẩn quốc tế. Hệ thống đường giao thông đến các làng nghề chưa được
đầu tư nâng cấp hoàn chỉnh, đặc biệt hệ thống thông tin liên lạc, quảng bá sản
phẩm chưa đáp ứng được nhu cầu.
Do đó, vấn đề đặt ra hiện nay là công tác quản lý nhà nước của Ủy ban
nhân dân xã phải có biện pháp thiết thực hơn nữa nhằm khắc phục những hạn
chế, thiếu sót nêu trên mà đặc biệt là chú trọng công tác tuyên truyền, vận
động người dân chuyển đổi mô hình sản xuất, giống cây trồng, vật nuôi theo
hướng hiệu quả hơn, phải định hướng rõ ràng và bằng các biện pháp hiệu quả,
thích hợp để đảm bảo quyền và lợi ích của người sản xuất và người tiêu dùng.
Ba là, quyết định, góp phần ra quyết định pháp lý hoạt động sản xuất
kinh doanh và giám sát mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn
Bảng 2.1. Cơ sở hoạt động kinh doanh trên địa bàn huyện
Tổng
số cơ
sở
Phân theo ngành
Phân theo tình trạng đăng ký
kinh doanh
Công
nghiệp
chế
biến,
chế
tạo
Xây
dựng
Vận
tải,
kho
bãi
Thương
mại,
dịch vụ
Đã có
giấy
chứng
nhận
đăng
ký KD
Đã
đăng ký
KD
nhưng
chưa
được
cấp
giấy
Chưa
có
giấy
chứng
nhận
đăng
ký KD
Khôn
g
phải
đăng
ký
KD
11.258 1.805 79 368 9.006 5.687 3.109 2.134 328
(Nguồn: Chi cục thống kê huyện Hòa Thành thống kê năm 2017)
40
Như vậy, trên địa bàn huyện có 11.258 cơ sở kinh doanh theo các
ngành công nghiệp, xây dựng, vận tải, kho bãi, thương mại, dịch vụ, trong đó
đã có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là 5.687 cơ sở (chiếm 50,51%)
tổng số cơ sở kinh doanh; chưa có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh 2.134
cơ sở (chiếm 18,95%); có cơ sở không phải đăng ký kinh doanh là 328 cơ sở
(chiếm 2,91%) và có 3.109 cơ sở đã đăng ký kinh doanh nhưng chưa được
cấp giấy chứng nhận (chiếm 27,61%). Các cơ sở này để được cấp giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh phải thông qua Ủy ban nhân dân xã xác nhận nhằm
hoàn chỉnh thủ tục trình lên cấp trên thực hiện các bước tiếp theo để được cấp
giấy và Ủy ban nhân dân xã sẽ lập sổ theo dõi, kiểm tra hoạt động kinh doanh
theo thẩm quyền.
Tuy nhiên thực tế hoạt động này diễn ra còn hạn chế, do Ủy ban nhân
dân cấp xã chưa thường xuyên kiểm tra hoạt động sản xuất kinh doanh của
các cơ sở đã đăng ký, chỉ thực hiện việc kiểm tra các cơ sở kinh doanh khi có
vấn đề về hoạt động. Thực tế, Ủy ban nhân dân xã khi xác nhận hồ sơ để được
cấp giấy chứng nhận, cán bộ xã không lập sổ theo dõi kiểm tra, mặt khác giữa
cấp xã và cấp huyện chưa có sự phối hợp chặt chẽ trong hoạt động này, do khi
các cơ sở được cấp phép kinh doanh huyện, tỉnh không gửi thông báo về cho
chính quyền địa phương để tiện việc quản lý. Bởi vì có những hồ sơ cấp giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh không phải xác nhận của Ủy ban nhân dân xã
nên cấp xã không thể nắm được thông tin về hoạt động của cơ sở đó, từ đó
gây nhiều khó khăn cho công tác quản lý của xã, chính vì vậy xét về khía
cạnh quản lý, thì hiệu quả quản lý trong lĩnh vực này chưa cao.
