MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VỀ QUẢN LÝ, SỬ DỤNG VỐN NHÀ NƯỚC TẠI DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC 6
1.1 Khái quát chung về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước
6
1.2 Pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà
nước 16
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ QUẢN LÝ, SỬ DỤNG VỐN NHÀ NƯỚC TẠI DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM 27
2.1Thực trạng pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh
nghiệp nhà nước ở Việt Nam 27
2.2 Thực trạng thực hiện pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại
doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 40
CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ SỬ DỤNG VỐN NHÀ NƯỚC TẠI DOANH
NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM 57
3.1 Phương hướng hoàn thiện pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước
tại doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 57
3.2 Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà
nước tại doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 59
KẾT LUẬN 72
84 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 17/03/2022 | Lượt xem: 474 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước theo pháp luật Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đúng mục đích, có hiệu quả Trường hợp doanh nghiệp sử dụng vốn huy động
không đúng mục đích, huy động vốn vượt mức quy định nhưng không được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền phê duyệt, cơ quan đại diện chủ sở hữu xem xét, quyết định hoặc
báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý trách nhiệm của Hội đồng thành viên
hoặc Chủ tịch công ty theo quy định của pháp luật.
Doanh nghiệp phải xây dựng, ban hành, thực hiện quy chế quản lý nợ phải thu
phải trả. Quy chế quản lý nợ phải quy định trách nhiệm của tập thể, cá nhân trong việc
theo dõi, thu hồi nợ; đối chiếu, xác nhận, thanh toán nợ; Theo dõi nợ phải thu, phải trả
theo từng đối tượng nợ, phân loại nợ; xây dựng kế hoạch thanh toán nợ, cân đối dòng
tiền bảo đảm thanh toán nợ; thanh toán các khoản nợ theo đúng thời hạn đã cam kết.
Trường hợp quản lý nợ dẫn đến thất thoát vốn chủ sở hữu hoặc bán nợ dẫn đến doanh
nghiệp bị thua lỗ, mất vốn, mất khả năng thanh toán, giải thể, phá sản, hoặc phát sinh nợ
phải trả quá hạn, nợ không có khả năng thanh toán Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch
công ty, người có liên quan phải bồi thường thiệt hại và tùy theo tính chất, mức độ vi
phạm mà bị xử lý theo quy định của pháp luật và điều lệ của doanh nghiệp.
35
Về đầu tư, mua sắm, quản lý, sử dụng tài sản cố định
Luật số 69/2014/QH13 quy định rõ thẩm quyền quyết định dự án đầu tư, xây
dựng, mua, bán tài sản cố định của doanh nghiệp, tùy vào giá trị đầu tư so với vốn chủ
sở hữu của doanh nghiệp Hội đồng thành viên/Chủ tịch công ty được quyết định hoặc
báo cáo cơ quan đại diện chủ sở hữu xem xét, phê duyệt. Nghị định 91/2015/NĐ-CP
cũng nêu các quy định mang tính định hướng trong việc DNNN đi thuê tài sản; cho thuê,
thế chấp, cầm cố tài sản; Thanh lý, nhượng bán tài sản cố định với các nội dung về thẩm
quyền quyết định, trình tự thực hiện
Để quản lý, sử dụng tài sản cố định hiệu quả, Nghị định 91/2015/NĐ-CP cũng
quy định doanh nghiệp phải xây dựng, ban hành, thực hiện quy chế quản lý, sử dụng tài
sản cố định. Tùy theo yêu cầu quản lý đối với từng loại tài sản cố định, quy chế quản lý
tài sản cố định của doanh nghiệp ban hành phải quy định rõ việc phối hợp giữa các bộ
phận và trách nhiệm của từng bộ phận, cá nhân có liên quan trong việc theo dõi, quản lý
sử dụng tài sản của doanh nghiệp.
Theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp và pháp luật về đất đai thì DNNN
(doanh nghiệp mà nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ) là một loại hình tổ chức kinh tế
có quyền được lựa chọn và được nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất để sử dụng vào
mục đích sản xuất kinh doanh; doanh nghiệp phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy
định và thực hiện quản lý, sử dụng đất theo đúng mục đích sử dụng đất được giao, được
cho thuê. Doanh nghiệp được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và có
quyền chuyển nhượng, cho thuê hoặc góp vốn liên doanh theo quy định. Trường hợp
doanh nghiệp không chấp hành đúng quy định về quản lý, sử dụng đất thì phải bị xử phạt
hành chính hoặc bị Nhà nước thu hồi đất.
Về đầu tư ra ngoài doanh nghiệp
Việc đầu tư vốn ra ngoài doanh nghiệp được thực hiện dưới nhiều hình thức như:
Góp vốn để thành lập công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn; góp vốn thông qua
hợp đồng hợp tác kinh doanh không hình thành pháp nhân mới; Mua cổ phần tại công ty
36
cổ phần, mua phần vốn góp tại công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh; Mua
toàn bộ doanh nghiệp khác Cũng như đầu tư tài sản cố định, việc đầu tư ra ngoài doanh
nghiệp cũng phải tuân thủ các quy định của pháp luật và phù hợp với chiến lược, kế
hoạch đầu tư phát triển 05 năm và kế hoạch sản xuất, kinh doanh hằng năm của doanh
nghiệp. Chính phủ cũng quy định các trường hợp bị cấm đầu tư ra ngoài doanh nghiệp
nhằm hạn chế các rủi ro về lạm dụng quyền hạn chức vụ như không được đầu tư vào các
đơn vị có quan hệ với lãnh đạo doanh nghiệp, không được góp vốn cùng công ty con để
thành lập công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thực hiện hợp đồng hợp
tác kinh doanh. Thẩm quyền quyết định đầu tư ra ngoài doanh nghiệp cũng tương tự
thẩm quyền quyết định đầu tư tài sản cố định của doanh nghiệp.
Điều 30 Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại
doanh nghiệp quy định trách nhiệm của DNNN trong việc quản lý tài chính đối với công
ty con do doanh nghiệp nắm giữ 100% vốn điều lệ và quản lý phần vốn góp của doanh
nghiệp tại công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên: ban hành
quy chế tài chính của công ty con, hạch toán theo dõi khoản đầu tư ra ngoài doanh nghiệp,
cử người đại diện phần vốn của doanh nghiệp tại đơn vị khác Đối với cổ tức và lợi
nhuận được chia cho phần vốn nhà nước tại các công ty cổ phần do các Bộ, ngành, địa
phương làm đại diện chủ sở hữu và phần lợi nhuận còn lại của DNNN sau khi trích lập
các quỹ theo quy định của pháp luật, trước đây doanh nghiệp thực hiện nộp về Quỹ Hỗ
trợ sắp xếp và phát triển doanh nghiệp để nộp vào Ngân sách nhà nước theo quy định.
Tuy nhiên, từ năm 2016 trở đi, căn cứ quy định tại Luật số 69/2014/QH13, Nghị định số
91/2015/NĐ-CP và hướng dẫn tại Thông tư số 61/2016/TT-BTC ngày 11/4/2016 của Bộ
Tài chính, phần cổ tức, lợi nhuận được chia cho phần vốn nhà nước của các công ty cổ
phần có vốn góp của nhà nước do bộ, ngành, địa phương đại diện chủ sở hữu và phần lợi
nhuận còn lại sau khi trích lập các quỹ của DNNN thực hiện nộp thẳng về Ngân sách
nhà nước theo quy định.
