Trong truyện ngắn Nước mắt, Điền là một công chức và cũng nhƣ Hộ,
Điền cần tiền để nuôi cái gia đình nghèo khổ của mình. Hàng ngày, Điền phải
vật lộn với cái nghèo để tồn tại. Nhiều lúc Điền nghĩ rằng cuộc sống thật khổ
và Điền khổ vì vợ, vì con, vì cái gia đình nghèo nheo nhóc. Vì thế, Điền nổi
giận trách mắng vợ con vô cớ. Nhƣng khi đã bình tĩnh trở lại Điền lại ý thức ,
lại hiểu ra “con ngƣời không phải là thánh” nên mọi ngƣời cần bỏ qua nhau
những điều vặt vãnh, tầm thƣờng để vƣơn tới những điều tốt đẹp trong cuộc
sống. ở truyện ngắn khác – truyện ngắn Mua nhà, nhân vật “Tôi” khao khát
có đƣợc căn nhà tử tế để bằng bạn bằng bè, nhƣng nghèo quá. Song khi may
mắn có đƣợc một căn nhà mới thì “Tôi” lại rơi vào tình thế bất ổn. Bởi căn
nhà hiện có của anh ta là tài sản duy nhất của một gia đình nghèo khổ, bất
hạnh khác. Anh ta cảm thấy hối hận và tự dằn vặt mình là kẻ độc ác , tồi tệ:
“Tôi ác quá! Tôi ác quá!”. Và câu chuyện cứ tiếp diễn bằng một chuỗi dài
những lời xám hối của nhân vật. Nhƣng cuối cùng nhân vật cũng tìm đƣợc
cho mình một con đƣờng để giải thoát khi anh ta bằng lòng với ý thức: “Hạnh
phúc chỉ là một cái chăn quá hẹp, ngƣời này có thì ngƣời kia bị hở”. Trong
cuộc sống, con ngƣời không ai hoàn thiện, không có ai tốt hết và “giá ngƣời ta
vẫn có thể nghĩ đến mình mà chẳng thiệt gì đến ai” [18,289].
132 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3310 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn So sánh nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Nam Cao (Việt Nam) và Ruinôxkê Akutagawa (Nhật Bản), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng bá tƣớc Honda. Nhƣng ngay từ
khi còn niên thiếu, Kitabatakê đã yêu say đắm bá tƣớc phu nhân Honda –
Akiko đồng thời cũng là cô em họ của mình, tuy nhiên đó lại là một mối tình
câm. Sau khi du học ở Anh quốc trở về, Kitabatakê đƣợc tin Akiko đã lấy một
viên giám đốc nhà băng – Mixumura vì tên này đã dùng đồng tiền để phá hôn
ƣớc giữa Akiko và bá tƣớc Honda. Tức giận và căm phẫn trƣớc sự đểu cáng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 59
và đê tiện của Mixumura, bác sĩ đã lập kế hoạch ám sát. Bằng kinh nghiệm
của một thầy thuốc danh tiếng, bác sĩ đã giết chết Mixumura bằng những viên
thuốc mà ai cũng nghĩ rằng hắn chết vì đột tử. Nhƣng sau đó không lâu, đau
đớn, giằng xé trƣớc tội ác của mình, Kitabatakê đã tự sát và để lại bức thƣ là
câu chuyện đƣợc kể. Nhƣ vậy, sự tha hoá biểu hiện ở nhân vật này chính là sự
tha hoá ở hành động giết ngƣời. Trƣớc pháp luật, Kitabatakê hoàn toàn vô tội
nhƣng trƣớc lƣơng tâm nghề nghiệp, việc làm của Kitabatakê là không thể tha
thứ. Với một bác sĩ, thuốc phải dùng để cứu ngƣời nhƣng Kitabatakê lại dùng
những viên thuốc ấy để giết ngƣời. Bởi vậy, cả câu chuyện là một chuỗi dài
đau đớn, quằn quại của nhân vật trƣớc tội ác mà mình gây ra. Nhƣng đó chƣa
phải là tất cả nguyên nhân khiến Kitabatakê tự vẫn. Bởi sau cái chết của
Mixumaru, bá tƣớc Honda và Akiko đã kết hôn, cảm giác ghen tuông và lòng
vị kỉ lớn dần trong tâm trí Kitabatakê và anh ta lo sợ đến một ngày nào đó anh
ta sẽ giết hại ngay cả bá tƣớc để đoạt lấy Akiko. Đứng trƣớc nguy cơ tha hoá
và sự ích kỉ tàn nhẫn trong tâm hồn, Kitabatakê quyết định giết hại chính
mình để không còn phải đau khổ, dằn vặt trƣớc những suy nghĩ tàn ác. Đây có
thể coi là biểu hiện cao nhất của quá trình tự ý thức ở nhân vật này.