Bốn là, các biện pháp nhằm tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ
tầng nói chung và kết cấu hạ tầng phục vụ cho sản xuất, cuộc sống của
cộng đồng dân cư trong xã nói riêng
Kết cấu hạ tầng là điều kiện quan trọng cho kinh tế phát triển, nếu kết
cấu hạ tầng được trang bị hoàn chỉnh thì sẽ góp phần trực tiếp vào hiệu quả
phát triển kinh tế. Ủy ban nhân dân xã thực hiện việc đầu tư xây dựng kết cấu
41
hạ tầng thông qua việc làm đường giao thông nông thôn phục vụ trực tiếp cho
sản xuất, cụ thể trên địa bàn huyện và 08 xã, thị trấn đã thực hiện được 303
công trình, trong đó: 156 công trình giao thông; 117 công trình dân dụng; 27
công trình hạ tầng kỹ thuật; 03 công trình thủy lợi với tổng mức đầu tư là:
656.298.708.000 đồng; nâng cấp đá 0x4 được 39km, sửa chữa đường giao
thông nông thôn được 54km. Ngoài ra cấp huyện còn quan tâm đầu tư xây
dựng kết cấu hạ tầng như: điện, công trình thủy lợi, các công trình công cộng
để phục vụ cho nhu cầu sản xuất và đời sống của người dân theo tiêu chuẩn
nông thôn mới, nhằm mục tiêu hướng đến năm 2020 có 100% số xã đạt chuẩn
nông thôn mới.
Tuy nhiên, xét về mặt tổng thể theo yêu cầu của địa phương, các tuyến
đường giao thông, công trình công cộng hiện nay chỉ cơ bản đáp ứng nhu cầu,
chưa đạt yêu cầu đề ra. Cấp xã chưa có biện pháp hiệu quả, thiết thực nhằm
huy động nguồn lực từ các tổ chức, mạnh thường quân và Nhân dân đóng góp
cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng, xây dựng công trình phục vụ nhu cầu phát
triển kinh tế-xã hội, chỉ huy động các thành phần kinh tế, các tổ chức xã hội
đóng góp được 36% tổng giá trị công trình.
Việc làm đường giao thông nông thôn phục vụ nhu cầu vận chuyển và
đi lại của Nhân dân thời gian qua thường xuyên được quan tâm, tuy nhiên các
công trình chủ yếu là trải sỏi đó hoặc cứng hóa (trải đá dăm, đá 0x4), thực
hiện bê tông nhựa, bê tông xi măng đạt tỉ lệ thấp, chỉ 4,6km. Hiệu quả quản lý
các công trình này sau khi đưa vào sử dụng chưa cao, do không có đơn vị chủ
quản thực hiện quản lý, Ủy ban nhân dân xã chỉ đề ra các biện pháp kiểm tra,
đề xuất hướng giải quyết các công trình khi có vấn đề (duy tu, dặm vá, sửa
chữa); hơn nữa việc giám sát, kiểm tra xây dựng các công trình chủ yếu
giao cho các ấp thực hiện nên không có chuyên môn, kỹ thuật quản lý phù
hợp. Các xã trong huyện huy động sự tham gia đóng góp và vận động người
dân làm đường giao thông theo kế hoạch nhất định trừ xã nông thôn mới thực
hiện chỉ tiêu làm đường theo tiêu chí quy định (nhựa hóa 100% đường trục
42
xã; cứng hóa 100% đường trục ấp và cứng hóa 50% đường ngõ xóm), tuy
nhiên thực tế căn cứ kế hoạch thì mỗi năm chỉ thực hiện được từ 01 đến 02
tuyến đường để đạt so với chỉ tiêu nghị quyết, nếu đề ra kế hoạch quá cao sẽ
khó hoàn thành. Chính vì vậy hoạt động này cần có cơ chế cụ thể hơn để mỗi
xã có thể chủ động thực hiện theo nhu cầu của người dân và yêu cầu phát
triển kinh tế-xã hội của địa phương.
