MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU . 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH
PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP PHẠM NHIỀU TỘI . 6
1.1 Khái niệm, đặc điểm của trường hợp phạm nhiều tội . 6
1.1.1 Khái niệm phạm nhiều tội. 6
1.1.2 Đặc điểm của phạm nhiều tội . .
1.2 Khái niệm, ý nghĩa của quyết định hình phạt trong
trường hợp phạm nhiều tội. .
1.2.1 Khái niệm quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
. .
1.2.2 Đặc điểm của quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
. .
1.2.3 Ý nghĩa quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
. .
1.3 Nguyên tắc và căn cứ quyết định hình phạt trong trường
hợp phạm nhiều tội. .
1.3.1. Những nguyên tắc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm
nhiều tội. .
1.3.2. Căn cứ quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
.
1.4 Phân biệt quyết định hình phạt trong trường hợp phạm
nhiều tội với quyết định hình phạt trong trường hợp đặc
biệt . .
23 trang |
Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 651 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội theo luật hình sự Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÁP HOÀN THIỆN BLHS QUY ĐỊNH VỀ
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP PHẠM
NHIỀU TỘI VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG ....... Error!
Bookmark not defined.
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện BLHS quy định về quyết
định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội và nâng
cao hiệu quả áp dụng ............ Error! Bookmark not defined.
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện BLHS quy định về quyết
định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội ... Error!
Bookmark not defined.
3.2.1. Đưa khái niệm phạm nhiều tội vào quy định trong Bộ luật hình sự
......................................................... Error! Bookmark not defined.
3.2.2. Hoàn thiện quy định tại Điều 50 của Bộ luật hình sự .............. Error!
Bookmark not defined.
3.2.3. Hoàn thiện quy định của pháp luật đối với người chưa thành niên
phạm nhiều tội ................................. Error! Bookmark not defined.
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định
của BLHS về quyết định hình phạt trong trường hợp
phạm nhiều tội ...................... Error! Bookmark not defined.
3.3.1. Giải pháp về chuyên môn nghiệp vụError! Bookmark not
defined.
3.3.2. Giải pháp về tổ chức cán bộ ............ Error! Bookmark not defined.
3.3.3. Một số giải pháp khác ..................... Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN ........................................................ Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 11
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS Bộ luật hình sự
BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự
CTTP Cấu thành tội phạm
GCNQSDĐ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
GĐHP Quyết định hình phạt
TNHS Trách nhiệm hình sự
TANDTC Tòa án nhân dân tối cao
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyết định hình phạt là hoạt động rất quan trọng trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự, có vai trò quyết định sự đúng đắn, chính xác của bản án
hình sự. Nếu như hoạt động định tội danh nhằm làm rõ ai có tội hay không có
tội thì quyết định hình phạt chỉ ra mức độ tính chất nguy hiểm như phạm tội,
từ đó có những biện pháp và hình phạt tương ứng với tính chất và mức độ
nguy hiểm mà phạm tội gây ra nhằm giáo dục, răn đe giúp người phạm tội cải
tạo trở về với cộng đồng.
Phạm nhiều tội là một chế định rất phức tạp trong chế định đa nhiều tội
phạm. Hiện nay, trong BLHS 1999 chưa có quy định riêng về khái niệm phạm
nhiều tội mà chỉ được nhắc đến trong quy định tại Điều 50: “Quyết định hình
phạt trong trường hợp phạm nhiều tội”, mặt khác, về mặt lý luận cũng như
thực tiễn áp dụng quy định này còn tồn tại những quan điểm khác nhau về các
yếu tố định tội danh, căn cứ quyết định hình phạt trong trường hợp nhiều tội.
Hiện nay, cả nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại
hóa đất nước, thực hiện nền kinh tế thị trường, giao lưu hội nhập với các quốc
gia trong khu vực và trên thế giới.
Tuy nhiên, mặt trái của nền kinh tế thị trường kéo theo tình hình xã hội
ngày càng phức tạp, tội phạm ngày càng gia tăng, hành vi phạm tội ngày càng
nguy hiểm, đặc biệt hàng năm nhóm tội phạm và các trường hợp phạm nhiều
tội có dấu hiệu tăng đáng kể.
