Luận văn Quan niệm của một số nhà tư tưởng Việt Nam đầu thế kỷ XX về phật giáo

MỞ ĐẦU.4

1.Tính cấp thiết của đề tài . 4

2.Tình hình nghiên cứu. 6

3.Đối tƯợng và phạm vi nghiên cứu. 11

4.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. 11

5.Cơ sở lý luận và phƯơng pháp nghiên cứu . 12

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn . 12

7.Kết cấu của luận văn. 12

NỘI DUNG . 14

CHƯƠNG 1: NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH

QUAN NIỆM VỀ PHẬT GIÁO ĐẦU THẾ KỶ XX (QUA MỘT SỐ NHÀ

TƯ TƯỞNG TIÊU BIỂU) . 14

1.1. Hoàn cảnh, lịch sử - xã hội cho sự hình thành quan niệm về Phật giáo đầu thế kỷ XX .14

1.1.1. Điều kiện lịch sử - xã hội thế giới và khu vực cuối thế kỷ XIX đầu thế

kỷ XX .14

1.1.2. Điều kiện lịch sử - xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. .19

1.2. Tiền đề hình thành quan niệm về Phật giáo ở các nhà tư tưởng Việt Nam đầu thế kỷ XX

1.2.1. Tư tưởng khoan dung và nhập thế của Phật giáo Việt Nam truyền thống

1.2.2. Tư tưởng khai sáng và Mác xít về Tôn giáo

1.2.3. Vài nét khái quát về phong trào chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam đầu

thế kỷ XX .