Đất nước của các thuỷ dân là một truyện ngắn đƣợc sáng tác trƣớc khi
Akutagawa tự vẫn không lâu. Truyện ngắn đƣợc đánh giá là tác phẩm có tính
chất tổng kết quá trình tìm tòi tƣ tƣởng sáng tác của Akutagawa. Tác phẩm
đƣợc xây dựng dƣới hình thức một câu chuyên tƣởng tƣợng hoang đƣờng với
bút pháp châm biếm, hài hƣớc. Đây là một câu chuyện do một bệnh nhân bị
thần kinh mang số hiệu hai mƣơi ba trong một bệnh viện tâm thần kể lại. Anh
ta kể rằng: vào mùa hè ba năm trƣớc trong một lần đi đến suối nƣớc nóng, anh
ta đã bị lạc vào thế giới của loài Kappa – một sinh vật huyền thoại sống dƣới
nƣớc. ở đó, anh ta đã đƣợc chứng kiến tất cả mọi biểu hiện trong cuộc sống
của loài Kappa từ tổ chức xã hội, tôn giáo, triết học, văn chƣơng, thể chế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 60
chính trị, sản xuất, đạo đức, gia đình thậm chí cả tình yêu... giống hệt nhƣ con
ngƣời nhƣng là mặt trái của nó. Thực ra hình ảnh của loài Kappa chính là
hình ảnh con ngƣời tha hoá với đầy những thói tật và thế giới của chúng là
hình ảnh của xã hội tƣ sản Nhật Bản. Các nhân vật trong truyện từ giám đốc
hãng thuỷ tinh Ghêrơ, bác sĩ Tsacc, triết gia Maggơ, quan toà Bepp, thi sĩ
Tôcc, thậm chí cả cô vợ hoa khôi Kappa của Baggơ... Tất cả đều bộc lộ những
biểu hiện của sự tha hoá rõ nét. Chẳng hạn nhân vật Ghêrơ (giám đốc hãng
thuỷ tinh), bản chất của chủ nghĩa tƣ bản đã ăn sâu trong từng quan niệm. Với
Ghêrơ cũng nhƣ những con Kappa tƣ bản khác, ở đất nƣớc của loài Kappa,
việc sản xuất hàng loạt máy móc sẽ sa thải hàng chục công nhân mỗi ngày và
những công nhân bị thất nghiệp đó sẽ đƣợc xã hội giải quyết bằng cách... ăn
thịt họ. Nói về vấn đề này, Akutagawa muốn dự báo những nguy cơ tha hoá
khủng khiếp sẽ đến với xã hội Nhật Bản hiện đại.
Trong truyện ngắn này, nhân vật thi sĩ Tôcc là một nhân vật khá gần với
các nhân vật văn sĩ của Nam Cao. Nếu nhƣ ở nhân vật của Nam Cao, sự “cẩu
thả” trong văn chƣơng đƣợc coi là “bất lƣơng”, “đê tiện” thì ở nhân vật thi sĩ
Tôcc sự “cẩu thả” ấy phải bị trả giá bằng cái chết. Một trong những lý do
Tôcc cầm súng tự bắn vào đầu mình là vì anh ta cảm thấy với tƣ cách một nhà
thơ thì anh ta đã hoàn toàn thất bại. Bức thƣ cuối cùng Tôcc để lại là bài thơ
giống y chang “Miniôna” của Gơt. Đó là chuyện ăn cắp văn chƣơng. Còn
chuyện khác, Tôcc tự tử vì cảm thấy cuộc sống thực tại quá nhàm chán và vô
nghĩa lý. Anh ta chết để biết niềm vinh quang sau khi chết nhƣ thế nào. Thế
nhƣng khi sang thế giới của những bóng ma, linh hồn của Tôcc đã trả lời mọi
ngƣời trong lễ cầu hồn rằng: cuộc sống của các vị thần chẳng khác gì cuộc
sống của anh ta trƣớc kia, cũng nhàm chán, vô nghĩa và nhiều đau khổ... Vì
vậy rất có thể đến một lúc nào đó khi ở thế giới bên kia, anh ta sẽ tiếp tục cầm
súng và kết liễu đời mình bằng tự phục sinh. Xây dựng hình tƣợng nhân vật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 61
Tôcc, nhiều ngƣời cho rằng Akutagawa đã có dự cảm về sự bất lực của bản
thân ông cũng nhƣ nhiều trí thức Nhật trong xã hội tƣ bản. Bởi vậy, chỉ trong
khoảng thời gian ngắn sau khi hoàn thành tác phẩm Đất nước của các thuỷ
dân, Akutagawa đã uống thuốc ngủ tự vẫn khi mới ở tuổi 35. Cái chết của ông
“là một lời cảnh tỉnh nghiêm khắc đối với đông đảo giới trí thức còn dao động
trong việc chọn đƣờng” (Bách khoa toàn thư văn học Nhật Bản, 1954).