BLHS lần đầu tiên của nước ta, thông qua ngày 27/06/1985 và có hiệu
lực thi hành từ ngày 01/01/1986. Trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự
để phục vụ kịp thời công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trong từng giai
đoạn cụ thể. Nhà nước ta đã 4 lần sửa đổi, bổ sung bộ luật này. Đến ngày
21/12/1999, Quốc hội nước ta đã thông qua BLHS mới thay thế BLHS năm
1985. Muốn định tội danh và quyết định hình phạt đúng và chính xác trong
từng giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự. Điều tra viên, kiểm sát viên,
2
thẩm phán và hội thẩm nhân dân phải xác định đầy đủ chính xác các tình tiết
khách quan của vụ án, nhận thức, áp dụng đúng các quy định của pháp luật
hình sự. Qua thực tế giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố xét xử cho thấy việc
định tội danh và quyết định hình phạt thường gặp khó khăn và có nhiều sai
sót. Trong đó có quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội.
Thực tiễn xét xử của các tòa án ở nước ta hiện nay cho thấy còn có
những thiếu sót, hạn chế nhất định nhất là trong hoạt động quyết định hình
phạt trong nhiều trường hợp định tội danh sai hoặc bỏ lọt tội phạm dẫn đến
việc quyết định hình phạt không tương ứng với tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội (quá nặng hoặc quá nhẹ) hoặc oan sai,
trong đó số vụ án bị áp dụng hình phạt không chính xác trong trường hợp đặc
biệt (đa nhiều tội phạm, trong đó có phạm nhiều tội) chiếm tỷ lệ cao hơn so
với quyết định hình phạt trong trường hợp thông thường.
Trước sự đòi hỏi mới của cuộc đấu tranh phòng ngừa tội phạm việc
nghiên cứu về hoạt động quyết định hình phạt đối với chế định phạm nhiều tội
trong luật hình sự việt nam hiện nay có ý nghĩa quan trọng không những về
mặt lý luận mà còn là đòi hỏi của thực tiễn áp dụng nhằm đưa ra những giải
pháp hoàn thiện chế định này trong bộ luật hình sự Việt Nam. Chính vì vậy
việc nghiên cứu đề tài “Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm
nhiều tội theo luật hình sự Việt nam” có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và
thực tiễn đối với ngành Tòa án nhân dân nói riêng và các cơ quan tiến hành tố
tụng nói chung trong tình hình hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội là một đề tài khá mới,
hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cụ thể về đề tài này.
Một số công trình của các nhà khoa học mới chỉ tập trung đi sâu vào
một vấn đề hoặc là định tội danh hoặc là quyết định hình phạt trong trường
hợp phạm nhiều tội như:
- Quyết định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam trong sách “ Tội
phạm học luật hình sự và tố tụng hình sự” của PGS.TS Võ Khánh Vinh, NXB
Chính trị quốc gia,1995;
3
- “Quyết định hình phạt theo Luật hình sự Việt Nam” trong sách “Hình
phạt trong Luật hình sự Việt Nam’của PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa, NXB
Chính trị Quốc Gia, 1995;
Ngoài ra còn nhiều bài viết và những công trình nghiên cứu khác như:
- “ Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam”( Luận văn tiến
sĩ Luật học, HN, 2003) của tác giả Dương Tuyết Miên;
- “ Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam”( Luận văn thạc
sĩ Luật học, HN, 1996 của tác giả Trần Văn Sơn;
Nhìn chung các công trình trên mới đề cập đến một số khía cạnh cụ thể
có tính chất khái quát về quyết định hình phạt, mà chưa đi nghiên cứu vấn đè
quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội một cách toàn diện và
chi tiết cả về lý luận và thực tiễn. Vì vậy , đây vẫn là đề tài cần được tiếp tục
tìm hiểu và nghiên cứu.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ , phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu: Trên cơ sở phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật
hiện hành về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội, thực tiễn
áp dụng quy định các quy định này; từ đó đề xuất ý kiến hoàn thiện những
quy định đó, góp phần nâng cao hiệu quả của quyết định hình phạt;
Nhiệm vụ: Làm rõ những vấn đề chung về phạm nhiều tội, quyết định
hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội; đánh giá khái quát về quyết định
hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội. Phân tích những nội dung của các
quy định và đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của Luật hình sự hiện
hành về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội, từ đó đưa ra
kiến nghị và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật;
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu đề tài dưới góc độ Luật
hình sự, chủ yếu dựa trên cơ sở của BLHS 1999, sửa đổi , bổ sung 2009.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, định hướng của Đảng về chính sách
Hình Sự; quan điểm, đường lối xử lý tội phạm phạm nhiều tội;
4
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac – Leenin.