CHƯƠNG 2: NỘI DUNG QUAN NIỆM VỀ PHẬT GIÁO CỦA MỘT SỐ

NHÀ TƯ TƯỞNG VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX

2.1. Quan niệm của Phan Bội Châu về Phật giáo

2.1.1. Vài nét khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của Phan Bội Châu

2.1.2 Một số nội dung trong quan niệm của Phan Bội Châu về Phật giáo

pdf29 trang | Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 635 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quan niệm của một số nhà tư tưởng Việt Nam đầu thế kỷ XX về phật giáo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hà Nội, 2006 của Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên); Quá trình chuyển biến tư tưởng chính trị Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX qua các nhân vật tiêu biểu (Nhà chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007) của tác giả Doãn Chính và Phạm Đào Thịnh đồng chủ biên. Bên cạnh đó còn có công trình nghiên cứu: Phật giáo Việt Nam (từ khởi nguyên đến 1981), (Nhà xuất bản Văn học, 2012) của tác giả Bồ đề Tân Thanh – Nguyễn Đại Đồng. Và công trình nghiên cứu gần đây: Quá trình chuyển biến tư tưởng của Nho sĩ Việt Nam trong 30 năm đầu thế kỷ XX (Nhà xuất bản Chính Trị quốc gia – sự thật 2012) của Trần Thị Hạnh; Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam từ thời kỳ dựng nước đến đầu thế kỷ XX (Nhà xuất bản Chính Trị quốc gia, Hà Nội, 2013) của tập thể tác giá do Doãn Chính chủ biên; Nhóm thứ hai, đó là các công trình nghiên cứu cụ thể về từng nhà tƣ tƣởng, về từng nội dung tƣ tƣởng của họ, tƣ tƣởng đó liên quan đến tƣ tƣởng của họ về tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng. Đáng chú ý trong đó nổi bật có các công trình nhƣ: Nguyễn An Ninh dấu ấn để lại (Nhà xuất bản Văn học, 1996) của Lê Minh Quốc; Tân thư và xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997) của tập thể tác giả Đại học khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội, do Đinh Xuân Lâm (chủ biên); Phan Bội Châu về một số vấn đề văn hóa – xã hội - chính trị (Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế, 2000) của Chƣơng Thâu; Tôn giáo trong mối quan hệ văn hóa và phát triển ở Việt Nam, (Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 2004) của tác giả Nguyễn Hồng Dƣơng; Nghiên cứu Phan Bội Châu (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004); Tư tưởng triết học và chính trị của Phan Bội Châu (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006) của 9 Nguyễn Văn Hòa; Huỳnh Thúc Kháng con người và thơ văn (Nhà xuất bản văn học, Hà Nội, 2006) của Nguyễn Q.Thắng; Phan Bội Châu trong dòng thời đại (Bình luận và hồi ức) (Nhà xuất bản Nghệ An, 2007); Nghiên cứu tôn giáo - Nhân vật và sự kiện, (Nhà xuất bản Tổng hợp TP.Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh, 2009) của tác giả Đỗ Quang Hƣng; Phật giáo Việt Nam thế kỷ XX nhân vật và sự kiện, (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2013) của Lê Tâm Đắc – Nguyễn Đại Đồng Nhìn chung trong các công trình này đã khảo cứu về các cuộc đời, sự nghiệp nhân vật Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng vv đã đƣợc các nhà nghiên cứu đề cập dƣới nhiều góc độ nhƣ cuộc đời, di khảo tƣ tƣởng, giá trị lịch sử của tƣ tƣởng chính trị - xã hội. Trong đó các nhà nghiên cứu tập trung hệ thống hóa tƣ tƣởng chính trị, xã hội, đi sâu phân tích những quan điểm tiến bộ, tinh thần sáng tạo đi tìm con đƣờng cứu nƣớc giải phóng dân tộc, nêu lên những hạn chế, những bài học lịch sử trong tƣ tƣởng đối với cách mạng Việt Nam. Điểm cần quan tâm là các sách chỉ mới dừng lại ở nhận định chung khi nói về quan niệm của họ về Phật giáo đầu thế kỷ XX. Nhóm thứ ba, đó là các công trình tiếp cận từ góc độ lịch