37
Chuyển nhượng vốn đầu tư của DNNN tại các công ty cổ phần, công ty liên doanh
đã từng được nhiều sự quan tâm của dư luận do nghi ngại về tính minh bạch, khả
năng tham nhũng lớn của hoạt động này. Để hạn chế, bên cạnh quy định điều chỉnh hoạt
động bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp, các văn bản pháp luật cũng quy định khá cụ thể
các nội dung liên quan đến chuyển nhượng vốn đầu tư. Về nguyên tắc, việc chuyển
nhượng vốn đầu tư ra ngoài doanh nghiệp phải gắn với phương án cơ cấu lại doanh
nghiệp; bảo đảm theo nguyên tắc thị trường, công khai, minh bạch, bảo toàn vốn đầu tư
ra ngoài của DNNN ở mức cao nhất, hạn chế tối đa tổn thất đầu tư trong chuyển nhượng
vốn. Phương thức chuyển nhượng vốn đầu tư cũng được quy định cụ thể là giao dịch
trên thị trường chứng khoán nếu đã niêm yết, nếu chưa niêm yết hoặc chưa đăng ký giao
dịch trên thị trường chứng khoán thì thực hiện đấu giá công khai, trường hợp đấu giá
công khai không thành công thì thực hiện chào bán cạnh tranh, trường hợp chào bán
cạnh tranh không thành công thì thực hiện theo phương thức thỏa thuận. Việc quy định
cụ thể phương thức bán theo từng bước nhằm hạn chế trường hợp doanh nghiệp cố tình
che dấu thông tin chào bán, để cuối cùng chuyển nhượng cho các đối tác của mình. Việc
xác định giá khởi điểm cũng được quy định rõ trên nguyên tắc Phản ánh đầy đủ giá trị
thực tế doanh nghiệp, bao gồm cả giá trị quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật
về đất đai. Về thẩm quyền thì Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty quyết định
chuyển nhượng vốn đầu tư của doanh nghiệp tại công ty cổ phần, công ty trách nhiệm
hữu hạn sau khi cơ quan đại diện chủ sở hữu quyết định chủ trương; Trường hợp giá trị
chuyển nhượng thấp hơn giá trị ghi trên sổ sách kế toán của doanh nghiệp sau khi đã bù
trừ dự phòng tổn thất vốn đầu tư thì Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty báo cáo
cơ quan đại diện chủ sở hữu xem xét, quyết định.
Về việc ban hành quy chế quản lý nội bộ của doanh nghiệp:
Nhằm quy chuẩn hóa hoạt động của doanh nghiệp, xác định rõ quyền hạn trách
nhiệm của các đối tượng trong doanh nghiệp, hạn chế tình trạng tùy tiện quản lý, điều
hành, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, các văn bản pháp luật đã quy định
38
về việc ban hành quy chế quản lý nội bộ của doanh nghiệp. Cụ thể: Điều 43 Luật số
69/2014/QH13 quy định Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty quyết định về: Quy
chế quản lý nội bộ của doanh nghiệp; Tiền lương, thù lao, tiền thưởng và quyền lợi khác
đối với Tổng giám đốc hoặc Giám đốc, các chức danh khác do Hội đồng thành viên bổ
nhiệm; bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật, tiền lương, thù lao,
tiền thưởng và các quyền lợi khác đối với Phó Tổng giám đốc hoặc Phó Giám đốc; Điều
32 Nghị định số 91/2015/NĐ-CP quy định DNNN phải xây dựng, ban hành Quy chế
quản lý sử dụng các quỹ theo quy định của pháp luật để áp dụng trong nội bộ doanh
nghiệp.
Về việc thực hiện chế độ tiền lương, thù lao, tiền thưởng, phụ cấp trách nhiệm và
quyền lợi khác đối với người lao động, người quản lý doanh nghiệp, kiểm soát viên,
người đại diện vốn nhà nước tại doanh nghiệp
Từ năm 2016 đến nay, Chính phủ đã ban hành 03 Nghị định (Nghị định số
51/2016/NĐ-CP ngày 13/06/2016 quy định quản lý lao động, tiền lương và tiền thưởng
đối với người lao động làm việc trong công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do
Nhà nước nắm giữ 100% vốn Điều lệ; Nghị định số 52/2016/NĐ-CP ngày 13/6/2016
quy định tiền lương, thù lao, tiền thưởng đối với người quản lý công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ; và Nghị định số
53/2016/NĐ-CP ngày 13/06/2016 quy định về lao động, tiền lương, thù lao, tiền thưởng
đối với công ty có cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước) để hướng dẫn về chế độ tiền
lương, thù lao, tiền thưởng, phụ cấp trách nhiệm và quyền lợi khác đối với người lao
động, người quản lý doanh nghiệp, kiểm soát viên, người đại diện phần vốn nhà nước tại
doanh nghiệp.
