DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT. i
DANH SÁCH CÁC BẢNG. ii
DANH SÁCH CÁC BIỂU ĐỒ . iii
DANH SÁCH SƠ ĐỒ. iv
LỜI MỞ ĐẦU .1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ
RỦI RO TÍN DỤNG VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG
CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI .5
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu .5
1.2. Những vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng của ngân hàng thƣơng mại.8
1.2.1. Khái niệm về tín dụng và rủi ro tín dụng .8
1.2.2. Đặc điểm của rủi ro tín dụng .9
1.2.3. Phân loại rủi ro tín dụng.10
1.3. Quản trị rủi ro tín dụng của các ngân hàng thƣơng mại .12
1.3.1. Các vấn đề chung về quản trị rủi ro tín dụng của các NHTM.12
1.3.2. Chính sách và quy trình tín dụng .15
1.3.3. Mô hình quản trị rủi ro tín dụng .17
1.3.4. Quy trình quản trị rủi ro tín dụng .20
1.3.5. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng .29
1.4 Nhân tố ảnh hƣởng đến quản trị rủi ro tín dụng .32
1.4.1. Nhóm nhân tố chủ quan.32
1.4.2. Nhóm nhân tố khách quan.33
48 trang |
Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 577 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản trị rủi ro tín dụng tại sở giao dịch ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cục dự trữ liên bang
9
Mỹ (FED) P.Volker cho rằng: “Nếu ngân hàng không có những khoản vay tồi thì đó
không phải là hoạt động kinh doanh”. Dù đã có nhiều cải cách trong lĩnh vực tài chính,
rủi ro tín dụng vẫn là nguyên nhân chủ yếu gây ra thất thoát và dẫn đến nguy cơ phá sản
của ngân hàng. Có rất nhiều khái niệm khác nhau về rủi ro tín dụng nhƣ sau:
Theo Thomas P.Fitch: “Rủi ro tín dụng là loại rủi ro xảy ra khi ngƣời vay
không thanh toán đƣợc nợ theo thỏa thuận hợp đồng dẫn đến sai hẹn trong nghĩa vụ
trả nợ”. Cùng với rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng là một trong những rủi ro chủ yếu
trong hoạt động cho vay của ngân hàng.
Sauders và H. Lange định nghĩa: “Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm năng khi
ngân hàng cấp tín dụng cho một khách hàng, nghĩa là nguồn thu nhập dự tính mang lại
từ khoản vay của ngân hàng không thể đƣợc thực hiện cả về số lƣợng và thời hạn”.
Theo khoản 1 Điều 3 Thông tƣ 02/2013/TT-NHNN, ngày 21 tháng 1 năm
2013, rủi ro tín dụng đƣợc định nghĩa: Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân
hàng là tổn thất có khả năng xảy ra đối với nợ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện
một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình theo cam kết.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, RRTD có thể đƣợc hiểu là những
tổn thất tiềm tàng có thể xảy ra do các bên đối tác trong hợp đồng tín dụng không có
khả năng hoặc không có đủ năng lực thực hiện các nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng
của mình một cách đầy đủ hoặc đúng hạn. Xét về khía cạnh của ngân hàng, RRTD
sẽ dẫn đến tổn thất tài chính, tức là giảm thu nhập ròng và giảm giá trị thị trƣờng
của vốn, nghiêm trọng hơn có thể dẫn đến phá sản.
1.2.2. Đặc điểm của rủi ro tín dụng
Xuất phát từ bản chất của mối quan hệ tín dụng và từ khái niệm cũng nhƣ
dấu hiệu của rủi ro tín dụng, có thể thấy những đặc điểm sau:
- Rủi ro tín dụng mang tính chất gián tiếp
Đặc điểm này xuất phát từ nguyên nhân là trong quan hệ tín dụng, ngân hàng
chuyển giao quyền sử dụng vốn cho khách hàng trong một thời gian nhất định nên
những thiệt hại, thất thoát về vốn xảy ra trƣớc hết là trong quá trình sử dụng vốn của
10
khách hàng. Biểu hiện rõ ràng của đặc điểm này là trong thực tế, ngân hàng thƣờng
biết sau cũng nhƣ biết không đầy đủ và chính xác những khó khăn, thất bại trong
hoạt động kinh doanh của khách hàng có thể gây ra rủi ro tín dụng.