Nhƣ vậyN, các nhân vật trí thức của Akutagawa thƣờng bị đẩy đến một
tình thế nan giải buộc nhân vật phải tự nhận thức và hành động. Cũng nhƣ
Nam Cao, Akutagawa luôn giữ một khoảng cách với nhân vật. Mỗi ngã rẽ cho
hành động nhân vật đều là kết quả của quá trình diễn biến tâm lý phức tạp.
Nhân vật của Akutagawa luôn hành động hết mình nhƣng càng hành động
nhân vật càng lún sâu hơn vào quá trình tha hoá rồi tự kết liễu đời mình. Sơ
đồ chung cho các nhân vật này là: Nhận thức – hành động – nhận thức – tự
sát. Với cách tạo cho nhân vật một sự tự ý thức gần nhƣ tối đa, Akutagawa
hầu nhƣ đứng ngoài các câu chuyện và để mặc cho các nhân vật tự quyết định
lấy số phận của họ. Vì thế, mạch tự sự của các truyện ngắn cũng có nhiều thay
đổi bất ngờ khi nhân vật thay đổi về ý thức và hành động. Đây là nét tƣơng
đồng trong xây dựng nhân vật của truyện ngắn Nam Cao và Akutagawa. Cụ
thể của nét tƣơng đồng ấy sẽ đƣợc chúng tôi triển khai ở phần tiếp sau đây.
3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật tự ý thức
Trong văn học Việt Nam cũng nhƣ Nhật Bản đầu thế kỉ XX, sự thức tỉnh
của ý thức cá nhân đã tác động không nhỏ đến các sáng tác đƣơng thời. Các
nhà văn hiện đại đã lấy nội tâm (bao gồm cả sự tự ý thức) của con ngƣời làm
đối tƣợng chính cho sự miêu tả. Sinh thời, Akutagawa đƣợc các học giả Nhật
Bản đánh giá là ngƣời đầu tiên đƣa thế giới nội tâm và tâm lý phức tạp của
con ngƣời vào văn học Nhật Bản làm cho nó mang màu sắc mới mẻ.
Akutagawa thƣờng mƣợn các cốt truyện cổ nhƣng ông lại đƣa vào trong đó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 62
con ngƣời hiện đại với tính cách và tâm lý hiện đại. ở sáng tác của Akutagawa
cái quan trọng nhất là tâm lý của nhân vật ra sao và nó đã tự ý thức nhƣ thế
nào để vƣơn tới những tình cảm chân chính. Akutagawa không bao giờ xây
dựng nhân vật của mình theo một tính cách hằng định, ông luôn để cho nhân
vật tự va chạm với thế giới xung quanh để bộc lộ tính cách. Trong văn học
Nhật Bản đƣơng thời, Akutagawa là nhà văn duy nhất làm đƣợc điều đó. Bởi
vậy, ngƣời ta gọi hiện thực trong tác phẩm của Akutagawa là một “hiện thực
kiểu mới” – hiện thực nằm trong chính ý thức và tâm hồn của con ngƣời khi
nó đƣợc giao lƣu với hoàn cảnh. Cũng nhƣ vậy, Nam Cao là nhà văn hiện
thực đạt đến trình độ miêu tả tâm lý nhân vật một cách thuần thục. Thành
công của ngòi bút Nam Cao là sự kết hợp của ba yếu tố: Thứ nhất là khả năng
“thiên bẩm” của một nhà văn trƣởng thành trong giai đoạn lịch sử có nhiều
biến động của Việt Nam đầu thế kỉ XX; Thứ hai là những thủ pháp tâm lý
đƣợc kế thừa từ văn xuôi lãng mạn (đặc biệt là Tự lực văn đoàn); Thứ ba là sự
vận dụng những thành tựu của “chủ nghĩa tâm lý” trong văn học thế giới (ở
phƣơng diện này, Nam Cao có ảnh hƣởng nhiều của Đôtxtôiepxki, L.Tôntôi,
Sekhov mà đặc biệt là Sekhov). Cũng nhƣ Akutagawa, khi miêu tả tâm lý,
Nam Cao thƣờng chú ý đến sự tự ý thức của nhân vật bởi tự ý thức là một
phƣơng diện cơ bản của nội tâm, tâm lý con ngƣời. Do đó, nghiên cứu nhân
vật tự ý thức, ta không thể bỏ qua hai kiểu miêu tả tâm lý đặc trƣng trong sáng
tác của Nam Cao và Akutagawa. Đó là: Kiểu miêu tả tâm lý thông qua thế
giới bên ngoài nhƣ: thiên nhiên, không – thời gian, ngoại hình, ngôn ngữ,
hành động nhân vật... Các nhà nghiên cứu gọi kiểu miêu tả tâm lý này là kiểu
miêu tả “gián tiếp”, “chẩn bệnh”. Và thứ hai là kiểu miêu tả tâm lý “trực
tiếp”, thâm nhập thẳng vào thế giới nội tâm nhân vật. Tuy nhiên, giới hạn của
luận văn chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu kiểu nhân vật tự ý thức nên chúng tôi chỉ
xem xét nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật ở phƣơng diện ngôn ngữ nhân vật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 63
mà cụ thể là ngôn ngữ bên ngoài (ngôn ngữ đối thoại trực tiếp) và ngôn ngữ
bên trong (ngôn ngữ đối thoại gián tiếp qua độc thoại và đối thoại nội tâm –
các phƣơng thức cơ bản thể hiện nhân vật tự ý thức).
