Mục lục
Trang
MỞ ĐẦU . 1
1. Lý do chọn đề tài . . . . 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề . . . 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu . . . 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu . . . 6
5. Phương pháp nghiên cứu . . . 7
6. Những đóng góp của luận văn . . . 7
7. Bố cục của luận văn . . . 7
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ XÃ HỘI VĂN HOÁ CỦA
NGƯỜI DAO TUYỂN Ở LÀO CAI . 8
1.1. Đặc điểm lịch sử, xã hội, văn hoá của người Dao Tuyển . 8
1.2. Khái quát về thơ ca dân gian của người Dao Tuyển . . 19
* Tiểu kết . . . . 26
CHƯƠNG 2. NỘI DUNG THƠ CA DÂN GIAN NGƯỜI DAO TUYỂN Ở LÀO CAI . 27
2.1. Vài nét khái quát về cuộc sống của người Dao Tuyển qua thơ ca dân gian 28
2.2. Thơ ca dân gian người Dao Tuyển là tiếng ca ai oán của những người
mồ côi bất hạnh . 30
2.3. Thơ ca dân gian người Dao Tuyển thể hiện một quan niệm đẹp về tình
yêu và hôn nhân của con người . 37
2.4. Thơ ca dân gian của người Dao Tuyển là tấm gương phản chiếu đời sống tập
quán tín ngưỡng của con người . . . 50
* Tiểu Kết . . . . 58
CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP THƠ CA DÂN GIAN CỦA
NGƯỜI DAO TUYỂN Ở LÀO CAI . 60
3.1. Khái niệm thi pháp, thi pháp học và thi pháp văn học dân gian . 60
3.1.1. Thi pháp và thi pháp học . 60
3.1.2. Thi pháp văn học dân gian . 60
3.2. Một số đặc điểm thi pháp thơ ca dân gian của người Dao Tuyển . 61
3.2.1. Thời gian nghệ thuật . 61
3.2.2. Không gian nghệ thuật . 70
3.2.3. Một số biện pháp tu từ nghệ thuật . . 77
3.2.4. Hình thức diễn xướng thơ ca dân gian . . 85
*Tiểu kết . . . . 97
KẾT LUẬN . 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO . 102
PHỤ LỤC . 10
120 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2389 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2.3.2. Tình yêu gắn liền với hôn nhân và sự thuỷ chung
Sinh sống ở những vùng rừng núi xa xôi cách trở, người Dao Tuyển có
truyền thống khép kín tộc người một cách khá vững chắc. Tính chất cố kết
cộng đồng của tộc người Dao Tuyển rất chặt chẽ. Điều này được thể hiện qua
việc người Dao Tuyển xưa ít xây dựng gia đình với người thuộc các dân tộc
khác. Họ có những quy định chặt chẽ trong hôn nhân. Trong dòng họ, các
thành viên tuyệt đối không được kết hôn với nhau. Khi nam giới đến tuổi
trưởng thành muốn kết hôn với một cô gái, ông trưởng họ phải tra gia phả
dòng họ. Cô gái đó không thuộc con cháu trong dòng họ, chàng trai mới được
kết hôn. Ở Lào Cai, trong phạm vi 6 đời con cháu không được kết hôn với
nhau. Nếu vi phạm nguyên tắc đó thì sẽ bị coi là loạn luân, bị xử phạt rất nặng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
44
và bị đuổi đi nơi khác. Trong câu hát giao duyên của người Dao, truyền thống
ấy thể hiện rất rõ:
Cầu hôn đừng cầu cùng dòng họ
Cùng họ lấy nhau ngƣời trách cƣời
Cùng họ lấy nhau nên chuyện xấu
Con cháu đời sau nát cửa nhà [6, tr.205].
Rõ ràng quan niệm hôn nhân ấy đã ăn sâu vào đời sống tinh thần của
người Dao Tuyển và kết thành những nguyên tắc rất cụ thể, chi phối hôn
nhân, biểu hiện qua từng câu hát.