- Rủi ro tín dụng có tính chất đa dạng và phức tạp
Đặc điểm này biểu hiện ở sự đa dạng, phức tạp của nguyên nhân, hình thức,
hậu quả của rủi ro tín dụng. Đây là đặc điểm tất yếu của rủi ro tín dụng do đặc trƣng
ngân hàng là trung gian tài chính kinh doanh tiền tệ. Đặc điểm này cũng là hệ quả
của đặc điểm thứ nhất vì mối liên hệ gián tiếp với rủi ro tín dụng khiến sự đa dạng
và phức tạp của rủi ro tín dụng đối với ngân hàng càng thể hiện rõ ràng.
- Rủi ro tín dụng có tính tất yếu luôn tồn tại và gắn liền với hoạt động tín
dụng của ngân hàng
Thông tin không cân xứng là nguyên nhân khiến các nhà kinh tế cũng nhƣ
các nhà ngân hàng cho rằng kinh doanh ngân hàng thực chất là quản lý rủi ro ở mức
phù hợp và đạt đƣợc lợi nhuận tƣơng ứng. Do không thể có đƣợc thông tin cân xứng
về việc sử dụng vốn vay cho hoạt động kinh doanh của khách hàng đi vay, bất cứ
một khoản cho vay nào cũng tiềm ẩn những nguy cơ rủi ro đối với các ngân hàng.
1.2.3. Phân loại rủi ro tín dụng
Trong thực tiễn hoạt động tín dụng, rủi ro biểu hiện thành nhiều loại khác
nhau. Vì vậy, tùy vào mục tiêu nghiên cứu khác nhau mà có các tiêu thức phân loại
rủi ro khác nhau. Tuy nhiên, luận văn xin đƣợc đƣa ra các loại rủi ro tín dụng theo
những tiêu chí sau:
* Phân loại theo nguồn gốc hình thành rủi ro
- Rủi ro giao dịch: là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát
sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá
khách hàng. Rủi ro giao dịch gồm 3 rủi ro chính là rủi ro lựa chọn, rủi ro đảm bảo
và rủi ro nghiệp vụ.
+ Rủi ro lựa chọn: là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích
tín dụng khi ngân hàng lựa chọn những phƣơng án vay vốn có hiệu quả để ra quyết
định cho vay.
11
+ Rủi ro bảo đảm: phát sinh từ các tiêu chuẩn bảo đảm nhƣ các điều khoản
trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể đảm bảo, cách thức đảm
bảo và mức cho vay trên giá trị tài sản đảm bảo.
+ Rủi ro nghiệp vụ: rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt
động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng tín dụng và việc xử lý
các khoản nợ xấu.
- Rủi ro danh mục: là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát
sinh do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, đƣợc phân
chia thành 2 loại: rủi ro nội tại và rủi ro tập trung.
+ Rủi ro nội tại: xuất phát từ các yếu tố, đặc điểm riêng có, mang tính riêng
biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ
đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng.
+ Rủi ro tập trung: là trƣờng hợp ngân hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều
đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng
một ngành, lĩnh vực kinh tế; hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định, hoặc cùng
một loại hình cho vay có rủi ro cao.
* Phân loại theo tính chất của rủi ro
- Rủi ro khách quan: Là rủi ro do các nguyên nhân khách quan gây ra nhƣ
thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh, hỏa hoạn, ngƣời vay bị chết, mất tích, dẫn đến
thất thoái vốn vay mặc dù ngân hàng cho vay và ngƣời đi vay đã thực hiện đầy đủ
các quy định về quản lý và sử dụng khoản vay.
- Rủi ro chủ quan: Là rủi ro thuộc về lỗi của ngân hàng hoặc bên đi vay vì vô
tình hay cố ý gây ra dẫn đến thất thoát vốn vay. Đối với rủi ro chủ quan nếu có
những biện pháp hợp lý có thể khắc phục hoặc hạn chế đƣợc loại rủi ro này.
* Phân loại theo cơ cấu rủi ro
Theo cách phân loại này rủi ro tín dụng đƣợc chia thành rủi ro theo khoản
cho vay ngắn, trung và dài hạn.
12
1.3. Quản trị rủi ro tín dụng của các ngân hàng thƣơng mại
1.3.1. Các vấn đề chung về quản trị rủi ro tín dụng của các NHTM
1.3.1.1. Khái niệm quản trị rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng tồn tại tất yếu trong hoạt động kinh doanh của các NHTM.