Đối với DNNN thì Nhà nước quy định Doanh nghiệp được tự chủ tuyển dụng, sử
dụng lao động theo quy định của pháp luật lao động, quy định rõ trách nhiệm rà soát, sắp
xếp lại mô hình, tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn và hợp lý, xác định vị trí, chức
danh công việc; thẩm quyền, trách nhiệm trong tuyển dụng, sử dụng lao động. Tiền lương
39
của người lao động gắn với năng suất lao động và hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Phương
thức xác định quỹ tiền lương thực hiện chuyển từ chỉ dựa vào thực hiện năm trước sang
căn cứ thực hiện năm trước và kế hoạch trong năm. Tiền lương, thu nhập của người lao
động ổn định và nâng cao, bước đầu gắn với năng suất lao động, hiệu quả kinh doanh
theo xu hướng chung năng suất lao động, hiệu quả sản xuất tăng thì tiền lương, thu nhập
tăng và ngược lại. Đời sống của người lao động được cả thiện rõ rệt, quan hệ lao động
hài hòa, rất ít xảy ra tranh chấp lao động. Tiền lương của người quản lý được gắn với
quy mô, độ phức tạp của quản lý (hạng doanh nghiệp) tương ứng với mức lương cơ bản
(tối đa của chủ tịch tập đoàn kinh tế là 36 triệu đồng/tháng) và hệ số điều chỉnh tăng
thêm gắn với hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với công ty có cổ phần, vốn góp chi phối của nhà nước, Nhà nước quy định
nguyên tắc, khung tiền lương, tiền thưởng tối đa gắn với năng suất lao động và hiệu quả
sản xuất kinh doanh để người đại diện vốn của nhà nước tham gia, biểu quyết trong hội
đồng quản trị, đại hội đồng cổ đông (không can thiệp trực tiếp vào hoạt động của công
ty), trong đó: Tiền lương kế hoạch của người quản lý được xác định gắn với bảo toàn và
phát triển vốn, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với nhà nước, với cổ đông (trả cổ tức), với
người lao động (tiền lương, bảo hiểm) và lợi nhuận kế hoạch và mức thực hiện vượt kế
hoạch về lợi nhuận.
2.1.4 Các quy định về kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động quản lý, sử dụng
vốn nhà nước tại doanh nghiệp
Quản lý và giám sát việc sử dụng vốn nhà nước tại các DNNN là một việc làm
cần thiết nhằm đánh giá đúng thực trạng hoạt động của doanh nghiệp, kịp thời phát hiện
các yếu kém trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp để có biện pháp
chấn chỉnh kịp thời. Trong thời gian qua hệ thống cơ chế, chính sách quản lý, giám sát
vốn nhà nước tại DNNN đã được Chính phủ, Bộ Tài chính ban hành đồng bộ, liên tục
sửa đổi hoàn chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Đặc biệt trong bối cảnh nước ta
40
đang đẩy mạnh tái cơ cấu DNNN thì công tác quản lý, sử dụng và nâng cao hiệu quả đầu
tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp càng trở nên cấp thiết.