sử tƣ tƣởng nghiên cứu tƣ tƣởng về tôn giáo trong các nhà tƣ tƣởng nói trên, nghiên cứu đánh giá từng mặt, từng nội dung và giá trị lịch sử của các nhà tƣ tƣởng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trong trong các luận văn, luận án và trong các tạp chí nhƣ tạp chí Triết học, tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo. Thêm vào đó có các luận án, luận văn trong đó tìm hiểu về tƣ tƣởng về tôn giáo ở Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh có các công trình sau: Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học của Nguyễn Khắc Sâm, với đề tài: Tìm hiểu tư tưởng của Phan Bội Châu về tôn giáo, tín ngưỡng. Trong luận văn này đã bƣớc đầu hệ thống hóa và phân tích những nội dung tƣ tƣởng về tôn giáo, tín ngƣỡng nói chúng của Phan Bội Châu, phân tích ý nghĩa, hạn chế của những tƣ tƣởng đó với tiến trình phát triển của lịch sử tƣ tƣởng 10 Việt Nam; Luận văn Thạc sĩ Triết học, chuyên ngành Triết học của Trần Thị Hạnh, với tên đề tài: Tư tưởng yêu nước của Huỳnh Thúc Kháng; Trong đó có gián tiếp nêu tƣ tƣởng về Phật giáo của ông. Luận văn Thạc sĩ Triết học của Lê Thị Mận, với đề tài là: Tư tưởng Nguyễn An Ninh về văn hóa, chính trị, tôn giáo. Trong chƣơng 2 mục 2.3 tác giả đã trình bày một số nét tƣ tƣởng của Nguyễn An Ninh về tôn giáo nói chung và quan niệm Phật giáo nói riêng. Ngoài ra còn thêm các bài báo đăng ở các tạp chí, đáng chú ý có các công trình sau: Phan Bội Châu với công cuộc vận động đồng bào Thiên chúa giáo ở đầu thế kỷ XX, của tác giả Đặng Huy Vận, đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (số 104- 1967); Bài Nguyễn An Ninh trong tiến trình tư tưởng Việt Nam, của tác giả Lê Sỹ Thắng đăng trên tạp chí Triết học (số 1 – 1991); Tìm hiểu về Phan Bội Châu và vấn đề đoàn kết lương giáo chống Pháp đầu thế kỷ XX, của tác giả Phạm Hồng Tung đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (số 6-1999); tác giả Lê Ngọc Thông có bài viết Quan niệm của Phan Bội Châu về tôn giáo, đăng trên tạp chí nghiên cứu tôn giáo (số 1- 2001); Nguyễn An Ninh và tôn giáo, của tác giả Đỗ Quang Hƣng đăng trên tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo (số 11- 2003); Tìm hiểu sự tiếp nhận tư tưởng Mácxit về tôn giáo của Nguyễn An Ninh qua tác phẩm “Phê Bình Phật Giáo” của tác giả Đỗ Thị Hòa Hới đăng trên tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo (số 1 – 2004); Tư tưởng Phan Bội Châu về Phật giáo thời kỳ ở Huế,của tác giả Đỗ Thị Hòa Hới và Nguyễn Khắc Sâm đăng trên tạp chí Khuông Việt (số 7 – 2009) trong đó đề cập đến tƣ tƣởng của ông về Phật giáo; Bài Quan niệm của Phan Bội Châu về giá trị của Phật giáo của tác giả Đỗ Thị Hòa Hới đăng trong sách Kỷ yếu Hội thảo Khoa học về giá trị của các tôn giáo, nhà xuất bản Viện nghiên cứu Tôn giáo, Hà Nội, 2016. Tóm lại, nhìn chung tuy đã có bức tranh tổng quan chung qua các bộ sử lớn nhỏ, những công trình nghiên cứu chung về tƣ tƣởng của Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc 11 Kháng và Nguyễn An Ninh, song có lẽ đến nay vẫn còn ít có công trình nào đi sâu trình bày, phân tích một cách hệ thống chủ đề: “Quan niệm của một số nhà tư tưởng Việt Nam đầu thế kỷ XX về Phật giáo” nên trong luận văn chúng tôi lựa chọn kế thừa và đi sâu nghiên cứu vấn đề đó. Nhờ có kế thừa và tiếp thu kết quả của những ngƣời đi trƣớc, trong giới hạn khuôn khổ của luận văn thạc sĩ triết học này, chúng tôi hy vọng sẽ cố gắng tiếp cận từ góc độ chuyên ngành triết học và kết hợp cách tiếp cận liên ngành: Triết học văn hóa, triết học giá trị nhằm làm rõ lý giải thêm về điều kiện, tiền đề, một số đóng góp nội dung tƣ tƣởng về Phật giáo đầu thế kỷ XX qua một số nhà tƣ tƣởng tiêu biểu, những nội dung đó mà đến nay nếu biết chắt lọc, chúng ta có thể rút ra đƣợc những giá trị, bài học bổ ích cho sự nghiệp đổi mới. 3.Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn: Quan niệm về Phật giáo nửa đầu thế kỷ XX, qua một số nhà tƣ tƣởng tiêu biểu: Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh. Phạm vi nghiên cứu: Hệ thống hóa, phân tích làm rõ những cơ sở điều kiện, tiền đề, nội dung quan niệm về Phật giáo nửa đầu thế kỷ XX qua một số nhà tƣ tƣởng tiêu biểu: Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh, thể hiện qua cuộc đời và thơ văn của họ. 4.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Tiếp cận từ góc độ triết học luận văn chú ý hệ thống hóa, phân tích làm rõ cơ sở hình thành và nội dung quan niệm của một số nhà tƣ tƣởng về Phật giáo đầu thế kỷ XX: Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh. Để thực hiện mục đích trên luận văn có các nhiệm vụ: Có ba nhiệm vụ nghiên cứu: 12 - Phân tích những điều kiện lịch sử - xã hội khách quan, chủ quan và các tiền đề tƣ tƣởng cho sự hình thành quan niệm về Phật giáo đầu thế kỷ XX, qua một số nhà tƣ tƣởng tiêu biểu: Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh. - Hệ thống hóa làm rõ những nội dung quan niệm về Phật giáo đầu thế kỷ XX, qua một số nhà tƣ tƣởng tiêu biểu: Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh. - Phân tích chỉ ra một số giá trị và hạn chế trong nội dung quan niệm về Phật giáo của một số nhà tƣ tƣởng đầu thế kỷ XX: Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh cho tiến trình lịch sử dân tộc nói chung, lịch sử Phật giáo nói riêng. 5.Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Luận văn đƣợc thực hiện dựa trên cơ sở vận dụng những quan điểm cơ bản của triết học Mác – Lênin về mối quan hệ giữa ý thức xã hội và tồn tại xã hội con ngƣời, và vai trò của mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn chủ yếu sử dụng phƣơng pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các phƣơng pháp nghiên cứu thống nhất logic và lịch sử, thống nhất phân tích và tổng hợp, ngoài ra còn sử dụng phƣơng pháp liên ngành nhƣ triết học văn hóa, triết học tôn giáo. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể góp thêm vào việc nhận thức đầy đủ hơn các tiền đề, tƣ tƣởng và khía cạnh nội dung lịch sử tƣ tƣởng về tôn giáo, Phật giáo Việt Nam giai đoạn này. Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm nghiên cứu lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam giai đoạn lịch sử này 7.Kết cấu của luận văn 13 Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của luận văn gồm có hai chƣơng, sáu tiết. 14 NỘI DUNG CHƢƠNG 1: NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH QUAN NIỆM VỀ PHẬT GIÁO ĐẦU THẾ KỶ XX (QUA MỘT SỐ NHÀ TƢ TƢỞNG TIÊU BIỂU) 1.1. Hoàn cảnh, lịch sử - xã hội cho sự hình thành quan niệm về Phật giáo đầu thế kỷ XX 1.1.1. Điều kiện lịch sử - xã hội thế giới và khu vực cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, thế giới có nhiều chuyển biến to lớn chuẩn bị cho một bƣớc ngoặt trong tiến trình phát triển của nhân loại, đó là: Chủ nghĩa tƣ bản từ giai đoạn tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn độc quyền – chủ nghĩa đế quốc, mở rộng thị trƣờng, xâm lƣợc các nƣớc khu vực châu Á, châu Phi và Mỹ la tinh; công cuộc duy tân của Nhật Bản, cuộc vận động cải cách ở Trung Quốc dẫn đến cách mạng Tân Hợi năm (1911) Đến cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tƣ bản phƣơng Tây đã phát triển mạnh mẽ chuyển từ chủ nghĩa tƣ bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa đế quốc. Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tƣ bản chủ nghĩa ở các nƣớc tƣ bản phát triển đã làm tăng thêm nhu cầu tìm kiếm thuộc địa để cung cấp nguyên liệu và thị trƣờng tiêu thụ hàng hóa. Để mở rộng thị trƣờng chủ nghĩa tƣ bản đã tiến hành xâm lƣợc các nƣớc phƣơng Đông, do đó tạo nên sự biến đổi to lớn tác động trực tiếp đến đời sống xã hội mọi mặt của Việt Nam và khu vực. Về kinh tế, chủ nghĩa tƣ bản tạo ra lực lƣợng sản xuất lớn, làm cho diện mạo của đời sống xã hội phƣơng Tây và thế giới thay đổi. Do sự phát triển không đồng đều của chủ nghĩa tƣ bản đã dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế những năm 1900 – 1903 , sau đó là cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất, tiếp đến cuộc khủng hoảng 15 kinh tế 1929-1930. Chính thực trạng đó đã đòi hỏi các nƣớc tƣ bản phải mở rộng thị trƣờng bằng cách xâm lƣợc và áp bức các dân tộc phƣơng Đông, trong đó có Việt Nam ngày một ngặt nghèo. Về chính trị tại chính quốc vào năm 1789, giai cấp tƣ sản Pháp thực hiện cuộc cách mạng xã hội triệt để lật đổ chế độ phong kiến, thiết lập chế độ tƣ bản chủ nghĩa. Từ đây tạo nên bƣớc chuyển từ chế độ quân chủ sang dân chủ, từ quân quyền sang pháp quyền. Nhờ đó, đã tạo ra sự phát triển nhanh chóng của giai cấp công nhân, đặc biệt ở các nƣớc Anh, Pháp, Đức, Mỹ, Nga. Đội ngũ công nhân ở các nƣớc này tăng lên hàng triệu ngƣời, trở thành lực lƣợng xã hội rất quan trọng. Trong xã hội tƣ bản chủ nghĩa, mâu thuẫn cơ bản nhất là giữa tƣ sản và vô sản. Sau thất bại của Công xã Pari (năm 1871) phong trào công nhân tiếp tục đƣợc củng cố, tập hợp lực lƣợng và đƣợc sự dẫn dắt bởi chủ nghĩa Mác. Sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa Mác, giúp phong trào công nhân ngày càng phát triển mạnh mẽ. Nhiều tổ chức Đảng Vô sản, Đảng Xã hội theo xu hƣớng tiến bộ cách mạng ra đời, nhằm tổ chức và lãnh đạo phong trào công nhân chống lại chủ nghĩa tƣ bản. Cho nên, khi các nƣớc tƣ bản mở rộng xâm lƣợc các nƣớc phƣơng Đông, trong đó có Việt Nam, thì cùng với sự su nhập của nền kinh tế tƣ bản chủ nghĩa tiếp theo những năm 20 của thế kỷ XX là sự du nhập các trào lƣu tƣ tƣởng dân chủ tƣ sản và vô sản vào nƣớc ta tạo ra sự chuyển biến hệ tƣ tƣởng từ hệ tƣ tƣởng truyền thống có tính chất chế độ quân chủ sang hệ tƣ tƣởng có tính chất Dân chủ tƣ sản, xây dựng đƣờng lối cứu nƣớc theo hƣớng Dân chủ tƣ sản, tiếp theo các nhà lãnh đạo phong trào yêu nƣớc nhƣ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh sẽ bƣớc đầu tiếp cận với tƣ tƣởng Mácxít. Về văn hóa, khoa học, kỹ thuật, giai đoạn này là thời kỳ Tây Âu nở rộ nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật, ở các nƣớc tƣ bản phát triển, tạo điều kiện cho con ngƣời nâng cao nhận thức duy lý, khoa học của con ngƣời, nâng cao kiến thức hiểu biết 16 về tự nhiên xã hội sâu sắc hơn, làm suy giảm vai trò của tôn giáo. Song, sự trớ trêu là do nhu cầu truyền đạo mà các đoàn truyền giáo đã cấu kết với đoàn quân thực dân. Các cuộc xâm chiếm thuộc địa, tìm kiếm thị trƣờng châu Á đã đi cùng với việc truyền giáo đƣợc các nƣớc Anh, Pháp, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha tiến hành từ thế kỷ XVII, nhƣng phải đến thế kỷ XIX mới thực sự trở nên gay gắt. Đến cuối thế kỷ XIX, hầu hết các nƣớc châu Á đều tự biến thành các nƣớc thuộc địa và phụ thuộc vào chủ nghĩa đế quốc phƣơng Tây. Duy chỉ có Nhật Bản là một nƣớc châu Á thoát khỏi số phận là nƣớc thuộc địa, do Nhật Bản đã thực hiện thành công cuộc cải cách Minh Trị năm 1868. Cho nên Nhật đã giữ vững đƣợc độc lập dân tộc, đƣa đất nƣớc phát triển theo hƣớng tƣ bản chủ nghĩa, và trở thành đế quốc Châu Á trẻ đánh bại Nga, và đã chiếm Triều Tiên, Lƣu Cầu và xâm lƣợc Trung Quốc. Ở Trung Quốc đến cuối thế kỷ XIX tuy có những nỗ lực duy tân nhƣng vẫn còn là một nƣớc phong kiến với chế độ quân chủ, có nhiều nét giống Việt Nam. Giai