Một số phương pháp cụ thể như: phương pháp thống kê, phân tich và tổng
hợp số liệu dựa trên những bản án, quyết định, số liệu thống kê, báo cáo tổng
kết của các cấp Tòa án. Phương pháp so sánh pháp luật để đối chiếu với các
quy định của pháp luật với nha nhằm tìm ra những điểm mới trong quá trình
nghiên cứu.
5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
Trong công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay, việc nghiên cứu
để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết định hình phạt nói
chung và quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội nói riêng luôn
là một trong những hướng cơ bản, đồng thời cũng là một trong những nhiệm
vụ trọng tâm của khoa học luật hình sự. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng,
được thể hiện trên ba bình diện chủ yếu dưới đây:
- Về mặt lập pháp, bên cạnh các quy định hiện hành như BLHS năm
1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009, Bộ luật tố tụng hình sự 2003 thì các
quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội vẫn còn rời
rạc, nằm rải rác trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau như thông tư liên
tịch số 02/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Bộ tư pháp, Bộ công an, Nghị
quyết số 01/2001/NQ – HĐTP ngày 15/03/2001 của Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao dẫn đến việc thiếu thống nhất , thiếu đồng bộ trong việc
giải thích pháp luật.
- Về mặt thực tiễn, chính xuất phát từ thực tiễn quyết định hình phạt
trong trường hợp phạm nhiều tội trên địa bàn cả nước đã cho thấy sự yếu kém
của một bộ phận cán bộ , công chức trong việc nhận thức cũng như áp dụng
đúng đắn các quy định của pháp luật hình sự , dẫn đến hiệu quả của cuộc đấu
tranh phòng và chống tội phạm chưa cao, đôi khi còn bỏ lọt tội phạm, gây
thiệt hại cho các quyền và tự do của công dân, làm giảm hiệu quả của cuộc
đấu tranh chống tội phạm.
- Về mặt lý luận, vấn đề quyết định hình phạt đã được đề cập nhiều
trong các công trình nghiên cứu khác nhau, nhưng hiện chưa có một nghiên
cứu nào đề cập đến việc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều
tội giữa mối quan hệ tương quan của chúng với nhau.
Vì vậy:
5
- Thông qua việc nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ những khía cạnh pháp
lý về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội góp phần xây
dựng, hoàn thiện lý thuyết định tội danh và quyết định hình phạt trong khoa
học pháp lý hình sự.
- Là tài liệu tham khảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là Tòa án
trong việc quyết định hình phạt, giải quyết vụ án hình sự được đúng đắn.
6. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề lý luận về quyết định hình phạt trong
trường hợp phạm nhiều tội
Chương II: Các quy định của BLHS hiện hành về quyết định hình phạt
trong trường hợp phạm nhiều tội và thực tiễn áp dụng
Chương III: Một số giải pháp hoàn thiện BLHS quy định về quyết định
hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội và nâng cao hiệu quả áp dụng
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG
TRƯỜNG HỢP PHẠM NHIỀU TỘI
1.1 Khái niệm, đặc điểm của trường hợp phạm nhiều tội
1.1.1 Khái niệm phạm nhiều tội
Bộ luật hình sự Việt Nam quy định về tội phạm và trách nhiệm hình sự
của người phạm tội. Tội phạm quy định trong BLHS Việt Nam là tội phạm
riêng lẻ và các tội phạm được thực hiện có thể mang tính chất độc lập hoặc
liên quan đến nhau. Thực tế cho thấy rằng , trường hợp phạm nhiều tội xảy ra
rất nhiều trên thực tế với tính chất và mức độ nguy hiểm cao hơn rất nhiều so
với trường hợp phạm tội đơn lẻ. Do sự khác nhau về tính chất mức độ nguy
hiểm dẫn đến sự khác nhau về trách nhiệm hình sự giữa trường hợp phạm
nhiều tội và phạm tội đơn lẻ mà không đơn thuần chỉ là phép cộng hình phạt
thông thường.
Chính vì vậy, Ở 2 BLHS 1985 và BLHS 1999 đều đề cập và quy định
khá cụ thể về định tội danh và quyết định hình phạt liên quan đến trường hợp
phạm nhiều tội. Mặc dù vậy, cả hai Bộ luật hình sự này đều chưa đưa ra khái
niệm “ phạm nhiều tội’, do đó để có cơ sở pháp lý vững chắc cho việc định tội
danh và quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội ta cần phải xác
định khái niệm phạm nhiều tội.
Qua nghiên cứu và thực tiễn đã có tổng kết về khái niệm phạm nhiều
tội, “Phạm nhiều tội” gồm 2 khái niệm “ phạm tội” và “nhiều”. Trong đó
phạm tội là hành vi thỏa mãn cấu thành tội phạm được mô tả trong các quy
định của BLHS, nhiều được hiểu là từ hai trở lên.
Theo nghĩa này Từ điển luật học đã xây dựng khái niệm phạm nhiều tội
như sau: “ Chủ thể có nhiều hành vi phạm tội độc lập hoặc chỉ có một hành vi
mà hành vi đã thực hiện đó thỏa mãn cấu thành tội phạm khác nhau thì phạm
nhiều tội”[29, tr.45].
Theo nghĩa hẹp, phạm nhiều tội gắn với hoạt động định tội danh và
quyết định hình phạt và là một trường hợp đặc biệt của quyết định hình phạt.
7
Theo nghĩa này, điều 50 quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp
phạm nhiều tội và Điều 51 BLHS quy định về tổng hợp hình phạt của nhiều
bản án thì thời điểm đưa ra xét xử của các tội danh này khác nhau còn theo
Điều 50 khi đưa ra xét xử cùng một lần người phạm tội, do đó cần phải áp
dụng đúng quy định của BLHS về định tội danh và quyết định hình phạt trong
trường hợp phạm nhiều tội. Hiểu theo nghĩa như vậy thì Giáo trình Luật hình sự
Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội đã đưa ra khái niệm về phạm nhiều tội
như sau: “Phạm nhiều tội là trường hợp người có nhiều hành vi phạm tội hoặc chỉ
có một hành vi phạm tội nhưng thỏa mãn nhiều cấu thành tội phạm khác nhau và bị
đưa ra xét xử cùng một lần về các tội phạm đó”[31, tr.285].
Còn theo Luật hình sự một số nước trên thế giới, đã có nước đã đưa
khái niệm phạm nhiều tội vào quy định trong luật của nước mình. Ví dụ như
Điều 45 BLHS Nhật Bản quy định : “Phạm nhiều tội là trường hợp một
người thực hiện hai hoặc nhiều tội phạm mà đối với các tội đó chưa có bản
án có hiệu lực pháp luật của tòa án, khi bản án phạt tù không có quy định lao
động bắt buộc hoặc hình phạt nặng hơn của tòa án được tuyên đối với một tội
phạm đã có hiệu lực pháp luật thì chỉ có thội phạm đó và tội phạm khá được
thực hiện trước khi bản án nói trên có hiệu lực pháp luật mới tạo thành
trường hợp phạm nhiều tội”[3, tr.21]
Từ những phân tích nêu trên, có thể nêu lên khái niệm về phạm nhiều
tội một cách đầy đủ nhất là:
Trường hợp một chủ thể phạm từ hai tội trở lên hoặc khi hành vi của
người phạm tội có dấu hiệu của từ hai tội trở lên mà những tội ấy được quy
định tại các điều luật khác nhau (hoặc các khoản các khác nhau của cùng
một điều luật nếu các đối tượng của tội phạm khác nhau) được quy định trong
phần các tội phạm của BLHS và người phạm tội chưa bị xét xử về tội nào
trong số tội ấy.