Trong các cuộc hát giao duyên, trai gái khi đã ưng ý nhau thường bày
tỏ ước mơ xây dựng hạnh phúc gia đình với nhau một cách thẳng thắn hồn
nhiên. Có chứng kiến tận mắt những đêm hát như hát hội đầu xuân, hát qua
làng, hát xin cốm… chúng ta mới thấy rõ khát vọng ấy. Cách tìm hiểu bằng
lời ca tiếng hát đã để lại bao lời ca say đắm với những ước mơ cháy bỏng của
đôi lứa yêu nhau. Thế nhưng khi lứa đôi đã có lời ước hẹn thì vấn đề thuỷ
chung gắn bó được đặt lên trên hết. Trong các cuộc hát giao duyên các cô gái
vẫn thường hát:
Cùng anh nhƣ đôi chim cùng cây
Vạn niên đời đời ta chung sống [51, tr.223].
Hay:
Vợ chồng hứa hẹn lòng thuỷ chung [51, tr.207].
Khát vọng thuỷ chung đã ăn sâu vào trong tiềm thức của mỗi con người
đương cuộc, có khi trở thành lời thề nguyền thuỷ chung:
Hôm nay gặp gỡ cùng ở hội
Hai bên cùng nguyền chẳng phân li [51, tr.194].
Để thề nguyền chung thuỷ, người ta còn đi xa hơn nữa. Đó là hẹn ước
đến kiếp sau :
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
45
Đời này chẳng đƣợc ở cùng làng
Đời sau có duyên chung một nhà [51, tr.197].
Đời này sinh không đƣợc ở đất này
Đời sau ắt phải ở phủ đƣờng này [51, tr.182].
Khát vọng tình yêu thuỷ chung, gắn bó được thể hiện vừa tế nhị vừa sâu
sắc mà không kém phần bay bổng trong những câu hát giao duyên. Đây là
cách nói của chàng trai trong hát hội đầu xuân ở trong làng:
Ƣớc gì hoá thân thành lá dong
Cho nàng gói muối ngọt bốn mùa [51, tr.182].
Còn đây là cách nói của một chàng trai khác:
Ƣớc gì đƣợc hoá dây thắt lƣng
Đƣợc cuốn lƣng rồng chẳng oán gì [51, tr.84].
Mong ước tình yêu gắn bó, thuỷ chung cũng được thể hiện qua câu hát
của cô gái:
Ƣớc gì đƣợc hoá hộp đựng thuốc
Lúc ở trƣớc mặt, lúc kề bên
Khi ở trƣớc mặt lòng vui vẻ
Khi ở đằng sau lòng lại sầu [51, tr.85].
Những con người trong cuộc luôn ao ước mình biến thành, hoá thành
những vật dụng dường như nhỏ bé, tầm thường nhưng rất cần thiết cho cuộc
sống. Ước thành lá dong, dây lƣng, hộp đựng thuốc. Hay đó chính là ước
nguyện có được một tình yêu gắn bó, thuỷ chung. Khát vọng tình yêu gắn bó
nên duyên vợ chồng được thể hiện chân thành, thẳng thắn, hồn nhiên qua
nhiều câu hát nữa:
Tra hạt hai ta thành một đôi
Xuống nƣớc lên non tay dắt tay
Khổ đau cùng nhau chẳng oán trời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
46
Rửa mặt cũng mong rửa cùng chậu
Đêm ngủ cũng mong chung một gối [51, tr.188].
Vì khi đã nên vợ nên chồng thì phải thương yêu, phải đồng cam cộng
khổ trước mọi hoàn cảnh của cuộc sống:
Đắng cay cả hai cùng cam chịu
Phúc thì cùng hƣởng, hoạ cùng cam [51, tr.194].
Quan niệm tình yêu gắn liền với hôn nhân và sự thuỷ chung đã trở
thành ước nguyện không chỉ của thanh niên nam nữ mà của cả cộng đồng
người Dao Tuyển. Điều này có ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Đạo giáo.