Hiện nay, quy định về giám sát và đánh giá hiệu quả hoạt động của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư của nhà nước được quy định tại các văn bản như: Luật Quản lý, sử
dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp 2014; Nghị định
số 61/2013/NĐ-CP ngày 25/6/2013 ban hành Quy chế giám sát tài chính và đánh giá
hiệu quả hoạt động và công khai thông tin tài chính đối với doanh nghiệp do nhà nước
làm chủ sở hữu và doanh nghiệp có vốn nhà nước; Nghị định 115/2014/NĐ-CP quy định
chế độ giám sát, kiểm tra việc thực hiện chiến lược, kế hoạch, mục tiêu, nhiệm vụ được
giao của DNNN; Nghị định 49/2014/NĐ-CP về giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với
DNNN trong việc chấp hành pháp luật và tuân thủ quyết định của chủ sở hữu; Nghị định
87/2015/NĐ-CP về giám sát đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp; giám sát tài chính,
đánh giá hiệu quả hoạt động và công khai thông tin tài chính của DNNN và doanh nghiệp
có vốn nhà nước; Quyết định 36/2014/QĐ-TTg về Quy chế công bố thông tin hoạt động
của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do nhà nước làm chủ sở hữu; Thông tư
158/2013/TT-BTC hướng dẫn về giám sát tài chính và đánh giá hiệu quả hoạt động đối
với doanh nghiệp do nhà nước làm chủ sở hữu và doanh nghiệp có vốn nhà nước; Thông
tư 171/2013/TT-BTC hướng dẫn công khai thông tin tài chính...
Về cơ bản các quy định của pháp luật đã điều chỉnh các nội dung cần kiểm tra
giám sát, cách thức thực hiện cũng như trách nhiệm thực hiện. Về nội dung, cơ bản các
nội dung về quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại DNNN đều thuộc nội dung cần kiểm tra
giám sát: Việc huy động và sử dụng vốn huy động, quản lý nợ phải thu, nợ phải trả, việc
thực hiện dự án đầu tư, xây dựng, mua, bán tài sản cố định, bảo toàn, phát triển vốn của
doanh nghiệp, hoạt động đầu tư ra ngoài doanh nghiệp, việc ban hành quy chế quản lý
nội bộ của doanh nghiệp Chủ thể kiểm tra giám sát được pháp luật điều chỉnh gồm cả
Quốc hội, Chính phủ, cơ quan đại diện chủ sở hữu và cả chính doanh nghiêp. Văn bản
pháp luật cũng quy định cụ thể quy định về công khai thông tin của doanh nghiệp, đảm
41
bảo việc kiểm tra giám sát hoạt động quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại DNNN được
thực hiện rộng khắp, kể cả nhân dân.
Về hệ thống tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của các DNNN
Về hệ thống tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của các DNNN được Chính phủ
ban hành tại Nghị định số 87/2015/NĐ-CP ngày 06/10/2015 (thay thế Nghị định số
61/2013/NĐ-CP ngày 25/6/2013), theo đó: việc đánh giá hiệu quả xếp loại doanh nghiệp
dựa vào 05 tiêu chí quy định tại Điều 28 Nghị định số 87/2015/NĐ-CP ngày 06/10/2015
(Doanh thu; Lợi nhuận sau thuế; tỷ suất lợi nhuận sau thuế/ vốn chủ sở hữu; Nợ phải trả
quá hạn, khả năng thanh toán nợ đến hạn; Chấp hành chính sách pháp luật; Tình hình
thực hiện sản phẩm dịch vụ công ích). Việc đánh giá kết quả hoạt động của người quản
lý doanh nghiệp dựa trên 03 tiêu chí (Mức độ hoàn thành chỉ tiêu đại diện chủ sở hữu
giao về lợi nhuận sau thuế và tỷ suất lợi nhuận sau thuế/ vốn chủ sở hữu; Kết quả xếp
loại doanh nghiệp; Mức độ hoàn thành kế hoạch cung ứng sản phẩm dịch vụ công ích).
