Mục lục
Trang
Lời nói đầu 1
Chương 1. khái quát chung về phần mềm máy tính và các
văn bản pháp luật có liên quan
5
1.1. Khái niệm về phần mềm máy tính 5
1.2. Các loại phần mềm máy tính được bảo hộ theo quy định của
pháp luật Việt Nam
7
1.2.1. Các loại phần mềm máy tính 7
1.2.2. Các loại phần mềm máy tính được bảo hộ theo quy định
của pháp luật Việt Nam
9
1.3. Các văn bản pháp luật hiện hành của Việt Nam quy định về
quyền tác giả đối với phần mềm máy tính
10
1.3.1. Pháp luật trong nước 11
1.3.2. Hiệp định song phương 15
1.3.3. Bản ghi nhớ 16
1.4. Quyền tác giả đối với phần mềm máy tính theo qui định của một
số Công uớc, Hiệp ước quốc tế
17
1.4.1. Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật 17
1.4.2. Hiệp ước của WIPO về quyền tác giả (WCT- WIPO
copyright treaty)
17
1.4.3. Thoả thuận về những khía cạnh liên quan tới thương mại
của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định Trips)
18
1.5. Quyền tác giả đối với phần mềm máy tính theo qui định của
một số nước trên thế giới
19
1.5.1. Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa 19
1.5.2. Cộng hoà Singapore 20
1.5.3. Vương quốc Thụy Điển 20
1.5.4. Hợp chủng quốc Hoa Kỳ 21
1.5.5. Một số quốc gia khác 22
Chương 2. Quyền tác giả đối với phần mềm máy tính theo
qui định của pháp luật việt nam – thực tiễn bảo hộ quyền
tác giả đối với phần mềm máy tính
23
2.1. Các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về quyền tác
giả đối với phần mềm máy tính
23
2.1.1. Chủ thể quyền tác giả đối với phần mềm máy tính 23
2.1.2. Nội dung quyền tác giả đối với phần mềm máy tính 252.1.3. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả đối với phần mềm máy tính 35
2.1.4. Thừa kế quyền tác giả đối với phần mềm máy tính 35
2.1.5. Các hành vi xâm hại quyền tác giả đối với phần mềm máy tính 36
2.1.6. Một số biện pháp xử lý hành vi xâm hại quyền tác giả đối
với phần mềm máy tính
75 trang |
Chia sẻ: Thành Đồng | Ngày: 11/09/2024 | Lượt xem: 22 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quyền tác giả đối với phần mềm máy tính một số vấn đề lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chủ sở hữu quyền tác
giả đã bán, hay nói cách khác là chủ sở hữu đã chuyển giao quyền sở hữu một
bản sao cụ thể của PMMT thì chủ sở hữu bản sao PMMT đó có thể tùy ý sử
dụng bản sao mà không cần phải xin phép chủ sở hữu bản quyền, thậm chí có
thể bán lại bản sao đó.
Phần mềm máy tính là một loại hàng hóa đặc biệt, được bảo hộ theo quy
định của Công ước, Hiệp ước quốc tế và pháp luật quốc gia về quyền tác giả.
Pháp luật Việt Nam cho phép chủ sở hữu PMMT được quyền nhập khẩu bản
gốc hoặc bản sao phần mềm. Để tránh được tình trạng vi phạm bản quyền phần
mềm và kiểm soát được hàng hoá lưu thông, các cơ quan chức năng có thẩm
quyền được quyền kiểm tra, xử lý các hành vi vi phạm của tổ chức, cá nhân
xâm phạm quyền tác giả đối với PMMT nhập khẩu. Chủ sở hữu PMMT đã được
bảo hộ theo quy định của pháp luật Việt Nam có quyền đề nghị cơ quan hải
quan tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với PMMT xuất, nhập khẩu mà có căn
cứ cho rằng có vi phạm quyền sở hữu trí tuệ. Cơ quan hải quan có quyền tạm
dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất, nhập khẩu khi có yêu cầu bảo
vệ quyền SHTT.