Mặt khác, tính chất phụ hệ là một đặc điểm nổi trội trong truyền thống gia
đình người Dao Tuyển xưa: Người vợ bao giờ cũng thuộc hẳn về người
chồng, việc vợ li hôn chồng dường như không bao giờ đặt ra trong xã hội.
Họ xem việc li hôn là tội lỗi. Hơn nữa, các chàng trai người Dao Tuyển vẫn
thường nhắc nhở nhau câu nói: “ Nhà có hai vợ nhà chẳng vui – Nƣớc có hai
vua nƣớc chẳng an”. Với truyền thống tư tưởng ấy người Dao Tuyển quan
niệm rằng: Tình yêu phải gắn liền với hôn nhân và sự thuỷ chung. Đã yêu
nhau thì phải cùng vượt qua mọi gian khó để đến với nhau trong niềm vui
hạnh phúc. Đó chính là một trong những nét đẹp của tâm hồn con người
đáng được trân trọng ngợi ca.
2.3.3. Tình yêu gắn liền với lao động sản xuất, xây dựng gia đình hạnh
phúc ấm no, bản làng giàu đẹp
Tình yêu gắn liền với lao động, xây dựng gia đình thực chất là quan niệm
thẩm mĩ của đồng bào Dao Tuyển về bản chất cái Đẹp gắn với con người và
bản chất các quan hệ của con người trong cộng đồng người Dao Tuyển. Nói
cách khác, con người đẹp ngoài những phẩm chất như có tình yêu thương
chung thuỷ còn phải biết lao động để xây dựng cuộc sống cho bản thân và gia
đình, nói rộng ra là để bảo tồn cộng đồng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
47
Bản chất của người Dao Tuyển vốn cần cù, chịu khó, yêu lao động. Đến
với bản làng của họ, ta dễ nhận thấy cuộc sống “ Mặt trời mọc thì làm, mặt
trời lặn thì nghỉ” đã gắn chặt với cuộc đời mỗi con người. Họ luôn đề cao lao
động, lấy lao động làm thước đo giá trị con người. Điều này được phản ánh
đậm nét trong thơ ca dân gian. Hình ảnh con người lao động chăm chỉ hiện
lên thật đẹp đẽ:
Con ngƣời lao động phải dậy sớm
Gà gáy mình đã phải dậy rồi
Cho gà, cho lợn ăn đã nuộm
Khi đến giờ thìn phải lên nƣơng [51, tr.79].
Tình yêu đôi lứa gắn liền với tình yêu lao động luôn được trai gái bày tỏ
trong những khúc hát giao duyên của mình:
Hết ngày xuân mới, tháng Nguyên Đán
Hai bên dắt tay đi cấy cày
Chặt cây hái cỏ ta cùng làm
Tra hạt hai ta thành một đôi
Xuống nƣớc lên non tay dắt tay [51, tr.188].
Những câu hát ấy thể hiện niềm vui, tinh thần đoàn kết trong lao động,
nhưng đằng sau nó ẩn chứa một quan niệm về tình yêu của con người. Dù có
phải “ Xuống nƣớc lên non” nhưng những đôi lứa yêu nhau vẫn tay trong tay
vượt qua mọi gian khó. Trong khung cảnh lao động, trời nắng gắt như đổ lửa,
các chàng trai cô gái vất vả tra lúa nương nhưng tiếng hát nam nữ như làn gió
thoảng, như đám mây vẫn cất cao:
Mùa hè tra hạt trời nắng nóng
Soi rát mặt ngƣời đẹp sắc tàn phai
Nếu ngƣời có thƣơng nàng trẻ đẹp
Ban cho mây lành che mặt trời
Gió mát thổi nhẹ qua đỉnh núi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
48
Trăm họ gieo trồng đỡ khó khăn
Nếu không mây gió che nắng nóng
Có tiếng hát xa thoả tấm lòng [51, tr.27].