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật tự ý thức qua ngôn ngữ bên ngoài
(ngôn ngữ đối thoại trực tiếp)
Nam Cao là nhà văn chủ nghĩa hiện thực tâm lý, ngôn ngữ của ông tỏ ra
sắc sảo và phong phú hơn cả khi diễn tả tâm lý các nhân vật. Những nhân vật
của Nam Cao đều có một đời sống tâm lý và sự tự ý thức đặc trƣng cho tầng
lớp ngƣời mà họ đại diện. Ngôn ngữ của loại nhân vật thuộc tầng lớp dƣới
đáy luôn đƣợc thể hiện một cách rõ ràng và chân thực qua các đối thoại trực
tiếp. Do đó, kể cả khi nhân vật tự ý thì sự tự ý thức của nó đã đƣợc bao chứa
ngay trong những đối thoại.
Trong truyên ngắn của Nam Cao, các nhân vật thƣờng xuyên đối thoại
trực tiếp là Lão Hạc, Chí Phèo, Dì Hảo... Thông qua ngôn ngữ của các nhân
vật này, Nam Cao đã làm bật lên tất cả các khía cạnh phức tạp trong tâm lý
mà đặc biệt là sự tự ý thức của ngƣời nông dân bị bần cùng hoá. Ai cũng biết
Chí Phèo là một kẻ lƣu manh. Tâm lý của hắn là tâm lý của kẻ tù tội trở về,
“cố cùng liều thân” đi rạch mặt ăn vạ để đòi vài đồng bạc uống rƣợu rồi dần
trở thành tay sai của Bá Kiến. Nhƣng điều đáng nói là bản thân Chí Phèo cũng
ý thức đƣợc điều đó. Chí Phèo hiểu hơn ai hết Bá Kiến là kẻ đẩy hắn vào cảnh
tù tội nên với Chí Phèo, việc hắn ăn vạ và đòi tiền Bá Kiến là lẽ bất tất phải
bàn cãi. Bởi vậy, ngay trong cơn say, ngôn ngữ, giọng điệu của Chí Phèo vẫn
là ngôn ngữ của một kẻ có ý thức đòi quyền lợi chính đáng cho mình. “Bẩm
cụ, từ ngày cụ bắt đi tù, con lại sinh ra thích đi ở tù, bẩm có thế, con có nói
gian thì trời tru đất diệt, bẩm quả là đi tù sƣớng quá. Đi ở tù còn có cơm để
mà ăn, bây giờ về làng, về nƣớc, một thƣớc đất cắm dùi không có, chả làm gì
nên ăn. Bẩm cụ, con lại đến kêu cụ, cụ lại cho con đi ở tù...” [18,27].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 64
Ngôn ngữ của Chí Phèo cho thấy hắn là một kẻ biết ăn nói. Lời của Chí
Phèo thể hiện nhiều sắc thái tâm lý. Vừa lịch sự lại vừa giễu cợt, trách móc
thậm chí hăm doạ. Nhƣ vậy, ngôn ngữ của Chí Phèo là một “thứ” ngôn ngữ
gai góc và vì thế mà hết sức ám ảnh. Tuy nhiên, nói đến Chí Phèo, ngƣời ta
thƣờng bị ấn tƣợng bởi tiếng chửi. Tiếng chửi của Chí Phèo nghe qua thì nghĩ
rằng đó là tiếng của một gã say, một kẻ bất lƣơng, bất hiếu và bất cần đời.