+ Quyền truyền đạt phần mềm máy tính đến công chúng
Pháp luật Việt Nam cho phép chủ sở hữu tác phẩm có quyền truyền đạt
tác phẩm đến công chúng dưới bất kỳ phương tiện và cách thức nào. Theo đó thì
33
chủ sở hữu PMMT có quyền trưng bày, giới thiệu... cho công chúng biết PMMT
dưới những hình thức như hội thảo, toạ đàm, phòng trưng bày... Để thực hiện
quyền này đòi hỏi phải được sự đồng ý của chủ sở hữu PMMT. Quyền kiểm
soát hoạt động này không chỉ vì quyền lợi của chủ sở hữu quyền tác giả mà còn
vì lợi ích của những người được tác giả cho phép, ví dụ như khi những người
khác muốn tổ chức công diễn một phần mềm trước công chúng trong khi dự
định cho việc xây dựng phần mềm chỉ “hạn chế ứng dụng” trong một lĩnh vực
cụ thể.
+ Quyền cho thuê bản gốc hoặc bản sao phần mềm máy tính
Quyền cho thuê bản gốc hoặc bản sao PMMT là quyền được thừa nhận
rộng rãi, được quy định trong Hiệp định Trips và quy định trong BLDS 2005 và
Luật SHTT. Quyền cho thuê này xuất phát từ việc những tiến bộ của khoa học
kỹ thuật đã khiến cho việc sao chép PMMT khá dễ dàng. Thực tế đã cho thấy
khách hàng của những nơi cho thuê đã tạo ra những bản sao, vì vậy quyền giám
sát hoạt động cho thuê là cần thiết để ngăn chặn việc xâm phạm đến quyền sao
chép, nhân bản của chủ sở hữu PMMT.
Trong giới chuyên môn CNTT, hầu như ai cũng biết hệ quản trị cơ sở dữ
liệu ORACLE là một hệ quản trị cơ sở dữ liệu “rất mạnh”, có rất nhiều tính
năng ưu việt trong việc quản trị dữ liệu. Tuy nhiên không phải cơ quan, đơn vị
hay cá nhân nào cũng có đủ kinh phí để mua bản quyền sử dụng hệ quản trị cơ
sở dữ liệu này. Khi đó việc cho thuê bản gốc hoặc bản sao PMMT là một giải
pháp được các bên chấp nhận, đã được pháp luật thừa nhận về mặt pháp lý. Các
bên có thể thoả thuận về thời gian thuê, địa điểm cài đặt, số lượng cài đặt... và
giá cho thuê, hoặc áp dụng theo các quy định của pháp luật.
2.1.2.3. Các quyền khác của tác giả, chủ sở hữu phần mềm máy tính
Luật SHTT cho phép việc chuyển nhượng quyền tác giả đối với PMMT.
Đối với quyền nhân thân thì chỉ có quyền chuyển nhượng quyền công bố
PMMT hoặc cho phép người khác công bố PMMT và được quyền chuyển
nhượng toàn bộ quyền tài sản. Trong cả hai trường hợp đều phải được phép của
chủ sở hữu PMMT mới được chuyển giao quyền sở hữu cho tổ chức, cá nhân
theo hình thức hợp đồng hoặc quy định của pháp luật có liên quan (khoản 1,
Điều 45). Pháp luật hiện hành không cho phép chuyển nhượng quyền nhân thân
trừ quyền công bố PMMT (khoản 2, Điều 45 Luật SHTT).
34
Tác giả, chủ sở hữu PMMT cũng có quyền nộp đơn và hồ sơ cho cơ quan
nhà nước có thẩm quyền để đăng ký quyền tác giả đối với phần mềm do mình là
tác giả hoặc chủ sở hữu (khoản 1, Điều 49, Luật SHTT).
Ngoài ra thì tác giả, chủ sở hữu PMMT cũng có quyền tự bảo vệ hay yêu
cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ khi có những hành vi xâm phạm
bản quyền; yêu cầu hoặc khiếu nại thanh tra chuyên ngành văn hoá - thông tin
xem xét, giải quyết theo thẩm quyền; yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền
áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính (tạm giữ người;
tạm giữ hàng hoá, tang vật, phương tiện vi phạm; khám người; khám phương tiện
vận tải, đồ vật; khám nơi cất giấu hàng hoá, tang vật, phương tiện vi phạm; các
biện pháp khác); khởi kiện ra toà án hoặc trọng tài để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình; yêu cầu toà án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời
(thu giữ; kê biên; niêm phong; cấm thay đổi hiện trạng; cấm di chuyển; cấm
chuyển dịch quyền sở hữu; các biện pháp khác); ...