đoạn này Trung Quốc đứng trƣớc nguy cơ bị thực dân xâm lƣợc; các lãnh địa của Anh, Pháp, Mỹ, Nhật Bản mọc lên ở Trung Quốc. Từ năm (1839-1842), Anh mở cuộc chiến tranh tấn công Trung Quốc buộc triều đình Mãn Thanh phải ký hòa ƣớc Nam Kinh (29 – 8 – 1842) gồm bốn nội dung chính chấp nhận mọi điều kiện do thực dân Anh đƣa ra. Bên cạnh đó Anh xâm chiếm Ba Tƣ, xâm chiếm Malayxia, Myanma, biến toàn bộ Ấn Độ thành thuộc địa, thế lực của Anh ở châu Á vô cùng to lớn, đã nhiều lần o ép Thái Lan. Theo sau đế quốc Anh, Mỹ buộc Trung Quốc ký hiệp ƣớc Vọng Hạ (7 – 1884) với mục đích chia sẻ thị trƣờng tiêu thụ. Đế quốc Pháp buộc Trung Quốc ký hiệp ƣớc Hoàng Phố (10 – 1884), dành quyền tự do thƣơng mại truyền đạo, để mở đƣờng xâm lƣợc Trung Quốc. Ngoài ra Trung Quốc còn buộc phải ký nhiều điều ƣớc bất bình đẳng với các nƣớc tƣ bản khác nhƣ Bỉ, Bồ Đào Nha, Thuỵ 17 Điển các hiệp ƣớc đó đã đẩy Trung Quốc vào tình trạng phụ thuộc, không giữ đƣợc chủ quyền toàn vẹn. Tại khu vực Đông Nam Á, Inđônêxia từ thế kỷ XVI đã bị Hà Lan thống trị, Philippin thì bị Mỹ và Tây Ban Nha xâu xé, Xiêm (Thái Lan) thì bị biến thành vùng đệm. Còn khu vực Đông Dƣơng gồm Việt Nam, Lào và Campuchia thì cuối thế kỷ XIX bị thực dân Pháp thôn tính. Trƣớc xu thế bành trƣớng xâm lƣợc của chủ nghĩa tƣ bản phƣơng Tây, nhiệm vụ cấp bách nhất đối với các nƣớc Châu Á là bằng mọi cách đấu tranh để bảo vệ độc lập dân tộc. Ngay từ đầu các nƣớc châu Á đã sớm nhận ra âm mƣu xâm lƣợc của các nƣớc xâm lƣợc của các nƣớc tƣ bản phƣơng Tây thông qua hoạt động ráo riết của các nhà buôn và các phái đoàn truyền giáo. Song triều đình phong kiến bảo thủ, phƣơng thức duy nhất để chống lại nguy cơ bị thôn tính ở các nƣớc Châu Á lúc này đều là kiên quyết thi hành chính sách “bế quan tỏa cảng”, hòng ngăn chặn sự xâm lƣợc của phƣơng Tây. Tuy nhiên, trƣớc thời cuộc mới đó đây chỉ là biện pháp thụ động và lạc hậu. Thực tế giải pháp này không đem lại kết cục tích cực, tốt đẹp. Mà chống lại sự xâm lƣợc của các nƣớc tƣ bản phƣơng Tây thì con đƣờng tự cƣờng canh tân, canh tân để tự cƣờng là hợp lý. Ngay từ những năm 60 của thế kỷ XIX ở Trung Quốc đã xuất hiện phong trào “Dƣơng Vụ Vận Động” do một số ít quan lại trong triều đình Mãn Thanh khởi xƣớng với nội dung chủ yếu là vận động học tập phƣơng Tây nêu khẩu hiệu tự cƣờng nhƣng không đƣợc triều đình hƣởng ứng. Tiếp đó phong trào Mậu Tuất duy tân 1898 nổ ra với những đại biểu kiệt xuất nhƣ Khang Hữu Vi, Lƣơng Khải Siêu, Đàm Tự Đồng mở đƣờng cho canh tân mọi mặt nhất là chủ trƣơng kinh tế phát triển chống lại sự bảo thủ, lạc hậu của triều đình Mãn Thanh, chống lại sự can thiệp ngày càng sâu sắc của các nƣớc phƣơng Tây, đỉnh cao của phong trào này là cuộc chính biến Mậu Tuất (1898) do phái cấp tiến chủ trƣơng đƣợc vua Quang Tự ủng hộ, cuộc chính biến này chỉ kéo dài đƣợc 18 103 ngày thì thất bại. Đến cuối thế kỷ XIX, Trung Quốc bị các nƣớc đế quốc xâu xé tàn phá nặng nề. Năm 1901, triều đình Mãn Thanh ký hiệp ƣớc Thiên Tân với 8 nƣớc phƣơng Tây, từ đây Trung Quốc chính thức trở thành một nƣớc thuộc địa nửa phong kiến. Chủ nghĩa đế quốc còn sử dụng tấm màn che là sự truyền giáo để tiến hành các cuộc chiến trang xâm lƣợc các quốc gia các dân tộc phƣơng Đông nhỏ yếu, biến các quốc gia, dân tộc đó thành thuộc địa và thực hiện đàn áp, bóc lột hết sức tàn bạo. Điều đó đặt ra cho các dân tộc, các quốc gia phƣơng Đông vấn đề hàng đầu là tiến hành đấu tranh giải phóng dân tộc và ý thức về sự bảo vệ các tín ngƣỡng, tôn giáo truyền thống lâu đời. Kháng chiến chống xâm lƣợc của chủ nghĩa thực dân đã làm cho các dân tộc, các quốc gia bị xâm lƣợc đứng trƣớc những vấn đề hết sức mới mẻ, trong đó có vấn đề nhận thức về tôn giáo trong đó có nhận