Nhƣng nghe kĩ, tiếng chửi ấy lại mang nặng nỗi đau đời của một kẻ đáng
thƣơng mồ côi không cha, không mẹ và bị cả xã hội xa lánh. Chí Phèo cất lên
tiếng chửi cũng chính là cất lên tiếng kêu đau đớn về sự bất hạnh, trớ trêu của
số phận mình khi hắn ý thức đƣợc rằng hắn sống mà không phải sống, sống
mà không biết sợ, không biết yêu thƣơng và đƣợc yêu thƣơng: “Hắn vừa đi
vừa chửi. Bao giờ cũng thế cứ rƣợu xong lằ hắn chửi. Bắt đầu chửi trời. Có hề
gì? Trời có của riêng nhà nào! Rồi hắn chửi đời... Tức mình hắn chửi ngay cả
làng Vũ Đại... Không ai lên tiếng cả... Tức chết đi đƣợc mất! Đã thế hắn chửi
cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhƣng cũng không ai ra điều... Thế thì
có khổ hắn không! Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ
đến nông nỗi này! Aha! Phải đấy hắn cứ thế mà chửi, hắn chửi khổ đứa mẹ
nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo!”[18,12]. Nhƣ vậy, tấn kịch của
Chí Phèo đã đƣợc Nam Cao khái quát trong một chuỗi tiếng chửi. Chính vì ý
thức đƣợc sự cô đơn, bất hạnh của cuộc đời mình nên khi có đƣợc tình yêu
với Thị Nở, tâm lý của Chí Phèo đã hoàn toàn đổi khác. Thay vì uống rƣợu và
rạch mặt ăn vạ thì hắn ở nhà suốt ngày với thị và lần đầu tiên hắn ý thức đƣợc
là phải uống ít rƣợu để tiết kiệm tiền. Cái ƣớc mơ có một gia đình êm ấm đã
trở lại trong tâm thức Chí Phèo. Hắn tỏ tình với Thị Nở bằng một thứ ngôn
ngữ mà theo Nam Cao là “rất phong tình” của một kẻ đang yêu: “giá cứ thế
này mãi thì thích nhỉ!”, hay “mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”. Lúc
này, dƣờng nhƣ mọi vết dấu của một kẻ cố cùng đã biến mất thay vào đó là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 65
một Chí Phèo tràn ngập tình yêu thƣơng và khao khát đƣợc trở thành một
ngƣời lƣơng thiện. Nhƣng khi Thị Nở từ chối tình yêu của hắn thì cũng là lúc
hắn ý thức sâu sắc và rõ ràng hắn không thể trở thành ngƣời lƣợng thiện đƣợc
nữa. ấy chính là lúc hắn rút dao đâm chết Bá Kiến và nói trong đau đớn, tuyệt
vọng: “Tao muốn làm ngƣời lƣơng thiện!... Ai cho tao lƣơng thiện... Tao
không thể là ngƣời lƣơng thiện đƣợc nữa”. Tiếng nói cuối cùng của Chí Phèo
là tiếng kêu thảm thiết của một kiếp ngƣời tha thiết đƣợc làm ngƣời nhƣng
đến lúc chết vẫn bị cự tuyệt. Giá trị nghệ thuật đặc sắc của ngôn ngữ nhân vật
Nam Cao là nhƣ vậy.
Hầu hết các tác phẩm viết về ngƣời nông dân của Nam Cao đều nổi cộm
lên một vấn đề là cái nghèo và cái đói. Mà khi nghèo, khi đói ngƣời ta thƣờng
có tâm lý làm liều, làm ác với kẻ khác để đƣợc lợi cho mình (Trẻ con không
được ăn thịt chó, Một bữa no, ở hiền, Đòn chồng, Chí Phèo...). Tuy nhiên,
cũng có không ít tác phẩm của Nam Cao đã đề cao sự hiền lành, chất phác,
lòng lƣơng thiện và đặc biệt là sự tự ý thức để bảo vệ nhân cách, nhân phẩm
của ngƣời nông dân Việt Nam. Lão Hạc là mẫu hình tiêu biểu cho kiểu ngƣời
đó. Cả câu chuyện về Lão Hạc xung quanh hai “thứ” là mảnh vƣờn và con
chó vàng (mà lão gọi là cậu vàng). Với lão, đó là những thứ quý giá nhất, là
“sợi dây tình cảm” nối lão và thằng con trai đã bỏ đi phu từ lâu. Lão Hạc coi
con chó vàng nhƣ con, lão chăm sóc, yêu thƣơng, vỗ về nó bằng tình cảm của
một ngƣời cha. Lão nói với con chó: “Không giết cậu vàng đâu nhỉ!... Cậu
vàng của ông ngoan lắm! Ông không cho giết... Ông để cậu vàng ông nuôi...”