Năm là, các biện pháp nhằm khai thác tiềm năng phát triển kinh tế
trên địa bàn xã, từ sản xuất đến sản xuất, từ sản xuất đến tiêu dùng
Ủy ban nhân dân xã ngoài việc thực hiện các biện pháp hướng dẫn, tạo
điều kiện, khuyến khích, giúp đỡ các thành phần kinh tế trên địa bàn xã hoạt
động thường xuyên liên tục, cần tham gia vào các hoạt động kinh tế như:
trung gian giới thiệu, xác nhận, giúp đỡ nhà sản xuất đưa sản phẩm đến với
người tiêu dùng thông qua việc giới thiệu các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất
trình bày, quảng bá sản phẩm đến Nhân dân ở các khu dân cư, thôn, ấp, từ đó
làm cho các hoạt động kinh tế, trao đổi mua bán hàng hóa diễn ra thuận lợi,
nhanh chóng, góp phần tăng cường khả năng sản xuất và tiêu dùng của thị
trường. Hoạt động này thực tế trên địa bàn các xã vẫn còn khá mờ nhạt, chưa
phát huy hết vai trò là chủ thể quản lý các hoạt động sản xuất mặc dù phải
chịu sự chi phối và tác động của cơ chế kinh tế thị trường và nhu cầu của
người dân, chủ yếu nhiệm vụ của các xã là giới thiệu cho các doanh nghiệp,
cơ sở sản xuất tiếp cận người dân, nhưng lại chưa có cơ chế kiểm tra chất
lượng hàng hóa, sản phẩm, chưa có biện pháp chế tài phù hợp nếu các cơ sở
trên vi phạm quy định về đảm bảo chất lượng. Cho nên thực trạng hiện nay
còn hạn chế về khả năng liên kết với các nhà sản xuất các dòng sản phẩm tốt
và khả năng liên kết nhà sản xuất với người tiêu dùng sử dụng hàng hóa, sản
phẩm để đảm bảo cung cấp sản phẩm chất lượng cao nhất, tránh gây thiệt hại
cho người dân.
Sáu là, tổ chức và quản lý phát triển kinh tế trên địa bàn xã, chống
tham nhũng, lãng phí
43
Phát triển kinh tế công được các xã quan tâm thực hiện nhằm tạo nguồn
thu cho ngân sách, Ủy ban nhân dân xã đã thực hiện việc thu phí, lệ
phí,Việc cho thuê đất công với diện tích 49ha, hàng năm thu nộp ngân sách
2.136.215.360 đồng. Tuy nhiên việc phát triển kinh tế công ở các xã hiện nay
chưa phát huy được hết tiềm năng, nhiều nơi chưa khai thác hiệu quả các
nguồn thu, một số nơi còn quỹ đất công nhưng chưa có giải pháp tận thụ hết
công suất, các xã chưa chủ động khai thác hiệu quả các nguồn thu từ hoạt
động sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác để nộp vào ngân sách, nhằm
tăng nguồn thu cho ngân sách địa phương. Từ đó, có thể đánh giá công tác
quản lý chưa thật sự đạt hiệu quả cao, lãng phí tài nguyên, chưa vận dụng hết
tiềm năng vốn có.