Tóm lại, qua việc xem xét, tìm hiểu và phân tích các quyền của tác giả,
chủ sở hữu PMMT, chúng ta thấy rằng nếu tác giả đồng thời là chủ sở hữu
PMMT sẽ có đầy đủ các quyền nhân thân và các quyền tài sản đối với PMMT
của mình. Đây là chủ thể có các quyền nhân thân và quyền tài sản rộng rãi và
toàn diện nhất, bởi họ đã tham gia vào quan hệ pháp luật về quyền tác giả với tư
cách vừa là tác giả, vừa là chủ sở hữu tác phẩm. Trường hợp tác giả không đồng
thời là chủ sở hữu PMMT thì quyền được hưởng các quyền nhân thân và tài sản
bị hạn chế hơn nhiều, chủ yếu là bị hạn chế các quyền tài sản. Còn trường hợp
chủ sở hữu không đồng thời là tác giả PMMT cũng bị hạn chế nhiều tại các
quyền nhân thân không thể dịch chuyển.
Các quyền nhân thân của tác giả trong nội dung quyền tác giả PMMT
được pháp luật hiện hành quy định luôn gắn liền với tác giả không đồng thời là
chủ sở hữu tác phẩm và không thể chuyển giao cho người khác. Theo đó thì chỉ
có tác giả không đồng thời là chủ sở hữu phần mềm hoặc chủ sở hữu phần mềm
đồng thời là tác giả mới có các quyền này. Việc pháp luật hiện hành quy định
như vậy giúp công nhận địa vị của tác giả và bảo hộ quyền lợi hợp pháp của tác
giả, khuyến khích các hoạt động sáng tạo cũng như đảm bảo lợi ích của các chủ
thể, quy định rõ quyền lợi và nghĩa vụ của người sáng tạo tác phẩm, người sử
dụng tác phẩm v.v... Tuy nhiên qua một số vụ việc đã xảy ra trên thực tế cho
35
thấy, việc quy định “cứng” các quyền nhân thân không thể chuyển dịch này có
thể là “trở ngại” đối với một số công ty sản xuất phần mềm trong nước mà với
tư cách họ là chủ sở hữu tác phẩm. Những “trở ngại” này chính là mối quan hệ
giữa những yêu cầu bảo vệ quyền tác giả và việc kinh doanh, phát triển phần
mềm của doanh nghiệp mình.
2.1.3. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả đối với phần mềm máy tính
Pháp luật về quyền tác giả của Việt Nam quy định về thời hạn bảo hộ
quyền tác giả nhằm hướng tới việc bảo vệ các quyền, lợi ích thiết thực cho tác giả,
người thừa kế của tác giả đồng thời hướng tới lợi ích chung của toàn xã hội. Thời
hạn bảo hộ quyền tác giả là khoảng thời gian do pháp luật quy định, trong đó các
quyền của tác giả và của người thừa kế quyền tác giả được Nhà nước bảo vệ.
Theo quy định của Luật SHTT, thời gian bảo hộ của quyền tác giả đối với
PMMT là suốt đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết, còn
trong trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào
năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết (điểm b, khoản 2, Điều
27, Luật SHTT).
2.1.4. Thừa kế quyền tác giả đối với phần mềm máy tính
Tác giả được hưởng các quyền liên quan đến tác phẩm trong suốt cuộc
đời của mình. Các quyền này được chuyển dịch cho những người thừa kế của
tác giả (trừ các quyền nhân thân không chuyển dịch) khi tác giả chết.
- Nếu tác giả đồng thời là chủ sở hữu PMMT thì khi họ chết, người thừa
kế của họ sẽ được thừa kế các quyền sau đây:
+ Quyền công bố, phổ biến tác phẩm, hoặc cho người khác công bố, phổ
biến PMMT;
+ Quyền cho hoặc không cho người khác sử dụng PMMT;
+ Quyền khởi kiện khi có hành vi xâm phạm sự toàn vẹn của PMMT;
+ Quyền hưởng tiền nhuận bút, thù lao khi PMMT được sử dụng;
+ Hưởng lợi ích vật chất từ việc cho người khác sử dụng PMMT dưới
các hình thức khác nhau;
+ Nhận giải thưởng khi PMMT được giải;
36
- Nếu tác giả không đồng thời là chủ sở hữu PMMT chết thì người thừa
kế của họ được thừa kế các quyền về tài sản sau đây:
+ Quyền khởi kiện khi có hành vi xâm phạm sự toàn vẹn của PMMT;
+ Tiền nhuận bút, thù lao khi PMMT được sử dụng.