thức về Phật giáo. Đặc biệt là sự tác động rất lớn đến tƣ tƣởng hệ nói chung và tƣ tƣởng về Phật giáo nói riêng. Ngay ở Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, Thái Lan, khi xuất hiện nguy cơ bị chủ nghĩa đế quốc xâm lƣợc, các nƣớc phong kiến phƣơng Đông hết sức lúng túng trƣớc những vấn đề sống còn của quốc gia, hết sức lung túng vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa, tôn giáo. Trƣớc thực tiễn đó, buộc các nhà tƣ tƣởng càng phải suy tƣ toàn cảnh giải thích tác động những hiện tƣợng lịch sử mới nảy sinh đến Phật giáo. Hệ tƣ tƣởng cũ không đáp ứng đƣợc yêu cầu của lịch sử, giai cấp cầm quyền thì bế tắc về con đƣờng cách mạng của dân tộc. Trƣớc tình hình đó xuất hiện một nhu cầu cấp bách là cần có hệ tƣ tƣởng mới chấn hƣng các di sản Phật giáo cho phù hợp với yêu cầu trên. Cho nên, có thể nói khái quát sự bành trƣớng của chủ nghĩa thực dân phƣơng Tây là một trong những yếu tố vật chất góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển biến tƣ tƣởng ở các nƣớc phƣơng Đông nói chung, Việt Nam nói riêng. Từ tƣ tƣởng phong kiến, tiếp thu “Tân thƣ”, “Tân văn” các nhà nho Duy tân đã chuyển biến sang tƣ tƣởng dân chủ tƣ sản, tiếp theo dấu chân họ có các trí thức Tân học nhƣ Nguyễn An Ninh. Và tiếp theo họ bƣớc đầu tiếp cận với hệ 19 tƣ tƣởng của chủ nghĩa Mác – Lênin bƣớc chuyển nhận thức đó cũng thể hiện ở nội dung, quan điểm của học về Phật giáo. Điều đó đƣợc thể hiện qua các nhà tƣ tƣởng tiểu biểu nhƣ: Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh Nằm trong bƣớc chuyển chung đó của lịch sử dân tộc, các quan niệm về Phật giáo của Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh cũng có những đóng góp, giá trị, đặt cầu nối chuyển biến tiếp theo đáp ứng những yêu cầu mới của lịch sử dân tộc, đƣa cách mạng tới thành công. 1.1.2. Điều kiện lịch sử - xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Từ cuối thế kỷ XIX, phong trào Cần Vƣơng vũ trang khởi nghĩa chống Pháp từ Nam chí Bắc sau khi Hàm Nghi xuất bôn và phát hịch Cần Vƣơng đã tàn lụi dần, đƣợc đánh dấu mốc với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hƣơng Sơn (1896). Về căn bản thực dân Pháp đã hoàn thành công cuộc bình định Việt Nam về mặt quân sự, và trong bối cảnh đó có thể bắt tay vào khai thác thuộc địa Việt Nam nói riêng cũng nhƣ Đông Dƣơng nói chung một cách quy mô. Pháp đƣa Pôn Đume (Paul Doumer) sang làm toàn quyền Đông Dƣơng mở ra một giai đoạn mới khai thác thuộc địa lần thứ nhất của chủ nghĩa thực dân Pháp ở xứ này. Về kinh tế, thực dân Pháp thi hành thủ đoạn độc quyền kinh tế và đặc biệt chú ý coi trọng thủ đoạn bóc lột theo kiểu thời kỳ trung cổ. Đó là chế độ thuế khóa vô cùng nặng nề và hết sức vô lý. Toàn bộ chính sách kinh tế của thực dân Pháp dẫn tới kết quả tất yếu đó là bòn rút sức ngƣời sức của bản địa, biến nền kinh tế Việt Nam què quặt phải dựa vào nền kinh tế chính quốc, và không phát triển toàn diện đƣợc, nhân dân Việt Nam bị bần cùng hóa, vô sản hóa. Về công nghiệp, các ngành công nghiệp khai thác, công nghiệp nhẹ và chế biến nông sản, khoáng sản, quặng đƣợc hình thành và ngày càng phát triển. Sự phát triển của các ngành công nghiệp đã tạo nên sự phân hóa xã hội, đó là sự xuất hiện giai cấp công nhân, sau đó là giai cấp tƣ sản, sự phát triển tầng lớp thợ thủ công, tiểu thƣơng, 20 tiểu chủ. Đồng thời cũng làm thay đổi tƣ duy, nếp sống, phong cách làm việc của ngƣời lao động, các quan hệ kinh tế xã hội, những yếu tố này tác động rất lớn đến ý thức, tƣ tƣởng của ngƣời Việt Nam. Về tiểu thủ công nghiệp, là ngành kinh tế phụ, nhƣ dệt vải, đan lát, chế biến nông sản, chế biến hải sản ngày càng phát triển rộng rãi nhƣng không vƣơn lên đƣợc. Những ngành nghề này có tác