2.2.1.2. Xây dựng quy hoạch và lập kế hoạch phát triển kinh tế phù
hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế của cấp trên nhằm huy
động mọi tiềm lực kinh tế trên địa bàn
Công tác xây dựng quy hoạch và lập kế hoạch phát triển kinh tế trên địa
bàn các xã huyện Hòa Thành được quan tâm thực hiện hàng năm và giai đoạn
05 năm. Riêng công tác lập quy hoạch các xã còn hạn chế trong quá trình thực
hiện. Hiệu quả của công tác lập quy hoạch thể hiện qua kết quả sản xuất của
các chủ thể kinh tế. Các xã phát triển kinh tế theo định hướng quy hoạch
chung của tỉnh, huyện và của xã, tuy nhiên do ảnh hưởng của cơ chế kinh tế
thị trường nên có những ngành nghề phát triển mạnh như: mây tre đan, se
nhang,cũng có ngành nghề dần bị mai một mà chính quyền cấp xã khó có
khả năng can thiệp được như nghề làm đũa, nghề chằm nón lá,
Công tác lập quy hoạch, kế hoạch nếu phù hợp sẽ khuyến khích kinh tế
phát triển năng động hơn, ngược lại nếu không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát
triển, lúc đó các ngành nghề sản xuất, kinh doanh sẽ tự phát theo nhu cầu của
thị trường, dẫn đến công tác quản lý của chính quyền địa phương gặp rất
nhiều khó khăn. Qua khảo sát thực tế, công tác lập quy hoạch phát triển kinh
tế của huyện có 5/8 xã, thị trấn phát triển ngành nghề không theo quy hoạch
44
mà chú trọng ngành nghề mới phát sinh theo nhu cầu của thị trường do quy
hoạch chưa dự báo được hết tình hình phát triển kinh tế của địa phương. Điều
này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: trình độ, năng lực của người lập quy
hoạch, tiềm năng kinh tế của từng địa phương,...
Như vậy công tác lập quy hoạch, kế hoạch để đạt hiệu quả phải chú
trọng tính khả thi, có như thế mới có thể huy động được hết tiềm năng phát
triển kinh tế của địa phương. Công tác quản lý sẽ gặp khó khăn khi cấp xã
định hướng phát triển kinh tế bằng quy hoạch, kế hoạch thiếu tính khả thi và
sẽ không huy động được hết tiềm năng kinh tế của địa phương. Việc quản lý
quy hoạch không phân định nhiệm vụ cụ thể, không có phương pháp quản lý
thích hợp sẽ dễ dẫn đến thực trạng là phát triển kinh tế không theo quy hoạch
do không có biện pháp hiệu quả để tạo điều kiện cho ngành, nghề sản xuất
kinh doanh phát triển.
2.2.1.3 Lập dự toán thu, chi ngân sách nhà nƣớc trên địa bàn và
phƣơng án phân bổ dự toán ngân sách
Việc điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương (trong trường hợp cần
thiết) và lập quyết toán ngân sách địa phương phải trình ra Hội đồng nhân dân
cùng cấp quyết định, báo cáo Ủy ban nhân dân, cơ quan tài chính cấp trên
trực tiếp. Ủy ban nhân dân xã có trách nhiệm tổ chức thực hiện ngân sách địa
phương, phối hợp với các cơ quan nhà nước cấp trên trong việc quản lý ngân
sách trên địa bàn. Hàng năm các xã trên địa bàn huyện Hòa Thành thực hiện
công tác lập dự toán thu, chi ngân sách địa phương theo đúng Luật Ngân sách
nhà nước. Trên cơ sở chỉ tiêu thu ngân sách, thu thuế huyện giao trong năm,
các xã, thị trấn thực hiện công tác lập dự toán thu, chi đưa ra lấy ý kiến tập thể
cán bộ, công chức trước khi thông qua tại kỳ họp Hội đồng nhân dân vào cuối
năm trước đó. Tuy nhiên trong quá trình quản lý ngân sách nếu có phát sinh
nhiệm vụ chi mà nguồn thu không đảm bảo, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã sẽ
điều chỉnh dự toán chi phù hợp và thông báo đến cán bộ, công chức biết đồng
thời báo cáo cho Hội đồng nhân dân tại kỳ họp gần nhất.
45
Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã chịu trách nhiệm điều hành, quản lý ngân
sách hiệu quả, đảm bảo chi đúng, chi đủ đồng thời tính toán tận dụng các
nguồn thu nhằm cân đối ngân sách theo quy định; giao trách nhiệm cho công
chức tài chính-kế toán xã trực tiếp tham mưu giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân
theo dõi, giám sát hoạt động thu, chi nếu có khó khăn, vướng mắc phải báo
cáo và đề xuất biện pháp xử lý kịp thời. Công chức tài chính-kế toán thực
hiện quyết toán ngân sách với cơ quan tài chính cấp trên theo hướng dẫn quy
định tại Luật Ngân sách Nhà nước, sau đó trình ra Hội đồng nhân dân cùng
cấp phê duyệt quyết toán vào thời gian kỳ họp 6 tháng của năm sau.