Việc đánh giá và giám sát tài chính đối với doanh nghiệp có vốn nhà nước do cơ quan
đại diện chủ sở hữu thực hiện. Bên cạnh đó, tại Điều 24 Nghị định số 87/2015/NĐ-CP
ngày 06/10/201, Chính phủ đã quy định các dấu hiệu mất an toàn tài chính của doanh
nghiệp là dấu hiệu cảnh báo khả năng đặt một doanh nghiệp vào tình trạng giám tài chính
đặc biệt để cơ quan đại diện chủ sở hữu quyết định giám sát tài chính đặc biệt và có
phương án xử lý cụ thể. Về chỉ tiêu đánh giá việc bảo toàn, phát triển vốn căn cứ vào chỉ
tiêu lãi, lỗ để đánh giá. DNNN có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn nhà nước đầu
tư tại doanh nghiệp bằng các biện pháp theo quy định tại Điều 35 của Luật số
69/2014/QH13, Điều 22 Nghị định số 91/2015/NĐ-CP, Điều 4 Thông tư số
219/2015/TT-BTC ngày 31/12/2015 của Bộ Tài chính.
2.2 Thực trạng thực hiện pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh
nghiệp nhà nước ở Việt Nam
2.2.1 Thực trạng hoạt động của các cơ quan đại diện chủ sở hữu của DNNN
42
Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp là cơ quan đại diện chủ sở hữu
của doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và phần vốn nhà nước đầu tư
tại một số tập đoàn và tổng công ty. Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ,
Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là cơ quan đại diện chủ sở hữu
đối với: a) Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và phần vốn nhà nước
đầu tư tại các doanh nghiệp do Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập hoặc
được giao quản lý và không thuộc đối tượng chuyển giao về Ủy ban quản lý vốn nhà
nước tại doanh nghiệp và Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước theo quy
định của pháp luật; b) Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và phần
vốn nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp thuộc đối tượng chuyển giao về Ủy ban quản
lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp và Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước
trong thời gian chưa chuyển giao. Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước
thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp được chuyển giao từ
các Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo quy định của pháp luật.
Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp (SMSC) thành lập ngày
29/9/2018, theo Quyết định 09/2018/NQ-CP. Theo quy định tại Nghị định số 131 ngày
29/9/2018 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của UBQLVNN
tại doanh nghiệp (DN), SMSC được Chính phủ giao trực tiếp quản lý 7 tập đoàn và 12
tổng công ty với tổng số tài sản khoảng 1,5 triệu tỷ đồng và 820.000 tỷ đồng vốn Nhà
nước.
Theo đánh giá tại các buổi làm việc với SMSC của Phó Thủ tướng Vướng Đình
Huệ vào tháng 3/2019 và với Thủ tướng Chính phủ vào tháng 10/2019, những hoạt động
của SMSC được đánh giá cao. Trong một năm đầu hoạt động, SMSC cơ bản hình thành
được hệ thống cơ quan tổ chức bộ máy, hệ thống chính trị như Đảng bộ, Đoàn thanh
niên, ban hành được quyết định chức năng nhiệm vụ và thành lập được 8 Vụ chuyên
môn và 1 trung tâm. Ủy ban đã ban hành được 44 quy chế; tuyển dụng được cán bộ ban
đầu theo chỉ tiêu gần 100 biên chế được giao; có trụ sở riêng, tài chính không có vướng
43
mắc và là đơn vị dự toán cấp 1 - trực tiếp nhận dự toán ngân sách hàng năm do Thủ
tướng Chính phủ thực hiện phân bổ [6,tr.1]. SMSC cũng phối hợp với Bộ Tài chính ban
hành được Quyết định 1515 về trình tự, thủ tục, hồ sơ chuyển giao quyền, trách nhiệm
của cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các doanh nghiệp về SMSC. Đến tháng
10/2019, 19 tập đoàn, Tổng công ty đã được bàn giao thành công. Sau tiếp nhận, Ủy ban
đảm bảo cho sự hoạt động của 19 tập đoàn, Tổng công ty không bị xáo trộn, cơ bản ổn
định và tập hợp được những vướng mắc, khó khăn trong quá trình chuyển giao này. Liên
quan tới tiến trình tái cơ cấu, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước, SMSC đã phối hợp với
các cơ quan có thẩm quyền tập trung xử lý các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực
hiện. Theo đánh giá, tiến trình này đã được triển khai theo đúng quy định pháp luận,
công khai minh bạch; tuy nhiên, tiến độ còn chậm so với kế hoạch [21,tr.1].