+ Nhận giải thưởng khi PMMT đoạt giải.
Nếu người thừa kế của tác giả chết trước khi hết thời hạn bảo hộ thì người
thừa kế của người đó được hưởng các quyền nói trên cho đến hết thời hạn bảo hộ.
Trong những trường hợp tác giả chết mà không có người thừa kế hoặc có
nhưng người thừa kế từ chối nhận di sản hoặc không được quyền hưởng di sản
thì các quyền nói trên thuộc về Nhà nước.
2.1.5. Các hành vi xâm phạm quyền tác giả đối với phần mềm máy tính
Các hành vi xâm phạm quyền tác giả đối với PMMT được xác định bao
gồm các hành vi cơ bản sau:
- Chiếm đoạt quyền tác giả;
- Không tham gia phát triển PMMT nhưng đề tên mình vào PMMT (mạo
danh tác giả);
- Chưa được sự đồng ý của người giữ quyền tác giả PMMT đã đem PMMT
ra công bố, phân phối, phát hành (công bố, phân phối, phát hành tác phẩm mà
không được phép của tác giả, đồng tác giả hay chủ sở hữu quyền tác giả);
- Chưa được sự đồng ý của tác giả hoặc người giữ quyền tác giả PMMT
đã sửa chữa, cắt xén, xuyên tạc (bảo vệ sự vẹn toàn tác phẩm mà không được sự
đồng ý của tác giả);
- Chưa được sự đồng ý của tác giả hoặc người giữ quyền tác giả PMMT
đã sao chép, dịch, chú giải, sao in... (làm tác phẩm phái sinh mà không được sự
đồng ý của tác giả hay chủ sở hữu quyền tác giả);
- Sử dụng PMMT mà không được sự đồng ý của tác giả, chủ sở hữu phần
mềm; không trả tiền nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác (sử dụng tác
phẩm mà không được sự đồng ý của tác giả, chủ sở hữu quyền tác tác giả);
- Chưa được sự đồng ý của tác giả hoặc người giữ quyền tác giả PMMT
đã cho thuê PMMT;
37
- Chưa được sự đồng ý của tác giả hoặc người giữ quyền tác giả PMMT
đã xuất khẩu, nhập khẩu, phân phối bản sao PMMT.
2.1.6. Một số biện pháp xử lý khi xâm phạm quyền tác giả đối với phần
mềm máy tính
Có một số hình thức xử lý có thể áp dụng khi có các hành vi xâm hại
quyền tác giả đối với PMMT, đó là: hoà giải; xử lý hành chính; xử lý hình sự;
trọng tài và tư pháp.
Sau khi có sự tranh chấp, vi phạm về quyền tác giả PMMT, cơ quan chức
năng có thể yêu cầu hoà giải hoặc các bên tự hoà giải với nhau. Các bên cũng
có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền hoà giải, hoặc có thể mời trọng tài
giải quyết theo các điều khoản đã ký kết trong hợp đồng. Nếu trong hợp đồng
không có điều khoản trọng tài thì hai bên có thể thương lượng để có trọng tài.
Các bên có thể khởi kiện vụ việc tại toà án nhân dân cấp có thẩm quyền xét xử.
Căn cứ vào tính chất, mức độ vụ việc xâm phạm quyền tác giả đối với
PMMT mà cơ quan chức năng có thể áp dụng hình thức xử lý hành chính (như
áp dụng hình thức phạt tiền) hoặc hình thức phạt bổ sung (tịch thu tang vật,
phương tiện vi phạm).
Còn nếu các hành vi xâm phạm quyền tác giả đối với PMMT mà gây hậu
quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử lý hành chính về một trong những hành vi quy
định hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì cơ
quan chức năng có thể áp dụng hình thức xử lý hình sự.