[18,93]. Bởi vậy khi phải bán con chó, Lão Hạc đau xót đến tận cùng. Với bản
chất lƣơng thiện, lão tự cảm thấy mình thật tồi tệ, nhẫn tâm “đánh lừa một con
chó”, đẩy nó vào chỗ chết để lấy vài đồng bạc. Ta hãy xem lời của Lão Hạc
nói với ông giáo:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 66
“Khốn nạn... Ông giáo ơi“!Nó có biết gì đâuN! Nó thấy tôi gọi thì chạy
ngay về, vẫy đuôi mừng. Tôi cho nó ăn cơm. Nó đang ăn thì thằng Mục nấp
trong nhà, ngay đằng sau nó, tóm lấy hai cẳng sau nó, dốc ngƣợc nó lên... Bấy
giờ cu cậu mới biết là cu cậu chết! Này! Ông giáo ạ! Cái giống nó cũng khôn!
Nó cứ làm in nhƣ nó trách tôi... Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh
lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó!”[18,95-96].
Lời của Lão Hạc giống nhƣ những lời cắt ruột, cát gan của một ngƣời
cha đang nói về đứa con của mình. Bi kịch tự ý thức của Lão Hạc đƣợc phát
triển đến đỉnh cao khi lão quyết định tự vẫn và nhờ ông giáo trông coi mảnh
vƣờn. Lão nhịn ăn, nhịn uống chứ nhất định không chịu bán mảnh vƣờn của
thằng con trai. Có bao nhiêu tiền dành dụm (kể cả tiền bán con chó) lão dành
để lo hậu sự cho mình, không muốn phiền đến hàng xóm. Nam Cao đã miêu
tả cuộc nói chuyện của lão với ông giáo một cách tỉ mỉ qua lời kể của ông
giáo:
“Lão kể nhỏ nhẹ và dài dòng thật. Nhƣng đại khái có thể rút vào hai
việc. Việc thứ nhất: Lão thì già, con đi vắng, vả lại nó cũng còn dại lắm, nếu
không có ngƣời trông nom cho thì khó mà giữ đƣợc vƣờn đất... Lão muốn
nhờ tôi cho lão gửi ba sào vƣờn của thằng con lão... để không còn ai tơ tƣởng,
dòm ngó đến. Việc thứ hai: lão già yếu lắm rồi, không biết sống chết lúc nào,
con không có nhà, lỡ chết không biết ai đứng ra lo cho đƣợc, để phiền cho
hàng xóm thì chết không nhắm mắt: lão còn đƣợc hăm nhăm đồng bạc với
năm đồng vừa bán chó là ba mƣơi đồng bạc, muốn gửi tôi để lỡ có chết thì tôi
đem ra, nói với hàng xóm giúp, gọi là của lão có tí chút...” [18,97].
Qua đây, ngƣời đọc có thể mƣờng tƣợng ra tất cả mọi góc cạnh trong ý
thức của một ngƣời cha hết lòng yêu thƣơng con, một ngƣời cha giàu nhân
cách và lòng tự trọng. Sự hi sinh của Lão Hạc khiến ta liên tƣởng đến hình
ảnh của anh Đĩ Chuột trong truyện Nghèo–một ngƣời nông dân bệnh tật đáng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 67
thƣơng vì không muốn hành hạ vợ con nên cũng chọn cái chết để giảm gánh
nặng cho gia đình.m
Trong truyện ngắn của Nam Cao, để miêu tả những tấn kịch tự ý thức
của ngƣời nông dân qua ngôn ngữ đối thoại của họ, nhà văn đã sử dụng hai
cách kể điển hình: một là để nhân vật đối thoại trực tiếp với các nhân vật khác
và hai là cuộc đối thoại của nhân vật đƣợc kể lại bởi nhân vật thứ hai hoặc bởi
chính tác giả (ngƣời kể chuyện). Vậy trong truyện ngắn của Akutagawa, cách
kể của tác giả về nhân vật có giống ở Nam Cao hay không, hãy xem truyện
ngắn Trong rừng trúc. Đây là một truyện ngắn vay mƣợn từ một truyện cổ.
Akutagawa hầu nhƣ không thay đổi gì cốt truyện nhƣng ông lại khai thác câu
chuyện dƣới góc độ ý thức và nội tâm con ngƣời. Câu chuyện xoay quanh ba
sự kiện: Sự gặp gỡ của ba ngƣời: Ngƣời chồng, ngƣời vợ và tên cƣớp; Sau đó,
tên cƣớp say mê ngƣời vợ rồi cƣỡng bức; Và cuối cùng, án mạng xảy ra –
ngƣời chồng chết. Vấn đề của câu chuyện là ai sẽ là kẻ gây ra án mạng. Tên
cƣớp, ngƣời vợ và linh hồn của ngƣời chồng đều có cách kiến giải riêng.