dụng hỗ trợ cho kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, nhƣng vẫn nằm trong tính chất khuôn khổ phƣơng thức sản xuất phong kiến, mặc dù có phát triển nhƣng chƣa đủ sức để phá vỡ quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu và sự chèn ép, phụ thuộc. Về thƣơng nghiệp, trong chế độ phong kiến nhà Nguyễn thực hiện chính sách “bế quan tỏa cảng” nên chậm phát triển. Khi thực dân Pháp xâm lƣợc, một mặt hàng rào ấy bị xóa bỏ, thƣơng nghiệp, ngoại thƣơng do Pháp nắm bắt đầu phát triển, tạo điều kiện tốt cho nƣớc ta giao lƣu ra bên ngoài, tiếp cận với các nền văn minh thế giới, song cản trở sự ra đời của giai cấp tƣ sản dân tộc. Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam lúc bấy giờ là sự đan xen, tồn tại của các yếu tố cả nền kinh tế truyền thống mang tính chất phong kiến với các yếu tố của nền kinh tế phụ thuộc mang tính chất thuộc địa tƣ bản chủ nghĩa. Các quan hệ sản xuất phong kiến bị thu hẹp, phá vỡ tính thuần nhất của sản xuất nông nghiệp truyền thống, thay vào đó là sự phát triển của các nhà máy công nhiệp, hầm mỏ, đồn điềncác cơ sở vật chất mới ra đời tuy mang tính lệ thuộc. Những yếu tố vật chất đó đã trở thành mảnh đất màu mỡ, mới mẻ, tạo điều kiện cho các trào lƣu tƣ tƣởng mới ở bên ngoài xâm nhập vào nƣớc ta cũng nhƣ làm biến đổi ý thức tƣ tƣởng của quần chúng nhân dân Việt Nam trong tiến trình phát triển tƣ tƣởng của nó. Tính chất đan xen tồn tại hai phƣơng thức sản xuất tại thuộc địa đã làm cho hệ tƣ tƣởng dân chủ tƣ sản của Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh, cũng tồn tại đan xen các yếu tố truyền thống với hiện đại, không 21 thuần nhất khi nhận định về đời sống Phật giáo tƣ tƣởng, các ông cũng có tính đan xen. Về chính trị, để đảm bảo cho nền chính trị của chúng, thực dân Pháp đã không thủ tiêu lợi ích của giai cấp phong kiến – địa chủ bản xứ, mà trái lại tìm cách dung dƣỡng nó, biến nó thành bộ máy bù nhìn tay sai, cơ sở xã hội vừng chắc cho sự thống trị của chúng ở thuộc địa; đồng thời Pháp đã câu kết với giai cấp địa chủ quý tộc phong kiến Việt Nam thi hành chính sách kinh tế thực dân rất thâm độc, rất bảo thủ, đó là tiếp tục duy trì phƣơng thức sản xuất phong kiến kết hợp với việc thiết lập một cách hạn chế các yếu tố của phƣơng thức sản xuất tƣ bản chủ nghĩa tại thuộc địa. Cho nên tính chất xã hội Việt Nam giai đoạn này là chế độ thuộc địa nửa phong kiến. Thực dân Pháp nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam đã thi hành chính sách “chia để trị”. Nam kỳ là đất thuộc địa trực thuộc cai trị của Pháp, không liên quan đến chế độ phong kiến nhà Nguyễn. Tại Trung kỳ thực dân Pháp duy trì “chính phủ Nam triều”, về thực chất “triều đình Huế không có quyền hành gì ngoài “quyền” vâng lệnh Pháp để đàn áp nhân dân. “Nam triều” là cái danh nghĩa cho Pháp tiêu diệt các cuộc khởi nghĩa chống thực dân; Hơn là một danh nghĩa, Nam triều cung cấp lính tráng cho sự tàn sát đó, hết sức thẳng tay và có ý đồ. Vua nào không phục tùng Pháp (Thành Thái, Duy Tân) thì bị Pháp đày đi phƣơng xa. “Sự tồn tại của triều đình Huế biểu hiện một cuộc đồng minh giữa thực dân và các lực lƣợng phong kiến chống phong trào giải phóng dân tộc, chống mọi sự tiến bộ dân chủ” [21, tr.17-18]. Tại Bắc kỳ, thực dân Pháp thực hiện chủ trƣơng “nửa bảo hộ”, đứng đầu Bắc kỳ là Thống sứ ngƣời Pháp, và Hội đồng bảo hộ giúp việc. Nhƣ vậy, có thể nói thực chất quyền hành chính trị ở ba kỳ đã chuyển sang tay bộ máy chính quyền bảo hộ của thực dân Pháp. Sự thống trị của thực dân Pháp từ kinh tế, chính trị, dần dần đến các 22 lĩnh vực khác nhƣ văn hóa, xã hội, giáo dục, đờ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf02050004425_1669_2006256.pdf
Tài liệu liên quan