Nếu hiểu rõ rủi ro thì ta có thể chấp nhận rủi ro một cách có ý thức, có biện pháp để
đối phó với rủi ro. Rủi ro tín dụng có thể đo lƣờng và tính toán trƣớc đƣợc nên có
thể quản trị đƣợc rủi ro tín dụng.
Quản trị RRTD là quá trình ngân hàng tác động đến hoạt động tín dụng
thông qua bộ máy và công cụ quản lý để phòng ngừa, cảnh báo và đƣa ra các biện
pháp nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các tổn thất từ rủi ro trong hoạt động tín
dụng ngân hàng.
Theo Ủy ban Basel thì quản trị RRTD là việc thiết lập cơ chế nhận biết, đo
lƣờng, ứng phó và kiểm soát đƣợc các rủi ro hiện tại và rủi ro tiềm ẩn trong hoạt
đông tín dụng một cách đầy đủ nhằm tối đa hóa lợi nhuận đƣợc điều chỉnh theo yêu
tố rủi ro bằng cách duy trì mức độ RRTD trong phạm vi chấp nhận đƣợc.
Nhƣ vậy, để quản trị RRTD, đồng nghĩa với việc ngân hàng thƣơng mại sẽ
sử dụng các biện pháp nghiệp vụ với mục tiêu cao nhất là nhằm kiểm soát tín dụng,
hạn chế hậu quả xấu trong hoạt động tín dụng mà từ đó sẽ ảnh hƣởng trực tiếp tới
các rủi ro khác trong hoạt động của ngân hàng và dẫn tới tình trạng đổ vỡ.
1.3.1.2. Sự cần thiết của quản trị rủi ro tín dụng
Hoạt động tín dụng đã và đang là hoạt động kinh doanh chính đem lại nguồn
thu nhập chủ yếu cho ngân hàng. Tuy nhiên, cùng với việc đem lại thu nhập đáng kể
cho ngân hàng thì lĩnh vực tín dụng cũng là lĩnh vực có rủi ro lớn nhất. RRTD gây
ra hậu quả lớn cho ngân hàng, khách hàng, nền kinh tế và ảnh hƣởng cả đến xã hội.
Rủi ro trong hoạt động tín dụng là điều không thể tránh khỏi, nó tồn tại
khách quan cùng với sự tồn tại của hoạt động tín dụng. Quản trị RRTD có vai trò
quan trọng trong việc quản lý và kiểm soát tỷ lệ tổn thất tín dụng ở một mức độ nhất
định đảm bảo cho hoạt động tín dụng đƣợc an toàn, nhằm nâng cao hiệu quả kinh
doanh của ngân hàng với mục tiêu tăng trƣởng bền vững.
13
1.3.1.3. Mục tiêu của quản trị rủi ro tín dụng
Quản trị RRTD một cách hiệu quả, đảm bảo cho hoạt động tín dụng nằm
trong phạm vi rủi ro tín dụng có thể chấp nhận đƣợc sẽ hỗ trợ các ngân hàng phân
bổ vốn hiệu quả hơn trong hoạt động tín dụng, giảm thiểu các thiệt hại phát sinh từ
RRTD và tăng thêm lợi nhuận kinh doanh cho ngân hàng.
Mục tiêu chính của các nhà quản trị RRTD là đảm bảo lợi nhuận tối đa ở các
mức rủi ro có thể chấp nhận đƣợc. Trong điều kiện cạnh tranh việc cung cấp dịch vụ
tài chính - ngân hàng gia tăng và bị áp lực từ nhiều phía, do đó có thể nói rằng tình
trạng rủi ro và đặc biệt là rủi ro tín dụng của ngân hàng đang hết sức đƣợc chú trọng.
Quản trị RRTD góp phần nâng cao uy tín và tạo ra lợi thế cạnh tranh cho
ngân hàng. Khi ngân hàng hoạt động kinh doanh có hiệu quả, có năng lực tài chính
lành mạnh và quản lý đƣợc rủi ro trong giới hạn cho phép sẽ tạo đƣợc niềm tin
khách hàng và nâng cao đƣợc vị thế, uy tín đối với các tổ chức kinh tế, tổ chức tín
dụng trong và ngoài nƣớc. Đây là điều vô cùng quan trọng giúp ngân hàng đạt đƣợc
mục tiêu tăng trƣởng và phát triển bền vững cũng nhƣ thực hiện thành công các hoạt
động hợp tác, liên doanh, liên kết trong xu thế hội nhập.