* Phân biệt phạm nhiều tội với phạm tội nhiều lần
Xuất phát từ những quan điểm của các nhà nghiên cứu trong lý luận
cũng như thực tiễn áp dụng, sự nhầm lẫn giữa trường hợp phạm nhiều tội và
8
phạm tội nhiều lần đã xảy ra bởi chúng đều có những điểm chung. Tuy nhiên,
giữa chúng có sự khác biệt về chứng cứ pháp lý, nên để đưa ra một khái niệm
phản ánh chính xác nhất bản chất của “phạm nhiều tội” chúng ta cần nghiên
cứu phân biệt 02 trường hợp này như sau:
- Thứ nhất: Bản chất của phạm nhiều tội và phạm tội nhiều lần
Phạm tội nhiều lần Phạm nhiều tội
- Là một tình tiết tăng nặng
được quy định tại Điểm g khoản 1
Điều 48 phản ánh trường hợp người
phạm tội thực hiện hành vi ấy được
quy định tại cùng một điều luật
(hoặc cùng một khoản của Điều
tương ứng trong phần các tội phạm
của BLHS đồng thời với những tội
ấy vẫn còn thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự và người phạm tội
chưa bị xét xử). Như vậy người
phạm tội thực hiện từ 2 lần trở lên
hành vi phạm tội mà mỗi lần có đầy
đủ dấu hiệu của cấu thành tội phạm
cơ bản , nhưng lần thứ nhất chưa bị
phát hiện và chưa bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo mức độ tương
ứng với cấu thành tội phạm tăng
nặng hoặc đặc biệt tăng nặng.
VD: Các tội theo Khoản 2, 3
của một số Điều trong BLHS năm
1999, cũng như luật sửa đổi bổ sung
một số Điều của BLHS năm 2009,
- Là trường hợp một người
phạm vào hai tội khác nhau trở lên
có thể vào thời điểm khác nhau hoặc
cùng một thời điểm và tất cả những
lần phạm tội đó đều chưa bị truy cứu
trách nhiệm hình sự lần nào, nay đưa
ra truy cứu cùng một lần.
9
Điểm D khoản 2 Điều 111 (tội hiếp
dâm), điểm C khoản 3 Đ 112 (tội
hiếp dâm trẻ em), điểm b khoản 2
Điều 113 (tội cưỡng dâm) điểm b
khoản 3 Điều 114 (tội cưỡng dâm
trẻ em) điểm a khoản 2 Điều 115
(tội giao cấu với trẻ em). Điểm a
khoản 2 Điều 116 (tội dâm ô với trẻ
em), điểm d khoản 2 Điều 123 (tội bắt
giữ hoặc giam người trái pháp luật)
- Thứ hai: Khách thể xâm hại
Phạm tội nhiều lần Phạm nhiều tội
- Người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội xâm phạm vào một khách
thể (một quan hệ xã hội) mặc dù đối tượng
bị xâm hại (đối tượng tác động) có thể có
khác nhau.
VD: Nguyễn Quang Huy và Đặng
Hoài Thu mở quán Karaoke, tại đây Huy
và Loan đã bàn bạc nếu có khách mua
dâm được Huy đồng ý thì Loan sẽ bán
dâm cho khách mỗi lần thu được
100.000đ. Trong tháng 9/2010 Long đã 2
lần thực hiện hành vi chứa Lê Thị Loan
bán dâm cho khách tại buồng nhà riêng
của mình. Trong đó 1 lần vào sáng ngày
27/09/2010 và lần 2 vào sáng ngày
30/09/2010, lần 3 vào khoảng 20h ngày
30/09/2010 bán dâm cho Nguyễn Văn
- Người phạm tội thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội, xâm hại cho khách thể (các
quan hệ xã hội) khác nhau.