Khung cảnh lao động trên nương rẫy là nơi để nam nữ trao đổi tình cảm,
tất cả từ hạt thóc, sợi bông, khung dệt, ruộng nƣơng đều là nguyên cớ cho
chàng trai, cô gái bày tỏ nỗi lòng được chung sống:
Lấy sợi dệt vải cả hai lần
Sinh con nối dõi nhờ cả hai
Đạo lí trời sinh mong làm bạn
Đâu phải một bên ân tình sâu
Hạt giống mọc cây ta hợp duyên
Thóc lúa về bồ ta chung sống [51, tr.28].
Trong niềm vui gặp gỡ, các chàng trai, cô gái luôn mong kết duyên đôi
lứa, khao khát nên duyên vợ chồng không chỉ đơn thuần là khao khát hạnh
phúc lứa đôi, mà mong thành đôi lứa để cùng nhau chung tay lao động, bồi
đắp cho tình yêu vững bền.
Đây là lời hát của cô gái trong hội hát xin cốm:
Nếu đƣợc vui vầy ngày đến ngày
Dắt tay gặt lúa chẳng muốn rời
Gặt hái lúa vàng trên đỉnh núi
Chẳng hết duyên ý, tình uyên ƣơng [51, tr.217].
Còn đây là lời hát của chàng trai:
Lúa vàng năm nào đƣợc mùa về
Uyên ƣơng năm nào cũng ngọt ngào
Đêm nay cạn chén rƣợu Trùng Dƣơng
Ngọt nhƣ hoa quả ở Đào Nguyên
Hai bên ghi lòng đợi ngày sau
Cùng nhau lên núi để gặt lúa [51, tr.216].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
49
Công việc lao động của người Dao Tuyển rất vất vả, ruộng ít, chủ yếu là
nương rẫy nơi hốc đá, năng xuất lao động thấp. Đã bao đời cái nghèo, cái khó
đè nặng lên cuộc đời những người dân lao động. Thế nhưng họ vẫn tin tưởng,
lạc quan vào công việc lao động của mình sẽ cho kết quả tốt:
Hôm nay tra lúa hát cho hay
Năm nay nhất định đƣợc mùa vàng [51, tr.85].
Họ không lo đất xấu, rừng sâu, chỉ lo thiếu chăm chỉ:
Lƣời biếng vợ chồng ôm nhau ngủ
Chẳng cày, chẳng cấy lấy gì thu [51, tr.213].
Họ gắng sức lao động không phải chỉ để nuôi sống gia đình, bản thân mà
còn để gìn giữ cho thể hệ tương lai:
Trên nƣơng tất cả trai gái hát
Trai gái cùng ca lòng càng vui
Chung hát lời ca chung gắng sức
Nuôi sống đời sau cháu cháu con [51, tr.90].
Biết lao động để xây dựng gia đình, để gìn giữ thế hệ con cháu là một
tiêu chuẩn quan trọng vì thực chất nó liên quan đến vấn đề sống còn của gia
đình và cộng đồng. Khát vọng lao động để xây dựng gia đình hạnh phúc, ấm
no cũng chính là góp phần làm cho bản làng thêm tươi đẹp:
Mong cho thời tiết đƣợc thuận hoà
Năm năm cày cấy mùa bội thu
Vạn vật sinh sôi, ngƣời vui vẻ
Nam nữ gọi tình chẳng nghỉ ngơi [51, tr.177].