1.3.1.4. Nguyên tắc của quản trị rủi ro tín dụng theo Basel
Basel là Ủy ban Giám sát ngân hàng do Ngân hàng trung ƣơng các nƣớc G10
thành lập từ thế kỷ 18 dƣới sự bảo trợ của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế. Hiệp định
Basel II ra đời thay thế cho Hiệp định vốn ngân hàng quốc tế (Basel I) đƣợc thực hiện
từ năm 1988 nhằm giúp các ngân hàng quản trị rủi ro hiệu quả hơn. Ủy ban Basel đã
ban hành 17 nguyên tắc về quản lý nợ xấu mà thực chất là đƣa ra các nguyên tắc trong
quản trị rủi ro tín dụng, đảm bảo tính hiệu quả và an toàn trong hoạt động cấp tín dụng.
Các nguyên tắc này tập trung vào các nội dung cơ bản sau đây:
* Xây dựng môi trƣờng tín dụng thích hợp (3 nguyên tắc)
- Nguyên tắc 1: Phê duyệt và xem xét chiến lƣợc RRTD định kỳ, xem xét
mức độ rủi ro có thể chấp nhận đƣợc, mức độ khả năng sinh lời,
- Nguyên tắc 2: Thực hiện chiến lƣợc chính sách tín dụng, xây dựng các quy
trình thủ tục cho các khoản vay riêng lẻ và toàn bộ danh mục tín dụng nhằm xác
định, đánh giá, quản lý, kiểm soát RRTD.
14
- Nguyên tắc 3: Xác định và quản lý RRTD trong mọi sản phẩm và hoạt động,
đảm bảo tất cả các sản phẩm, hoạt động mới phải trải qua đầy đủ các thủ tục, quy
trình kiểm soát thích hợp và đƣợc phê duyệt đầy đủ.
* Thực hiện cấp tín dụng lành mạnh (4 nguyên tắc)
- Nguyên tắc 4: Hoạt động trong phạm vi các tiêu chí cấp tín dụng lành mạnh
đƣợc xác định rõ ràng: những hiểu biết về ngƣời vay, mục tiêu, cơ cấu tín dụng và
nguồn thanh toán.
- Nguyên tắc 5: Xây dựng các hạn mức tín dụng cho từng loại khách hàng
vay vốn và nhóm khách hàng vay vốn để tạo ra các loại hình rủi ro khác nhau
nhƣng vẫn có thể theo dõi đƣợc trên sổ sách kế toán kinh doanh, nội bảng và
ngoại bảng.
- Nguyên tắc 6: Cần có quy trình rõ ràng trong việc phê duyệt các khoản tín
dụng mới cũng nhƣ sửa đổi, gia hạn, tái cơ cấu, tái tài trợ cho các khoản tín dụng
hiện tại.
- Nguyên tắc 7: Việc cấp tín dụng cần đƣợc thực hiện trên cơ sở giao dịch
công bằng giữa các bên.
* Duy trì một quá trình quản lý, đo lƣờng và theo dõi tín dụng phù hợp (6
nguyên tắc):
- Nguyên tắc 8: Cần có hệ thống quản lý một cách cập nhật đối với các danh
mục đầu tƣ có rủi ro tín dụng.
- Nguyên tắc 9: Cần có hệ thống theo dõi điều kiện của từng khoản tín dụng
riêng lẻ, bao gồm mức độ đầy đủ của dự phòng RRTD.
- Nguyên tắc 10: Khuyến khích ngân hàng phát triển và sử dụng hệ thống xếp
hạng tín dụng nội bộ trong quản lý rủi ro tín dụng.
- Nguyên tắc 11: Ngân hàng cần có hệ thống thông tin và các kỹ thuật phân
tích để đo lƣờng đƣợc rủi ro tín dụng trong mọi hoạt động nội và ngoại bảng;
- Nguyên tắc 12: Phải có hệ thống theo dõi cơ cấu và chất lƣợng của toàn bộ
danh mục đầu tƣ tín dụng.
- Nguyên tắc 13: Xem xét ảnh hƣởng của những thay đổi về điều kiện kinh tế
có thể xảy ra trong tƣơng lai.
15
* Đảm bảo quy trình kiểm soát đầy đủ với RRTD (4 nguyên tắc)
- Nguyên tắc 14: Thiết lập hệ thống xem xét tín dụng độc lập và liên tục, cần
thông báo kết quả đánh giá cho Hội đồng Quản Trị và ban Quản Lý Cấp Cao.