Ngƣời vợ thì nhận chính cô ta đã giết chồng vì cảm thấy hổ thẹn. Tên cƣớp thì
nói hắn đã đấu kiếm với ngƣời chồng và gây ra án mạng. Còn ngƣời chồng,
sau khi chết, linh hồn của anh ta hiện về và thú nhận chính anh ta chứ không
phải ai khác đã dùng dao đâm vào ngực mình. Rõ ràng ở đây, câu chuyện đã
kết thúc một cách đầy uẩn khúc, không rõ kẻ gây ra cái chết. Ta thấy đó là
kiểu kể chuyện và kết thúc truyện thƣờng thấy trong kịch của Bertold Brecht
– một cách kể và kết thúc để ngỏ. Nhƣng nếu chúng ta xem xét kỹ lời kiến
giải của tên cƣớp thì sẽ thấy giá trị và ý nghĩa của câu chuyện đã đƣợc tác giả
gói gọn chỉ trong một lời của nhân vật:
“Đối với các vị, điều đó kinh khủng quá phải không? Chuyện vặt vãnh
mà, giết một ngƣời đàn ông là việc bình thƣờng thôi! Khi ngƣời ta muốn
chiếm đoạt ngƣời đàn bà, bao giờ ngƣời ta cũng giết ngƣời đàn ông. Chỉ có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 68
điều tôi thì tôi giết bằng kiếm đeo ở thắt lƣng, còn các vị không mƣợn đến
kiếm thì các vị giết bằng quyền thế, tiền bạc và đôi khi chỉ đơn giản là bằng
những lời xu nịnh, xúc xiểm. Thực ra, trong trƣờng hợp ấy, máu không đổ
nhƣng ngƣời đàn ông chỉ còn cái xác không hồn – và nhƣ thế dù sao các vị
cũng đã giết chết anh ta rồi. Và nếu suy ngẫm thì tội lỗi của ai nặng hơn – của
các vị hay của tôi – ai mà biết đƣợc, phải không nào” [1,194].
Giọng điệu của tên cƣớp ở đây là một giọng mỉa mai, đầy thách thức
nhƣng bên trong nó đã hàm chứa một sự tự nhận thức sâu sắc về những vấn
đề xã hội có tính khái quát rộng lớn. Tên cƣớp đã nói thẳng ra là: kẻ sát nhân
cho dù có phải là hắn hay không, không quan trọng. Điều quan trọng là ngƣời
bị giết kia đã chết về tâm hồn trƣớc khi chết về thể xác (máu không đổ ra
nhƣng con ngƣời đó cũng coi nhƣ đã bị giết). Vì vậy, kẻ sát nhân không chỉ là
hắn mà là tất cả những kẻ đã gieo rắc cái ác trong xã hội, những kẻ đó đã giết
không phải là con ngƣời mà là tâm hồn con ngƣời. Akutagawa có một phong
cách viết truyện ngắn độc đáo, bởi thế ngôn ngữ nhân vật của ông cũng thật
độc đáo. Nó không chỉ là phát ngôn của riêng nhân vật mà còn là phát ngôn
của nhà văn. Thông qua lời phát vấn trực tiếp của nhân vật, Akutagawa đã
bày tỏ một thái độ bất hợp tác với hệ thống xã hội đang ngự trị nƣớc Nhật. Về
điểm này, Nam Cao và Akutagawa đã có sự gặp gỡ, tuy nhiên mức độ khái
quát và trừu tƣợng của ngôn ngữ nhân vật ở tác phẩm của Akutagawa cao hơn
ở tác phẩm Nam Cao. Điều này là do sự chi phối của văn hóa và thời đại mà
hai nhà văn sinh sống.
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật tự ý thức qua ngôn ngữ bên trong
(độc thoại và đối thoại nội tâm)
Miêu tả nhân vật, Nam Cao thƣờng tập trung vào việc khắc hoạ đời sống
nội tâm. Ngòi bút của ông “tỉa” vào từng ngõ ngách tâm hồn của con ngƣời,
phát hiện ra những bi kịch đang ẩn chứa bên trong cõi lòng đang quằn quại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 69
“chết mòn” của tầng lớp trí thức tƣ sản nghèo cả đời chỉ lo sao cho đủ bát
cơm, manh áo. Mỗi nhân vật của Nam Cao có một sắc thái tâm lý, một cách
nhìn hiện thực riêng. Tính cách nhân vật của ông không chỉ đƣợc đánh giá,
nhìn nhận từ việc miêu tả ngoại hình, từ hành động bên ngoài mà đƣợc soi rọi
từ bên trong. Điều đó đã làm cho các tác phẩm của Nam Cao mang tính chất
đa thanh, phức điệu. Về điểm này, có thể nói Nam Cao chịu ảnh hƣởng không
nhỏ của các “bậc thầy” nhƣ: Đôtxtôiepxki, L.Tontoi, Sekhov. Hầu nhƣ, các
sáng tác của Nam Cao đều đề cao tƣ tƣởng và đời sống nội tâm con ngƣời.