2.2.2 Thực trạng tình hình quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại DNNN
Sách trắng doanh nghiệp năm 2019 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã cung cấp nhiều
thông tin về thực trạng tình hình quản lý sử dụng vốn nhà nước tại DNNN. Liên quan
mục đích nghiên cứu của luận văn này, đề tài sau đây xin lược một số điểm chính về
thực trạng này.
Vào thời điểm 31/12/2017 trên phạm vi cả nước có 2.486 DNNN đang hoạt động
có kết quả sản xuất kinh doanh (trong đó doanh nghiệp 100% vốn nhà nước có 1.204
doanh nghiệp), chiếm 0,4% số doanh nghiệp cả nước, giảm 6,6% so với cùng thời điểm
năm 2016. Bình quân giai đoạn 2016-2017, số lượng DNNN là 2.574 doanh nghiệp,
chiếm 0,5% số doanh nghiệp cả nước, giảm 17,4% so với bình quân giai đoạn 2011-
2015.
Trong thời gian qua, các DNNN đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội;
là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước điều tiết kinh tế, ổn định vĩ mô, bảo đảm
cân đối lớn của nền kinh tế. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNNN được duy trì
ổn định, một số chỉ tiêu tài chính có sự tăng trưởng tốt; tỷ suất lợi nhuận/vốn chủ sở hữu
đạt ở mức khá; đóng góp cao cho ngân sách nhà nước.
44
Tổng nguồn vốn sử dụng cho sản xuất kinh doanh của toàn bộ DNNN tại thời
điểm 31/12/2017 đạt 9,5 triệu tỷ đồng, chiếm 28,8% tổng vốn của toàn bộ doanh nghiệp
trong cả nước, tăng 19,2% so với năm 2016. Bình quân giai đoạn 2016-2017, mặc dù
giảm đáng kể về số lượng doanh nghiệp, DNNN vẫn thu hút khá lớn vốn cho sản xuất
kinh doanh với 8,75 triệu tỷ đồng, chiếm 28,7% tổng vốn của toàn bộ doanh nghiệp trong
cả nước, tăng 44% so với bình quân giai đoạn 2011-2015 (trong đó khu vực doanh nghiệp
100% vốn nhà nước là 4,48 triệu tỷ đồng, chiếm xấp xỉ 15%, tăng 13,5%).
Theo số liệu báo cáo năm 2016, quy mô tổng tài sản của các DNNN là 3.053.547
tỷ đồng, tăng 45,8% so với năm 2011 (2.093.907 tỷ đồng) với tổng vốn chủ sở hữu là
1.398.183 tỷ đồng, tăng 92,2% so với năm 2011 (727.277 tỷ đồng). Tổng số nợ phải trả
của các DNNN là 1.628.649 tỷ đồng, tăng 26% so với năm 2011 (1.292.400 tỷ đồng) và
các khoản phải thu của các DNNN là 384.310 tỷ đồng, tăng 29,6% so với năm 2011
(296.541 tỷ đồng).
Chỉ số nợ trên vốn chủ sở hữu của DNNN năm 2017 là 4,1 lần, cao gấp 1,64 lần
so với chỉ số nợ trên vốn chủ sở hữu trung bình của doanh nghiệp cả nước là 2,5 lần.
Theo quy định tại khoản 3, điều 23 Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản
xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp năm 2014 thì việc huy động vốn phục vụ sản xuất,
kinh doanh của DNNN nắm giữ 100% vốn điều lệ phải bảo đảm tổng số nợ phải trả bao
gồm các khoản bảo lãnh đối với công ty con không quá ba lần vốn chủ sở hữu của doanh
nghiệp. Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu quá cao như hiện nay của các DNNN cho thấy rủi
ro lớn về khả năng trả nợ của DNNN nước ta hiện nay.