- Nguyên tắc 15: Quy trình cấp tín dụng phải đƣợc theo dõi đầy đủ, cụ thể:
việc cấp tín dụng phải tuân thủ các tiêu chuẩn thận trọng, thiết lập và áp dụng kiểm
soát nội bộ, những vi phạm về các chính sách, thủ tục và hạn mức tín dụng cần
đƣợc báo cáo kịp thời.
- Nguyên tắc 16: Cần có hệ thống khắc phục sớm đối với các khoản tín dụng
xấu, quản lý các khoản tín dụng có vấn đề.
- Nguyên tắc 17: Các chính sách rủi ro tín dụng của ngân hàng cần chỉ rõ
cách thức quản lý các khoản tín dụng có vấn đề.
Tóm lại, nguyên tắc chung của Ủy ban Giám sát Ngân hàng Basel trong quản
trị rủi ro tín dụng có những điểm cơ bản sau:
- Bộ máy cấp tín dụng cần phân tách theo các bộ phận: tiếp thị, phân tích và
phê duyệt tín dụng cũng nhƣ phải rõ ràng trách nhiệm của các bộ phận tham gia.
- Nâng cao năng lực của cán bộ quản lý RRTD.
- Xây dựng hệ thống quả trị và cập nhật thông tin hiệu quả, đầy đủ nhằm duy trì
quá trình nhận diện, đo lƣờng, theo dõi tín dụng thích hợp, đáp ứng yêu cầu quản trị RRTD.
1.3.2. Chính sách và quy trình tín dụng
* Chính sách tín dụng, quy trình tín dụng
Chính sách tín dụng, quy trình tín dụng không những đƣợc coi là các văn bản
chỉ đạo hoạt động và hƣớng dẫn hoạt động tín dụng hàng ngày, mà còn đƣợc coi là
một phƣơng thức để quản trị rủi ro tín dụng đang đƣợc các ngân hàng triển khai
hiện nay. Chính sách tín dụng, quy trình tín dụng giúp cho hoạt động phân tích tín
dụng phát triển trong tầm kiểm soát. Vì thông qua đó, hoạt động tín dụng đƣợc điều
tiết từ định hƣớng phát triển, chính sách ứng xử đối với khách hàng, các bƣớc thực
hiện nghiệp vụ tín dụng, ... theo đó chỉ ra trách nhiệm của từng ngƣời, từng bộ phận
liên quan đến hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Chính sách tín dụng quy định những nguyên tắc cơ bản chung nhất của hoạt
16
động tín dụng nhằm thống nhất hoạt động cấp tín dụng đối với các tổ chức và cá
nhân trong khuôn khổ mức rủi ro hợp lý.
Mỗi một ngân hàng có một chính sách tín dụng khác nhau phụ thuộc vào
điều kiện thị trƣờng, môi trƣờng chính sách vĩ mô, tuy nhiên đều có những nội
dung cơ bản sau:
- Chính sách tín dụng đƣợc xây dựng trên những cơ sở nhất định nhƣ: các
quy định của pháp luật, của NHTW về hoạt động tín dụng; định hƣớng chiến
lƣợc dài hạn của ngân hàng; phƣơng châm kinh doanh đảm bảo an toàn, hiệu quả
và phát triển bền vững.
- Phân cấp quản lý ƣu tiên khách hàng và đối tƣợng khách hàng theo từng
vùng địa lý theo chiến lƣợc của ngân hàng. Quy định những trƣờng hợp khuyến
khích, hạn chế cho vay, thận trọng trong cho vay, không cho vay.
- Xây dựng một chính sách tín dụng an toàn, hiệu quả và toàn diện với
một hoặc một số nhóm khách hàng. Để ra quyết định quan hệ tín dụng đối với
một đối tƣợng khách hàng, ngân hàng phải phân tích tình hình khách hàng một
cách toàn diện. Phải căn cứ vào danh mục tín dụng ngân hàng: loại tín dụng, kỳ
hạn tín dụng, độ lớn tín dụng và chất lƣợng tín dụng.