Vậy là, khát vọng xây dựng gia đình hạnh phúc ấm no, bản làng giàu đẹp
luôn thường trực trong tâm hồn của mỗi chàng trai, cô gái. Khát vọng ấy có
giá trị nhân văn sâu sắc. Bởi con người chỉ đẹp khi có đủ những phẩm chất
như lòng nhân ái, tình đoàn kết, sự thuỷ chung và cả tình yêu lao động nữa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
50
2.4. Thơ ca dân gian của ngƣời Dao Tuyển là tấm gƣơng phản chiếu đời
sống tập quán tín ngƣỡng của con ngƣời
Hiện nay, thơ ca nghi lễ phong tục của tộc người Dao Tuyển ở Lào Cai
đã được sưu tập khá đầy đủ, tuy số lượng chưa phải là nhiều nhưng khá phong
phú về tiêủ loại. Đặc biệt trong cuốn sưu tầm Thơ ca dân gian ngƣời Dao
Tuyển của tác giả Trần Hữu Sơn, diện mạo thơ ca nghi lễ của tộc người này
hiện lên khá rõ nét với các tiểu loại thơ ca trong lễ đặt tên con, thơ ca trong lễ
cấp sắc , thơ ca trong lễ cưới, thơ ca trong tang lễ, và thơ ca trong một số nghi
lễ khác như lễ gọi hồn lúa, hát gọi hồn lúa cái, thơ dâng hiến. Đọc các tiểu
loại này, chúng tôi nhận thấy: đời sống tập quán tín ngưỡng của con người với
một quan niệm nhân sinh tích cực được phản chiếu rất rõ trong thơ ca. Sau
đây chúng tôi sẽ đi tìm hiểu một số tiểu loại ấy.
2.4.1. Thơ ca trong lễ đặt tên con
Khi đứa trẻ sinh ra được 3 ngày tuổi, người Dao Tuyển tổ chức lễ đặt tên
con. Trong lễ đó, người cha đứa trẻ trực tiếp cúng và hát. Nội dung bài hát
toát lên một quan niệm nhân sinh tích cực: cầu mong cho các bậc tổ tiên, thần
thánh phù hộ, che chở cho đứa trẻ gặp điềm lành, không bị tà ma, khí độc
quấy nhiễu:
Cầu che chở con đƣợc phúc
Mang điềm lành đuổi tan ác dữ
Dù đi đâu không gặp gió độc
Bƣớc ra ngoài không mặt trời phơi.
Đặc biệt là cầu mong cho đứa trẻ mạnh mẽ chiến thắng được cái ác,
cái xấu:
Gặp ma ác, ma phải cúi đầu
Cái gì xấu bỏ đi nơi khác
Cái gì xấu không dám về gần [51, tr.91].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
51
Hơn thế nữa, bài hát còn là ước mong của những người làm cha mẹ
mong cho con mình trở thành người lương thiện, được mọi người yêu mến,
biết làm ăn, gặp nhiều may mắn trong cuộc sống. Đồng thời bày tỏ niềm vui
chung với mọi người khi gia đình có thêm thành viên mới:
Khi lớn lên không làm điều xấu
Biết buôn bán gặp nhiều phúc dày
Chắp tay khấn vái các thần trên
Cúi đầu khấn vái các thần dƣới
Báo hôm nay có thêm một ngƣời
Niềm vui lớn ghi tên dòng họ [51, tr.92].
Những câu thơ trên đã khái quát được những nét chính về thế giới quan,
nhân sinh quan truyền thống của người Dao tuyển. Qua đó ta thấy được phong
tục thờ cúng, thấy được thái độ sống chan hoà với anh em với xóm làng, thấy
được tinh thần hướng thiện, niềm tin vào tương lai của người Dao Tuyển.
2.4.2. Thơ ca trong lễ cấp sắc
Lễ cấp sắc được người Dao Tuyển tổ chức khi người con trai chuẩn bị
đến tuổi trưởng thành (trong khoảng từ 10 đến 17 tuổi), chủ yếu do thầy cúng
diễn xướng các bài kinh dưới dạnh thơ ca. Thơ ca trong lễ cấp sắc thấm đẫm
tinh thần Đạo giáo, Phật giáo. Lời lẽ trong các bài thơ có nhiều thuật ngữ kinh
Phật, kinh Đạo khá trừu tượng:
Ba nén hƣơng thơm mời Tam phẩm
Thầy sƣ Tam phẩm nhận vô cùng
Long não trình lên trƣớc án ngọc
Tam nguyên trông thấy tủm tỉm cƣời [51, tr.94].