VD: Nguyễn Đình
Thung sau khi biết Đỗ Hoàng
Quân có hành vi ăn cắp tài
sản, Thung đã không thông
báo với cơ quan công an mà
còn che giấu, ngoài ra Thung
lại còn mua lại chiếc máy tính
xách tay của Quân để tiêu thụ.
Như vậy trong trường
hợp này Thung bị truy tố và
xét xử về hai tội là tội che giấu
tội phạm (Điều 313) và tội tiêu
10
Tiến bị công an Huyện B bắt quả tang. ở
đây hành vi của Long đã phạm tội “Chứa
mại dâm” với tình tiết là phạm tội nhiều
lần theo Điều 254 BLHS.
thụ tài sản do người khách
phạm tội mà có theo Điều 250
của BLHS năm 1999.
Thứ ba: Khi định tội danh và quyết định hình phạt
Phạm tội nhiều lần Phạm nhiều tội
- BLHS quy định phạm tội nhiều lần
được coi là tình tiết tăng nặng khi đưa ra
xét xử cùng một lúc (cùng một vụ án).
Nếu truy tố và xét xử ở các thời
điểm khác nhau thì khi định tội danh và
quyết định hình phạt không áp dụng tình
tiết tăng nặng là phạm tội nhiều lần mà
phải theo nguyên tắc tổng hợp hình phạt
của nhiều bản án theo Điều 51 BLHS.
Vụ án được đưa ra xét
xử cùng một vụ án, Hội đồng
xét xử xem xét định tội danh
và quyết định hình phạt đối
với từng tội, sau đó tổng hợp
hình phạt của bản án. Trên
thực tế khi xét xử, chúng ta
cũng cần phân tích hành vi
phạm tội của từng tội, xem có
thuộc trường hợp phạm tội
nhiều lần hay không thì áp
dụng tình tiết tăng nặng cho
tội đó (có thể áp dụng điểm g
cho khoản 1 Điều 48 BLHS
hoặc những tình tiết đã là yếu
tố định tội hoặc định khung
hình phạt thì không được coi
là tình tiết tăng nặng). Sau đó
quyết định hình phạt chung
cho các tội đối với bị cáo.
[51, tr.15-16].
11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ chính trị (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của
Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm trong công tác tư pháp trong thời
gian tới, Ban chấp hành trung ương Đảng, Hà Nội.
2. Bộ chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ
chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Ban chấp hành trung
ương Đảng, Hà Nội.
3. Bộ tư pháp (1999), BLHS nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(năm 1985), Dân chủ và pháp luật, Hà Nội.
4. Bộ luật hình sự Nhật Bản, bản dịch Bộ tư pháp.
5. Bộ luật hình sự Thuỵ Điển (2010), NXB Công an nhân dân.
6. Bộ tư pháp (2000), BLHS nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(năm 1999), Dân chủ và pháp luật, Hà Nội.
7. Bộ tư pháp, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (2002), Chuyên đề những
vấn đề cơ bản về pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới, Hà Nội.
8. Bộ luật hình sự của Cộng hoà Liên Bang Nga, Luật hình sự của một
số nước trên thế giới, Bản dịch bộ tư pháp.
9.Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (năm 1946; 1959; 1980,
1992,2013), 2013, Nxb chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
10. Nxb chính trị quốc gia (2009), Luật sửa đổi bổ sung một số điều
của BLHS năm 1999
11. Thông tư liên tịch số 10/TTLT ngày 31/12/1996 của Bộ nội vụ (nay là
Bộ công an) – Toà án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
12. Thông tư kiên nghành số 05/TTLN ngày 14/02/1995 của Toà án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ nội vụ, Bộ tư pháp -
hướng dẫn việc áp dụng pháp luật đối với hành vi buôn bán, vận chuyển trái
phép chất ma tuý qua biên giới.