- Phân cấp thẩm quyền cho vay đến từng cán bộ tín dụng, không phải cán
bộ tín dụng nào cũng đƣợc phụ trách và quản lý các khoản vay với mức dƣ nợ
cao, nhà quản lý phải sắp xếp và phân loại đội ngũ cán bộ tín dụng theo nhóm và
phân cấp hạn mức cho cán bộ tín dụng. Mặt khác, phân cấp hạn mức tới từng đơn
vị, tùy vào khả năng và tình hình hoạt động của từng đơn vị mà phân cấp hạn
mức cho phù hợp.
- Quy trình xử lý công việc, phân cấp chịu trách nhiệm trong công việc và
báo cáo thông tin trong nội bộ phòng tín dụng.
- Quy trình tiếp nhận, kiểm tra và ra quyết định đối với đơn xin vay của
khách hàng. Quy trình thẩm định phải đảm bảo tính khoa học đồng thời hạn chế
đƣợc rủi ro.
- Danh mục các loại tài sản có thể chấp nhận làm tài sản đảm bảo và
17
những loại tài sản không đƣợc ngân hàng chấp nhận làm tài sản đảm bảo.
* Chính sách quản trị rủi ro tín dụng
Để đạt mục tiêu quản trị RRTD đề ra, các ngân hàng cần thiết lập cho mình
chính sách quản trị rủi ro tín dụng phù hợp. Các chính sách này là hệ thống các
quan điểm, biện pháp, công cụ do Hội đồng quản trị đề ra trên cơ sở đề nghị của
Tổng giám đốc (Giám đốc) nhằm mục tiêu quản lý tốt dƣ nợ và RRTD. Vấn đề thiết
lập chính sách quản trị RRTD phải đảm bảo rằng các rủi ro trọng yếu sớm đƣợc
nhận dạng, đƣợc đo lƣờng, kiểm soát đầy đủ và đƣợc báo cáo kịp thời cho Hội đồng
quản trị, Ban Kiểm soát và Ban điều hành.
RRTD khi đã đƣợc xác định cần phải đƣợc phân tích, đo lƣờng và đƣa ra các
biện pháp phù hợp để quản lý và theo dõi. Cũng trong quá trình quản lý theo dõi, hệ
thống quản trị phải có khả năng xác định tìm ra nguy cơ rủi ro mới và khi đó công
việc của quản trị đƣợc lặp lại.
Chính sách quản trị rủi ro tín dụng bao gồm: chính sách về cơ cấu tổ chức bộ
máy; chính sách quản lý tín dụng; chính sách thẩm định tín dụng, kiểm tra, kiểm
soát; chính sách đo lƣờng rủi ro tín dụng, chính sách xử lý nợ có vấn đề.
1.3.3. Mô hình quản trị rủi ro tín dụng
Mô hình quản trị rủi ro tín dụng chính là hệ thống các mô hình bao gồm mô
hình tổ chức quản trị rủi ro, mô hình đo lƣờng rủi ro và mô hình kiểm soát rủi ro
đƣợc xây dựng và vận hành một cách đầy đủ, toàn diện và liên tục trong hoạt động
quản lý tín dụng của ngân hàng. Mô hình quản lý rủi ro tín dụng phản ánh một cách
hệ thống các vấn đề về cơ chế, chính sách, quy trình nghiệp vụ nhằm thiết lập các
giới hạn hoạt động an toàn và các chốt kiểm soát rủi ro trong một quy trình thực
hiện nghiệp vụ; các công cụ đo lƣờng, phát hiện rủi ro; các hoạt động giám sát sự
tuân thủ và nhận diện kịp thời các loại rủi ro mới phát sinh và các phƣơng án, biện
pháp chủ động phòng ngừa, đối phó một khi có rủi ro xảy ra.
Mô hình quản trị RRTD phải hƣớng vào việc đảm bảo hiệu quả của hoạt
động tín dụng và không ngừng nâng cao chất lƣợng hoạt động tín dụng của NHTM
ngay cả trong khi điều kiện thị trƣờng đầy biến động, nguy cơ rủi ro không ngừng
18
tăng. Hiện nay ở Việt Nam đang có hai mô hình phổ biến đƣợc áp dụng. Đó là mô
hình quản lý rủi ro tín dụng tập trung và mô hình quản lý rủi ro tín dụng phân tán.