2.2. Cơ chế thực thi quyền tác giả đối với phần mềm máy tính
2.2.1. Khái niệm về thực thi quyền tác giả đối với phần mềm máy tính
Như đã đề cập, quyền tác giả bao gồm các quyền tài sản và quyền nhân
thân. Thực thi quyền tác giả được hiểu là các phương thức, biện pháp, phương
tiện nhằm mục đích bảo vệ quyền của tác giả, quyền của các chủ thể hưởng
quyền khác trong việc hưởng các quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác
phẩm do chính tác giả sáng tạo ra. Việt Nam hiện đang nỗ lực trong việc thực
thi quyền tác giả, đáp ứng các yêu cầu của tình hình phát triển kinh tế - xã hội
đất nước cũng như quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Thực thi quyền tác giả
đối với PMMT cũng không thể tách rời thực thi quyền tác giả nói chung. Tuy
nhiên, cũng cần nhìn nhận rằng vấn đề bảo hộ quyền tác giả đối với PMMT còn
38
mới mẻ ở Việt Nam, mang nhiều tính đặc thù hơn so với các loại hình tác phẩm
được bảo hộ về quyền tác giả khác.
2.2.2. ý nghĩa của việc thực thi quyền tác giả đối với phần mềm máy tính
Thực thi quyền tác giả, quyền tác giả đối với PMMT có những ý nghĩa cơ
bản sau đây:
1/ Thông qua việc pháp luật công nhận địa vị của tác giả và bảo hộ quyền
lợi hợp pháp của tác giả;
2/ Khuyến khích các hoạt động sáng tạo chung;
3/ Đảm bảo lợi ích của các chủ thể, quy định rõ quyền lợi và nghĩa vụ
của người sáng tạo tác phẩm, người sử dụng tác phẩm;
4/ Bảo vệ các nhà sản xuất phần mềm và ngành công nghiệp phần mềm;
5/ Tạo ý thức coi trọng giá trị sáng tạo, tạo thói quen tuân thủ pháp luật;
6/ Nâng cao uy tín Việt Nam trên trường quốc tế, đảm bảo cho việc hội
nhập quốc tế;
7/ Tôn vinh bản sắc nền văn hoá, thuần phong mỹ tục Việt Nam;
8/ Điều chỉnh quan hệ giữa tác giả và người sử dụng, xử lý tranh chấp
bản quyền.
2.2.3. Pháp luật về thực thi quyền tác giả đối với phần mềm máy tính
Các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về quyền tác giả đã cơ
bản bản đáp ứng được yêu cầu bảo hộ quyền tác giả nói chung, thực thi các
Hiệp định song phương về quyền tác giả và thương mại và cơ bản thoả mãn theo
yêu cầu chung của quốc tế, đặc biệt là WTO. Luật SHTT được Quốc hội biểu
quyết thông qua với số phiếu gần như tuyệt đối (368 phiếu/370 đại biểu) là sự
kiện pháp lý và văn hoá quan trọng, là bước ngoặt mới trong hoạt động bảo hộ
quyền tác giả tại Việt Nam nói chung và quyền tác giả đối với PMMT nói riêng.
Luật SHTT đã tạo ra một cơ chế pháp lý khác rõ ràng và hiệu năng với các quy
định về bảo vệ và thực thi quyền tác giả và các quyền liên quan với các cơ chế
xử lý vi phạm. Các tác giả và chủ sở hữu PMMT đã có đủ các biện pháp để bảo
vệ quyền của mình, bao gồm các biện pháp dân sự, hình sự và các biện pháp
hành chính.
39
Tuy nhiên, thực tế các doanh nghiệp phần mềm trong và ngoài nước vẫn
phải “hứng chịu” tình trạng vi phạm bản quyền tới 92% với các lý do như: các
quy định về bảo hộ SHTT chủ yếu nằm trên giấy, thực tế ít được thực hiện;
chậm ban hành các văn bản hướng dẫn; biện pháp thực thi chưa đúng; thiếu các
quy định về trình tự, thủ tục; phân định trách nhiệm của các cơ quan giám sát
chưa đồng nhất, và nhất là nhận thức của công chúng còn rất hạn chế trong việc
bảo vệ quyền tác giả...
2.2.4. Hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về quyền tác giả đối với
phần mềm máy tính
Theo quy định tại Điều 11, Luật SHTT thì Chính phủ thống nhất quản lý
Nhà nước về sở hữu trí tuệ. Bộ Khoa học và Công nghệ chịu trách nhiệm trước
Chính phủ, chủ trì, phối hợp với Bộ Văn hoá - Thông tin, Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn thực hiện quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ và thực hiện
quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp. Bộ Văn hoá -Thông tin trong
p
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_quyen_tac_gia_doi_voi_phan_mem_may_tinh_mot_so_van.pdf