Tuy nhiên hoạt động quản lý ngân sách ở cấp xã thực tế gặp không ít
khó khăn như: huyện giao chỉ tiêu thu ngân sách cho các xã, thị trấn trên cơ
sở đã dự toán trước sẽ thu từ nguồn nào và thu bao nhiêu, nhưng thực tế có
nhiều xã nguồn thu giao không đảm bảo thực hiện khả thi do không có địa chỉ
như: thu từ nguồn thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, thu khác ngân sách từ
nguồn xử phạt vi phạm hành chính, do đó trong quá trình thực hiện rất dễ dẫn
đến nguồn thu không đảm bảo. Trong năm 2017, do tình hình thu ngân sách
gặp rất nhiều khó khăn, một số nguồn thu bị hụt, có 4/8 xã, thị trấn phải điều
chỉnh dự toán chi, đề nghị huyện bổ sung nguồn thu nhằm đảm bảo cân đối
ngân sách.
2.2.1.4. Đề ra các biện pháp nhằm đƣa tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống của Nhân dân ở địa
phƣơng
Việc đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào hoạt động sản xuất trên địa bàn
Hòa Thành thời gian qua đạt được những kết quả thiết thực, góp phần nâng
cao hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập cho người dân. Từng địa phương đã thực
hiện chuyển giao, giới thiệu các thành tựu khoa học kỹ thuật mới thông qua
các lớp đào tạo nghề cho lao động nông thôn, trong 03 năm qua huyện đã tổ
chức được 36 lớp đào tạo nghề với 1.110 học viên tham dự, tập trung các
ngành nghề như: kỹ thuật chăn nuôi bò sinh sản, lớp kỹ thuật đan mây tre, lớp
46
thợ hồ thợ nề, lớp dạy nấu ăn, kỹ thuật trồng rau an toàn,Ủy ban nhân dân
các xã, thị trấn đã phối hợp với các phòng, ban chuyên môn của huyện mở
1.155 lớp tập huấn phổ biến một số điểm mới đối với các văn bản luật mới
được ban hành với 49.767 người dân tham gia. Kết quả cho thấy, các học viên
tham gia các lớp đạo tạo nghề đã ứng dụng có hiệu quả các tiến bộ vào hoạt
động sản xuất, mang lại năng suất cao, nhất là nghề dạy nấu ăn, kỹ thuật đan
mây tre và trồng rau an toàn.
Hiện tại trên địa bàn huyện có 85.213 lao động sản xuất nông nghiệp,
trong đó có 18.365 người được chuyển giao các tiến bộ về khoa học kỹ thuật,
chiếm 21,55% là quá ít. Đồng thời thiếu cơ chế tổ chức, hướng dẫn phù hợp
nên khi được chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật trong quá trình sản xuất, người
dân chưa áp dụng hiệu quả dẫn đến năng suất, chất lượng chưa cao. Nguồn
kinh phí cho hoạt động tổ chức các lớp đào tạo nghề chuyển giao tiến bộ kỹ
thuật chưa được bố trí hợp lý để có thể kích thích thực hiện một cách hiệu
quả; chưa có cơ chế quy trách nhiệm cụ thể cho các tổ chức, cá nhân thực
hiện nhiệm vụ này. Việc thực hiện liên kết “4 nhà” chưa thật sự hợp lý nhằm
hỗ trợ người nông dân phát triển kinh tế, tình trạng được mùa mất giá, được
giá mất mùa vẫn còn phổ biến ở các địa phương mà chưa thật sự có biện pháp
giải quyết căn cơ, triệt để.