13. Thông tư liên tịch 01/1998/TTLT-TANDTC, VKSNDTC, BNV
ngày 02/01/1998 của Bộ nội vụ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân
12
dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của BLHS năm 1985.
14. Thông tư liên tịch số 02/2000/TTLT-TANDTC, VKSNDTC, BCA,
BTP ngày 05/07/2000 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Bộ công an và Bộ tư pháp hướng dẫn thi hành Điều 7 BLHS năm
1999 và mục 2 Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21/12/1999 của Quốc hội.
15. Thông tư liên tịch 02/2001/TTLT-TANDTC, VKSNDTC, BCA,
BTP ngày 25/12/2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Bộ công an, Bộ tư pháp, hướng dẫn áp dụng các quy định tại Chương
XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của BLHS 1999.
16. Thông tư liên tịch số 09/2006/TTLT giữa Bộ lao động thương binh
và xã hội, Bộ công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối
cao hướng dẫn về việc truy cứu trách nhiệm hình sự người có hành vi vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực xuất khẩu lao động ở nước ngoài.
17. Thông tư liên tịch số 17/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP
ngày 24/12/2007 của Bộ công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án
nhân dân tối cao - Bộ tư pháp, hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương
XVIII “Các tội phạm về ma tuý” của BLHS.
18. Thông tư liên tịch số 06/2008/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-
BTP ngày 25/12/2008 của Bộ công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà
án nhân dân tối cao, hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các
hành vi sản xuất, mua bán, vận chuyển, tàng trữ, sử dụng trái phép pháo nổ và
thuốc pháo.
19. Toà án nhân dân tối cao (2012 - 2014), Báo cáo tổng kết ngành Toà
án nhân dân từ năm 2012 đến năm 2014, Hà Nội.
20. Toà án nhân dân tối cao (2003), Nghị quyết 02/2003/NQ-HĐTP
ngày 17 tháng 4 năm 2003 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS, Hà Nội.
13
21. Toà án nhân dân tối cao (1979; 1999; 2000; 2003; 2005), Hệ thống
hoá luật hình sự, Hà Nội.
22. Toà án nhân dân tối cao (1995), Các văn bản về hình sự, dân sự và
tố tụng, Hà Nội.
23. Trường Đại học Luật Hà Nội (1997), Luật hình sự Việt Nam -
Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
24. Toà án nhân dân tối cao (1964), Báo cáo công tác ngành Toà án
của Toà án nhân dân tối cao, Hà Nội.
25. Toà án nhân dân tối cao (1986), Nghị quyết số 02/HĐTP ngày
05/01/1986 của Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn cách tổng hợp hình phạt
trong trường hợp phạm nhiều tội, Hà Nội.
26. Toà án nhân dân tối cao (2003), Nghị quyết số 02/HĐTP ngày
16/11/1998 của Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn cách tổng hợp hình phạt
trong trường hợp phạm nhiều tội và bị phạt tù giam, Hà Nội.
27. Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), “phần chung”, Giáo trình luật
hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
28. Toà án nhân dân tối cao (1973), Công văn số 612 – NCPL ngày
14/09/1973 của Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn về quyết định hình phạt
trong trường hợp phạm nhiều tội.
29. Trường đại học luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ
luật học, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
30. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Trách nhiệm hình sự và hình
phạt, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
31. Trường Đại học quốc gia Hà Nội, khoa Luật (2001), “phần chung”
Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
32. Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Tội phạm học Việt Nam – Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn,Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000, tr.99.
33. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ tư pháp (2002), chuyên đề
những vấn đề cơ bản của pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới,
Thông tin khoa học pháp lý. (8).
14
34. Viện khoa học pháp lý Bộ tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb
Bộ Tư pháp, Nxb Từ điển Bách khoa.
35. Vụ phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ tư pháp (1997), Một số vấn đề
về phổ biến, giáo dục pháp luật, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
36. Lê Cảm (2001), chế định đa (nhiều) tội phạm và mô hình lý luận
của nó trong Luật hình sự Việt Nam, Dân chủ và pháp luật (6).
37. Lê Cảm và Trịnh Tiến Việt (2002),
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luanvan_hoan_8298_2010067.pdf