Chỉ số quay vòng vốn năm 2017 của khu vực DNNN là 0,3 lần, chưa bằng 43% so
với chỉ số quay vòng vốn trung bình của toàn hệ thống doanh nghiệp nước ta là 0,7 lần.
Điều này phần nào thể hiện hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp nhà nước còn thấp
hơn nhiều so với mặt bằng chung của doanh nghiệp cả nước.
Tổng lợi nhuận trước thuế của khu vực doanh nghiệp năm 2017 đạt 876,7 nghìn
tỷ đồng, tăng 23,1% so với năm 2016. Năm 2017 khu vực DNNN tạo ra 200,9 nghìn tỷ
45
đồng lợi nhuận, chiếm 22,9%, tăng 1,8% (trong đó khu vực doanh nghiệp 100% vốn nhà
nước tạo ra 124,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 14,2%, tăng 10,1%).
Năm 2017, tổng doanh thu thuần của toàn bộ doanh nghiệp đang hoạt động có kết
quả sản xuất kinh doanh đạt 20,66 triệu tỷ đồng, tăng 18,5% so với năm 2016, tăng cao
hơn tốc độ tăng nguồn vốn của doanh nghiệp (tăng 17,5%). Tổng doanh thu thuần của
khu vực DNNN năm 2017 đạt 3,1 triệu tỷ đồng, chiếm 15,1% doanh thu thuần của toàn
bộ khu vực doanh nghiệp, tăng 9,1% so với năm 2016.
Số liệu trên cho thấy tầm quan trọng của khu vực DNNN đối với nền kinh tế quốc
gia. Tuy chiếm một tỷ trọng lớn, tốc độ tăng trưởng của khu vực DNNN chậm hơn so
với khu vực ngoài nhà nước. Điều này phù hợp với chính sách chung của Đảng và nhà
nước ta. Ngày càng nhiều DNNN được cổ phần hóa, chỉ giữ lại những doanh nghiệp
trong những ngành đặc biệt, cần có sự kiểm soát của nhà nước.
Hiệu suất sinh lợi trên tài sản (ROA) của toàn bộ khu vực doanh nghiệp năm 2017
đạt 2,9%. Khu vực DNNN có ROA đạt 2,2%, thấp hơn 24% so với mặt bằng chung cả
nước. Hiệu suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu (ROE) của toàn bộ doanh nghiệp Việt Nam
năm 2017 đạt 10%. Khu vực DNNN có ROE đạt 11,4% (trong đó, khu vực 100% vốn
nhà nước đạt 10,6%); cao hơn 11% so với mặt bằng chung cả nước. Hiệu suất sinh lợi
trên doanh thu (ROS) của toàn bộ khu vực doanh nghiệp năm 2017 đạt 4,2%. Khu vực
DNNN có ROS đạt 6,4%; cao hơn 27% so với mặt bằng chung cả nước. Hiệu suất sinh
lợi trên tài sản thấp (ROA) song hiệu suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu (ROE) và hiệu
suất sinh lợi trên doanh thu (ROS) của khối DNNN cao hơn mặt bằng doanh nghiệp
chung cả nước có thể lý giải như sau: dù DNNN khai thác không hiệu quả tài sản quản
lý song DNNN đa phần hoạt động trong các lĩnh vực ít cạnh tranh hơn, DNNN được
hưởng nhiều ưu đãi hơn về chính sách, về tiếp cận vốn vay nên biên lợi nhuận cao hơn
và hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu cao hơn.
Việc quản lý, sử dụng tài sản của doanh nghiệp về cơ bản được thực hiện theo
pháp luật quy định nhưng qua công tác thanh tra, kiểm toán nhà nước cho thấy các
46
DNNN vẫn còn sai phạm trong quá trình quản lý, sử dụng tài sản, tập trung ở một số
khâu như thủ tục đầu tư, mua sắm tài sản cố định không đúng quy định của Nhà n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_quan_ly_su_dung_von_nha_nuoc_tai_doanh_nghiep_nha_n.pdf