2.2.1.5. Kiểm tra, giám sát việc chấp hành chính sách pháp luật của
Nhà nƣớc về kinh tế
Kiểm tra, giám sát là việc làm bắt buộc và thường xuyên trong hoạt
động quản lý, điều hành; công tác lãnh đạo, chỉ đạo phải gắn liền với hoạt
động kiểm tra, giám sát nhằm mục tiêu phát hiện và kịp thời chỉ ra những hạn
chế, thiếu sót từ đó đề ra các giải pháp khắc phục. Hoạt động kiểm tra, giám
sát được thực hiện bởi những cơ quan, đối tượng khác nhau với những nội
dung và góc độ cũng khác nhau, để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về
kinh tế.
47
Kiểm tra có thể được tổ chức thành đoàn để tiếp cận cơ sở thực hiện
hoặc cũng có thể giao cho từng cá nhân riêng lẽ thực hiện về một nội dung
nào đó do Ủy ban nhân dân huyện phân công. Thực hiện có hiệu quả nội dung
này cấp dưới sẽ quan tâm chú ý hơn, có ý thức tốt hơn về vị trí, vai trò, chức
năng, trách nhiệm của mình trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, từ
đó sẽ chủ động hơn trong thực hiện nhiệm vụ. Hoạt động thanh tra do Ủy ban
nhân dân huyện giao cho cơ quan thanh tra huyện thực hiện nội dung chủ yếu
là thanh tra hoạt động quản lý hành chính nhà nước nói chung và quản lý nhà
nước về kinh tế nói riêng.
Cơ chế để người dân có thể tham gia vào hoạt động quản lý hành chính
nhà nước đó là: Ủy ban nhân dân xã tiếp thu, ghi nhận các ý kiến, kiến nghị
của người dân về những hạn chế, thiếu sót trong quá trình quản lý. Từ đó, Ủy
ban nhân dân xã tiến hành điều chỉnh hoạt động quản lý của mình được tốt
hơn và phản hồi, phúc đáp lại cho Nhân dân biết kết quả khắc phục, qua đó
giúp chính quyền địa phương thực hiện công tác quản lý nhà nước trên các
lĩnh vực nói chung và lĩnh vực kinh tế nói riêng được chặt chẽ hơn.
2.2.1.6. Đề ra các biện pháp nhằm thực hiện có hiệu quả các quy
định của pháp luật về tiêu chuẩn đo lƣờng chất lƣợng, chống hàng gian,
hàng giả, hàng kém chất lƣợng, bảo vệ lợi ích của ngƣời tiêu dùng
Trong giai đoạn hiện nay, trên thị trường đã và đang tồn tại một thực tế
là hàng thật, hàng giả, hàng kém chất lượng lẫn lộn với nhau nhất là ở vùng
nông thôn tình trạng này lại càng trở nên phổ biến hơn; hàng giả, hàng kém
chất lượng được tung ra thị trường với nhiều chiêu trò khuyến mãi hấp dẫn
nhằm thu hút người tiêu dùng. Điều này sẽ rất có hại nếu mua phải và ảnh
hưởng không tốt cho các loại hàng hóa thật, bởi sẽ liên quan đến uy tín
thương hiệu trên thị trường, ví dụ: trứng gà giả, sữa giả, phân bón giả,nếu
người tiêu dùng sử dụng với số lượng nhiều sẽ gây ảnh hưởng đến sức khỏe,
thiệt hại nặng nề cho nền kinh tế. Chính vì vậy phải thường xuyên chú trọng
đến hoạt động kiểm tra, giám sát để đảm bảo sự ổn định và trong sạch của thị
48
trường, hiện tại theo quy định có 05 cơ quan thực hiện chức năng và có thẩm
quyền xử lý vi phạm hành chính liên quan đến lĩnh vực này bao gồm: cơ quan
quản lý thị trường; thanh tra chuyên ngành khoa học – công nghệ; văn hóa,
thể thao và du lịch; công an kinh tế; Ủy ban nhân dân các cấp, trong đó Ủy
ban nhân dân cấp xã chưa có lực lượng để có thể thực hiện được chức năng
này theo quy định của pháp luật, chủ yếu do Phòng Kinh tế-Hạ tầng của
huyện, cơ quan quản lý thị trường và công an kinh tế thực hiện.