Mô hình quản trị rủi ro tín dụng tập trung
Mô hình quản trị RRTD tập trung là công tác thẩm định khách hàng, quản trị
rủi ro của ngân hàng đƣợc tập trung ở hội sở chính hoặc theo vùng, miền. Các chi
nhánh chỉ thẩm định sơ qua hoặc scan hồ sơ về hội sở chính để ra quyết định. Mô
hình này có sự tách biệt một cách độc lập giữa 3 chức năng: quản lý rủi ro, kinh
doanh và tác nghiệp. Sự tách biệt giữa 3 chức năng nhằm mục tiêu hàng đầu là giảm
thiểu rủi ro ở mức thấp nhất đồng thời phát huy đƣợc tối đa kỹ năng chuyên môn
của từng vị trí cán bộ làm công tác tín dụng.
* Điểm mạnh:
Áp dụng mô hình này ngân hàng sẽ: quản trị rủi ro một cách hệ thống trên
quy mô toàn ngân hàng, đảm bảo tính cạnh tranh lâu dài; Thiết lập và duy trì môi
trƣờng quản lý rủi ro đồng bộ, phù hợp với quy trình quản lý gắn với hoạt động của
các bộ phận kinh doanh nâng cao năng lực đo lƣờng giám sát rủi ro; Xây dựng
chính sách quản lý rủi ro thống nhất cho toàn hệ thống; Tách biệt hoàn toàn, độc lập
chứng năng kinh doanh, tác nghiệp, quản lý RRTD.
* Điểm yếu:
Việc xây dựng và triển khai mô hình quản lý tập trung này đòi hỏi phải đầu
tƣ nhiều công sức và thời gian; Cần phải có phần mềm hỗ trợ cho việc tổng hợp,
phân loại số liệu từ chi nhánh lên Hội sở chính và theo các tiêu chí nhất định; Đội
ngũ cán bộ phải có kiến thức cần thiết và biết áp dụng lý thuyết vào thực tiễn.
* Mô hình quản trị RRTD tập trung thích hợp với ngân hàng quy mô lớn.
Mô hình quản trị rủi ro tín dụng phân tán
Mô hình quản trị RRTD phân tán là công tác thẩm định khách hàng, quản trị
rủi ro của ngân hàng đƣợc thực hiện tại các chi nhánh riêng biệt. Hội sở chính chỉ
có nhiệm vụ chỉ đạo, định hƣớng chung và thẩm định những khách hàng vƣợt quá
khả năng cho phép của chi nhánh. Mô hình này chƣa có sự tách bạch giữa chức
năng quản lý rủi ro, kinh doanh và tác nghiệp. Trong đó, phòng tín dụng của ngân
19
hàng thực hiện đầy đủ 3 chức năng và chịu trách nhiệm đối với mọi khâu chuẩn bị
cho một khoản vay.
* Điểm mạnh: Cơ cấu tổ chức đơn giản, gọn nhẹ; Giải quyết hồ sơ nhanh, tiết
kiệm thời gian cho khách hàng; Xây dựng và triển khai mô hình quản trị RRTD
phân tán không mất nhiều công sức và thời gian;
* Điểm yếu: Nhiều công việc tập trung hết một nơi, thiếu sự chuyên sâu;
Không có sự tách biệt hoàn toàn, độc lập chức năng kinh doanh, tác nghiệp, quản trị
RRTD; Việc quản lý hoạt động tín dụng đều theo phƣơng thức từ xa dựa trên số liệu
chi nhánh báo cáo lên hoặc quản lý gián tiếp thông qua chính sách tín dụng dẫn đến
việc quản trị RRTD gặp nhiều khó khăn.
* Mô hình quản trị RRTD phân tán thích hợp với ngân hàng quy mô nhỏ.
Định hướng áp dụng mô hình quản lý rủi ro
Xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn của hoạt động tín dụng, theo khuyến cáo của
Ủy ban Basel và tuân thủ thông lệ quốc tế, căn cứ vào các điều kiện chung về pháp
lý, thị trƣờng, công nghệ, con ngƣời, mô hình các NHTM Việt Nam khuyến nghị
nên áp dụng mô hình quản trị rủi ro tập trung.
Tại Hội sở chính: Tách bạch chức năng ra quyết định tín dụng với chức năng
quản lý tín dụng trên cơ sở phân định trách nhiệm và chức năng rõ ràng giữa các bộ
phận thẩm định, phê duyệt tín dụng, quản lý tín dụng, quản lý rủi ro tín dụng.