Song điều đáng quý là tư tưởng nhân sinh trong đó: ước nguyện cho đứa
trẻ được trưởng thành, có cuộc sống sung sướng và trở thành con người tài
giỏi, có ích cho cộng đồng. Điều này có thể có tìm thấy ở hầu hết các bài ca.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
52
Chúng tôi xin trích dẫn một số đoạn trong phần “ Thụ giới ngũ đài ca” thể
hiện rõ tư tưởng nhân sinh ấy.
Ngọc nữ hát bài lên đèn:
Mong thầy mang đèn soi sáng tỏ
Đèn soi sáng cho từng đệ tử
Thân hình đẹp đẽ, dạ thông minh [51, tr.93].
Ngọc nữ hát bài lên hương:
Thầy truyền khuôn vàng nhƣ Đồng Nhi
Ban cho ân mới đƣợc trƣờng thọ
Văn võ giỏi dang nhƣ rồng bay [51, tr. 94].
Ngọc nữ hát khi ra ngoài:
Ta sẽ chuyển phép cấp sắc cho
Sau này thập phƣơng mong hành hoá
Trừ tà, diệt quỷ cứu dân thƣờng [51, tr.95].
Mặc dù lễ cấp sắc theo tinh thần của Đạo giáo và thơ ca trong lễ cấp
sắc chủ yếu là các bài kinh do ông thầy diễn xướng nhưng cách trao truyền
những bài thơ đó cho thế hệ sau thì hết sức độc đáo: gần kết thúc buối lễ, đứa
trẻ được cấp sắc cũng phải đọc từng bài thơ như cấp nghiên mực, cấp bút
lông…Người được cấp sắc muốn hát được phải học và như vậy, một cách tự
nhiên những người đàn ông trong cộng đồng đã thuộc một số bài dân ca trong
lễ cấp sắc. Đồng thời, những người dự lễ cấp sắc, vừa được thưởng thức, vừa
có thể nhập tâm mà thuộc những bài ca đó. Điều này đã làm nên sự trường tồn
của dân ca cấp sắc trong cộng đồng người Dao Tuyển.
2.4.3. Thơ ca trong lễ cƣới
Trong các bài ca nghi lễ đám cưới của người Dao Tuyển, một kho tàng
tri thức hết sức đồ sộ, uyên bác về lịch sử, văn hoá được trình bày bằng hệ
thống các điển tích, điển cố dày đặc. ảnh hưởng của tư tưởng văn hoá Trung
Hoa cổ đại và các tư tưởng Đạo, Phật, Nho trong các bài ca là rất rõ:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
53
Cái gì mở đƣợc miệng phƣợng hoàng
Lâu li mấy chén phụng âm dƣơng
Núi non nào ai khai ruộng đất
Ai cấy trồng thóc gạo đến nay?
Quả gáo mở đƣợc miệng phƣợng hoàng
Lâu li sáu chén hiến âm dƣơng
Lịch sơn Chu Công khai thành ruộng
Thần Nông thóc lúa truyền đến nay [51, tr.103].
Đây là điểm khác biệt của thơ ca đám cưới người Dao Tuyển so với thơ
ca đám cưới của một số dân tộc khác như H.Mông, Giáy…Điều đặc biệt là
thông qua cách nói đầy tính ước lệ trên, các bài ca nghi lễ đám cưới chủ yếu
đề cập đến vấn đề sinh sôi nảy nở của vạn vật và con người:
Ai khơi nhẹ trong, đặt nặng đục
Măng trúc thành rừng núi nào sinh?
Ngƣời nào chỉ ra âm dƣơng khí
Phù du dân yếu niệm thời nao [51, tr.100].
Mong mở ra, âm dƣơng cùng dụng
Câu ơn đƣợc nhận đón rồng non [51, tr.105].
Nói về việc sinh sôi của vạn vật trong đám cưới chính là bày tỏ ước
nguyện của con người về sự trường tồn của giống nòi, về sự sống tồn tại vĩnh
viễn trên thế gian.