Trong 03 năm 2014-2016, Phòng Kinh tế-Hạ tầng của huyện đã phối
hợp với Đội Quản lý thị trường số 3 kiểm tra 84 vụ. Qua kiểm tra phát hiện 27
vụ vi phạm, trong đó: vi phạm về lĩnh vực hàng cấm 18 vụ; vi phạm về nguồn
gốc, xuất xứ 06 vụ; vi phạm khác 03 vụ (sử dụng LPG mini không được phép
nạp lại). Phạt vi phạm hành chính 27 vụ với số tiền 295.500.000 đồng (Trong
đó: tiền phạt hành chính 85.500.000 đồng, tiền bán hàng tịch thu: 210.000.000
đồng). Công tác kiểm tra thị trường theo Kế hoạch của Ban chỉ đạo 389
huyện: đã kiểm tra 222 hộ kinh doanh, phát hiện nhắc nhở 21 hộ kinh doanh
không niêm yết giá trên các sản phẩm; 03 vụ kinh doanh không có giấy phép
đăng ký. Bắt 09 vụ (trong đó 06 vụ kinh doanh hàng giả, 03 vụ kinh doanh
hàng cấm). Tạm giữ tang vật 23 kg bột ngọt giả bao bì Ajinomoto; 29 gói
hero; 30 gói Jet. Ra quyết định xử phạt với số tiền 11.700.000 đồng.
Hiện nay khó khăn nhất đối với chính quyền cấp xã trong thực hiện
chức năng kiểm tra hàng giả, hàng kém chất lượng là chưa có đủ thẩm quyền,
năng lực, trình độ chuyên môn và chưa được trang bị phương tiện kỹ thuật để
đánh giá đúng chất lượng hàng hóa; chưa có sự phối hợp tốt giữa cơ quan
quản lý thị trường và chính quyền trong việc thực hiện chức năng kiểm tra, xử
phạt vi phạm về lĩnh vực này. Mặt khác, ở cấp xã không có cán bộ chuyên
trách về thực hiện công tác quản lý thị trường, tạm thời giao cho công an xã
liên kết với một số ban ngành, các đoàn thể đảm nhiệm việc này, trong khi đó
chức năng của công an xã là đảm bảo trật tự an toàn xã hội là chính.
49
Cấp xã chưa chủ động trong việc kiểm tra xử phạt chỉ khi nào có sự chỉ
đạo từ cấp trên hoặc hàng hóa đó có thông tin làm giả thì mới tiến hành kiểm
tra nhắc nhỡ, còn xử phạt rất hạn chế bởi theo quy định của pháp luật, để xử
lý được hàng giả thì bắt buộc phải có giám định kết luận hàng giả, chi phí
thực hiện việc giám định là khá cao, đồng thời phải có yêu cầu giám định của
chủ thương hiệu sản phẩm được làm giả. Mặt khác, có những hàng hóa có
nguồn gốc từ các nước không đăng ký chất lượng tại Việt Nam, hàng hóa
không có ai xác nhận là hàng giả vì không có cơ quan đại diện của nhà sản
xuất tại Việt Nam.
2.2.2. Đánh giá về hiệu quả quản lý nhà nƣớc về kinh tế cấp xã trên
địa bàn huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh
2.2.2.1. Đánh giá hiệu quả tiêu chí 1 về trình độ và năng lực thực
hiện nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nƣớc của đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã trên địa bàn huyện
Ủy ban nhân dân xã là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân ở địa
phương, do Hội đồng nhân dân trực tiếp bầu ra và thực hiện nhiệm vụ trong
nhiệm kỳ 05 năm, Ủy ban nhân dân xã hoạt động trên nguyên tắc tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách từng lĩnh vực công việc cụ thể. Do đó thực hiện chức
năng quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực nói chung, lĩnh vực kinh
tế nói riêng có hiệu quả hay không phụ thuộc vào cách thức tổ chức và quá
trình thực thi nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân, đồng thời phụ thuộc rất lớn vào
khả năng, năng lực của từng nhân sự đảm trách công việc đó.