Tại chi nhánh: Tiến hành tách các bộ phận, chức năng bán hàng (tiếp xúc
khách hàng, tiếp thị, ), chức năng phân tích tín dụng (phân tích, thẩm định, dự
báo, đánh giá khách hàng, ) và chức năng tác nghiệp (xử lý hồ sơ, theo dõi, giám
sát khoản vay, thu nợ, thu lãi, ).
Với mô hình này, bộ phận quan hệ khách hàng chịu trách nhiệm tìm kiếm,
phát triển và chăm sóc khách hàng. Bộ phận này sẽ tìm hiểu nhu cầu của khách
hàng, hƣớng dẫn khách hàng hoàn thiện hồ sơ vay vốn, sau đó chuyển toàn bộ hồ sơ
và các thông tin liên quan đến khách hàng cho bộ phận phân tích tín dụng.
Bộ phận phân tích tín dụng kiểm tra thông tin, thu thập các thông tin bổ
sung qua các kênh thông tin lƣu trữ ngân hàng, hỏi tin qua CIC, tìm hiểu trên các
20
phƣơng tiện thông tin đại chúng, Trên cơ sở thông tin đó, bộ phận phân tích tín
dụng thực hiện phân tích, đánh giá toàn bộ các nội dung từ tình hình chung về
khách hàng, tình hình tài chính, phƣơng án, dự án vay vốn đến các nội dung về
đảm bảo tiền vay. Bộ phận phân tích tín dụng trực tiếp báo cáo kết quả, phân tích
đánh giá khách hàng lên ngƣời phê duyệt tín dụng. Kết quả phê duyệt tín dụng sau
đó sẽ đƣợc chuyển cho bộ phận phân tích tín dụng để lƣu trữ thông tin đồng thời
đƣợc chuyển cho bộ phận quan hệ khách hàng để thực hiện các khâu tiếp theo
trong quy trình tín dụng.
1.3.4. Quy trình quản trị rủi ro tín dụng
Quy trình quản lý RRTD tại các NHTM đƣợc thể hiện tóm tắt qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1: Quy trình quản lý rủi ro tín dụng
Nguồn: Chrinko R.S Guill (2000, “A framework for assessing credit risk in
depository institution”)
Theo sơ đồ, mặc dù quy trình quản trị rủi ro đƣợc phân thành 4 giai đoạn,
nhƣng các khâu trong quy trình này lại luôn có mối liên hệ gắn bó với nhau và tạo
thành một chu trình khép kín để đảm bảo kiểm soát đƣợc rủi ro theo mục tiêu đã đề
ra. Cụ thể các giai đoạn nhƣ sau:
1.3.4.1. Nhận diện rủi ro tín dụng
Nhận dạng rủi ro tín dụng là một nội dung quan trọng trong quản trị rủi ro tín
dụng. Cần phải nhận dạng và phát hiện sớm những khoản vay xuất hiện rủi ro để từ
đó có những biện pháp phòng ngừa và xử lý kịp thời để tránh tổn thất cho ngân
hàng. Rất nhiều quan điểm cho rằng, rủi ro tín dụng chỉ xảy ra khi khoản vay đã
Nhận biết
RRTD
Đo lƣờng
RRTD
Kiểm soát và
ngăn ngừa
RRTD
Xử lý RRTD
21
đƣợc đồng ý và giải ngân. Tuy nhiên, nếu nhƣ quá trình thẩm định một khoản trƣớc
khi cho vay mà không tốt sẽ dẫn đến rủi ro và có thể dẫn đến mất gốc và lãi của
khoản vay. Do vậy, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn: “Nhận dạng rủi ro tín
dụng là một quá trình xuyên suốt và liên tục từ lúc NH thẩm định khoản vay của KH
cho đến khi KH hoàn trả cả vốn gốc và lãi đầy đủ cho NH; rủi ro tín dụng xuất hiện
nếu có dấu hiệu cho thấy khả năng KH không trả nợ đúng, đủ cho NH”.
* Thứ nhất, nhận dạng rủi ro trước khi cho vay
Nhận dạng rủi ro trƣớc khi cho vay đƣợc thể hiện qua hoạt động thẩm định
các khoản cho vay. Đây là bƣớc quan trọng khi đƣa ra quyết định cho vay KH. Việc
thẩm định các khoản cho vay bao gồm thẩm định các thông tin tài chính và thông
tin phi tài chính của KH.
- Các chỉ tiêu phi tài chính: Đây là tiêu chí không lƣợng hóa bằng con số mà
phản ánh tính chất đặc điểm c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 00050008175_0414_2002842.pdf