Với Nam Cao, cái nhà văn quan tâm không phải là những cái gì cụ thể cảm
tính từ thế giới bên ngoài nhân vật mà chính là con ngƣời bên trong, thế giới
bên trong đầy phức tạp và bí ẩn của nhân vật. Nếu so sánh Nam Cao và
Akutagawa thì một lần nữa lại thấy đây là một điểm tƣơng đồng cơ bản của
hai nhà văn. Cũng giống Nam Cao, Akutagawa đặc biệt chú trọng đến tƣ
tƣởng, tâm lý và sự tự ý thức đầy đau khổ của con ngƣời trƣớc những vấn đề
bức xúc của thời đại. Với việc lựa chọn kiểu nhân vật nhƣ thế, Nam Cao và
Akutagawa đã thành công trong việc tổ chức “những mạng lƣới ngôn ngữ bên
trong” phức tạp của nhân vật. Đó chính là những độc thoại và đối thoại nội
tâm ở bên trong “dòng ý thức”. Và nếu xét ở trong phạm vi ngôn ngữ tự sự
nói chung thì những độc thoại và đối thoại này là sự chuyển hoá từ ngôn ngữ
trần thuật của tác giả sang ngôn ngữ nhân vật hoặc là lời kể của tác giả nhƣng
mang ý thức và suy nghĩ của nhân vật.
Độc thoại nội tâm là phƣơng thức thể hiện tiêu biểu tạo nên thành công
cho các sáng tác “dòng ý thức”. Nó là phƣơng thức truyền đạt tƣ tƣởng có
nguồn gốc từ kịch cổ đại (kịch Shakespeare). Hiểu đơn giản, độc thoại nội
tâm là lời của nhân vật nói với chính nó, diễn ra trong nội tâm của nó. ở văn
học tự sự thời cận đại, độc thoại nội tâm có chức năng kịch tính hoá hành
động ý thức của nhân vật, phô diễn sự tự khám phá, sự tự ý thức của nhân vật.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 70
L.Tônxtôi là ngƣời sử dụng thành công nhất các độc thoại nội tâm trong xây
dựng nhân vật với “phép biện chứng tâm hồn”. Thủ thuật cơ bản của
L.Tônxtôi là ông không can thiệp vào diễn tiến nội tâm của nhân vật. Ông để
cho nhân vật đƣợc hoạt động một cách tự do cả về ý thức lẫn vô thức. Sau
L.Tônxtôi, Đôtxtôiepxki là ngƣời phát triển các độc thoại nội tâm thành đối
thoại nội tâm. Nếu độc thoại nội tâm là lời nhân vật nói với chính mình trong
tâm tƣởng thì đối thoại nội tâm là lời nhân vật nói với một “ngƣời khác” vô
hình do nhân vật tự tƣởng tƣợng ra.
Độc thoại và đối thoại nội tâm nói chung là những biện pháp dùng để
khắc hoạ nội tâm và ý thức nhân vật. Trong truyện ngắn của Nam Cao, độc
thoại và đối thoại nội tâm đã đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng loại
nhân vật tự ý thức. Khác với nhân vật của Thạch Lam, Nguyễn Công Hoan,
nhân vật của Nam Cao không phải của cảm giác mà là nhân vật tâm tƣ, nhân
vật suy nghĩ. Cho nên họ thƣờng ngồi một mình và lặng lẽ suy nghĩ một
mình. Những lúc ấy, dòng độc thoại và đối thoại nội tâm sẽ đến trong suy
nghĩ nhân vật. Vì thế, điểm đặc biệt của truyện ngắn Nam Cao so với các sáng
tác đƣơng thời là độc thoại và đối thoại nội tâm xuất hiện khá dày đặc. Dòng
nội tâm của nhân vật nhiều khi còn hoà vào lời trần thuật của tác giả. Giọng
của tác giả cũng chính là giọng độc thoại (đối thoại) nội tâm của nhân vật.
Đây là nét khác biệt về nghệ thuật tự sự của Nam Cao so với các nhà văn
cùng thế hệ với ông. Tuy nhiên, nếu ta đem điểm này đối chiếu với
Akutagawa thì đó lại là điểm tƣơng đồng. Nhƣ Nam Cao, các sáng tác của
Akutagawa sử dụng nhiều độc thoại và đối thoại nội tâm. Cũng bởi vì, nhân
vật truyện ngắn của Akutagawa là nhân vật tâm lý, hơn nữa lại là tâm lý phức
tạp. Những nhân vật ấy là những nhân vật trí thức với nhiều ngành nghề khác
nhau. Với việc phân
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- So sánh nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của nam cao (việt nam)và ruinôxkê akutagawa(nhật bản).pdf