Về số lượng, cơ cấu nhân sự thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên
các lĩnh vực nói chung, lĩnh vực kinh tế nói riêng ở cấp xã thì có Chủ tịch Ủy
ban nhân dân và Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân phụ trách lĩnh vực kinh tế,
giúp việc cho Chủ tịch và Phó Chủ tịch có các công chức như sau: trưởng
công an, xã đội trưởng, công chức tài chính-kế toán, công chức văn phòng-
thống kê, công chức địa chính – nông nghiệp - xây dựng và môi trường, công
50
chức tư pháp-hộ tịch và một số người hoạt động không chuyên trách như cán
bộ cán bộ giao thông – nông thôn – thủy lợi, cán bộ thuế,...
Nguồn nhân lực của Ủy ban nhân dân cấp xã theo quy định của tỉnh
Tây Ninh tại Quyết định số 66/2013/QĐ-UBND, ngày 25 tháng 12 năm 2013
quy định “về chức danh, bố trí các chức danh và chế độ, chính sách đối với
những người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn và ấp, khu
phố trên địa bàn tỉnh Tây Ninh”. Hiện tại huyện Hòa Thành có 08 xã, thị trấn
trong đó biên chế cấp xã là 25 biên chế, riêng Ủy ban nhân dân xã gồm có
Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân và 07 chức danh công chức gồm:
trưởng công an, chỉ huy trưởng quân sự, văn hóa-xã hội, tư pháp-hộ tịch, địa
chính-nông nghiệp-xây dựng và môi trường, văn phòng-thống kê, tài chính-kế
toán. Ngoài ra để tham mưu cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân thực hiện chức
năng quản lý nhà nước còn có các chức danh hoạt động không chuyên trách
gồm: cán bộ giao thông – nông thôn – thủy lợi, cán bộ văn thư – lưu trữ - thủ
quỹ, cán bộ đội thuế, cán bộ đài truyền thanh, cán bộ nhà văn hóa,Tổ chức
bộ máy của Ủy ban nhân dân xã thể hiện qua số lượng thành viên Ủy ban
nhân dân, đội ngũ cán bộ, công chức và đội ngũ cán bộ không chuyên trách
trực tiếp thực hiện hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế, chất lượng của đội
ngũ này và sự phân công nhiệm vụ thực hiện chức năng quản lý hành chính
nhà nước nói chung, quản lý hành chính nhà nước trên lĩnh vực kinh tế nói
riêng, bao gồm:
Số lượng cán bộ, công chức: 193.
Cán bộ chuyên trách cấp xã trên địa bàn huyện: 90.
Công chức cấp xã trên địa bàn huyện: 103.
Về số lượng cán bộ, công chức: thể hiện qua trình độ văn hóa, trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị và quản lý nhà nước, qua số liệu
thống kê tại thời điểm ngày 01 tháng 12 năm 2016 của Phòng Nội vụ huyện
Hòa Thành, cụ thể như sau:
51
Bảng 2.2. Về trình độ văn hóa của đội ngũ cán bộ, công chức xã
Trình độ
Cán bộ chuyên trách Công chức
Số người Tỉ lệ % Số người Tỉ lệ %
Tiểu học 0 0 0 0
Trung học cơ sở 3 3,33 1 0,97
Trung học phổ thông 87 96,67 102 99,03
(Nguồn: tổng hợp từ Phòng Nội vụ huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh)
Qua kết quả được nêu trong Bảng 2.2 cho thấy, trình độ văn hóa của
đội ngũ cán bộ, công chức các xã, thị trấn trên địa bàn huyện Hòa Thành đã
cơ bản đạt chuẩn theo quy định, chỉ còn 04 trường hợp không đạt chuẩn theo
yêu cầu (tốt nghiệp trung học cơ sở) cần phải tham gia các lớp bổ túc để tốt
nghiệp trung học phổ thông theo chuẩn quy định đối với cán bộ, công chức
cấp xã.
Bảng 2.3. Về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cá
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_kinh_te_cap_xa_tren_dia_ban_huy.pdf