2.4.4. Thơ ca trong tang lễ
Trong đám tang của người Dao Tuyển, gia chủ phải mời người hát giỏi
đến hát phụ hoạ cho tiếng khóc than; đồng thời thầy cúng cũng trở thành thầy
hát, hát các bài ca nghi lễ. Tang ca ra đời luôn gắn liền với một quan niệm
nhân sinh tích tực của đồng bào Dao Tuyển. Họ cho rằng, con người có linh
hồn, khi chết linh hồn người chết vẫn ở bên cạnh người sống. Vì vậy, việc tổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
54
chức tang ma với những nghi lễ truyền thống rất được coi trọng. Những tác
phẩm tang ca ra đời và tồn tại như một sản phẩm tinh thần quan trọng trong
cuộc sống của cộng đồng người Dao Tuyển.
Tang ca của người Dao Tuyển đề cập đến sự ra đời của con người, sự
sống, cái chết, tả cảnh dẫn hồn người chết về với tổ tiên trên cơ sở cảm hứng
xót thương đối với người đã khuất. Chúng ta có thể thấy nhiều phía cạnh khác
nhau của cuộc sống trong tang ca. Tuy nhiên, giá trị nội dung bản chất nhất là
tính nhân văn đối với con người và cuộc sống con người. Thông qua việc
miêu tả những việc hiếu thảo mà con cháu đã làm để đền đáp công ơn sinh
thành, nuôi dưỡng của ông bà, cha mẹ; qua việc dẫn dắt linh hồn người chết
về với tổ tiên, cầu mong cho linh hồn người chết được thanh thản ở thế giới
bên kia, đồng bào Dao Tuyển đã dăn dạy, giáo dục con cháu về thái độ đúng
đắn đối với cuộc sống, về luân lí, về đạo đức, đạo lí làm người cho người
đang sống.
Tang ca trước hết bày tỏ tình cảm xót thương của người đang sống
đối với người đã chết. Đó là tình cảm của những người thân trong gia đình
(vợ hoặc chồng, con cái, dâu rể, cháu chắt), được bày tỏ qua giọng điệu của
thầy cúng:
Khi sống ân tình nặng nhƣ núi
Một đƣờng cùng tế tình hoà thuận
Oán trời ban cho số chẳng theo
Bắt bố ( mẹ ) ta sớm quy tiên
Giá biệt thân sinh lòng đau đớn [51, tr.107].
Dẫn đưa linh hồn người chết về với thế giới bên kia thấm đẫm tinh thần,
quan điểm nhân sinh quan đạo Phật, đặc biệt là quan điểm nhân quả:
Năm thành tâm với Diên La đế
Diên La con trời phán linh hồn
Ngự bút phân cho kiếp đời sau
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
55
Vui vẻ linh hồn nhận làm quan [51, tr.108].
Hát cúng về người chết nhưng tang ca lại luôn hướng về sự sống, cầu
mong cho người sống được bình an, giàu có và hạnh phúc vẹn toàn:
Mong cha (mẹ) vui chúc con cháu
Ban phúc bình an cho kiếp sau
Trăm thức tươi tốt và xinh đẹp
Nam thăng quan chức, nữ đoan trang [51, tr.115].
Như vậy, các câu thơ trong đám tang là một bộ phận quan trọng trong
diễn xướng đám ma và trong đời sống tinh thần, phản ánh nhân sinh quan, thế
giới quan phong phú tích cực và những tình cảm sâu nặng, thuỷ chung trong
đời sống cộng đồng người DaoTuyển.
2.4.5. Thơ ca trong một số nghi lễ khác
Là cư dân nông nghiệp, người Dao Tuyển có nhiều nghi lễ gắn liền với
các chu trình sản xuất nông nghiệp. Trong các nghi lễ đó, thơ ca dân gian là
một bộ phận quan trọng dùng để cúng tế hát ca, trở thành nội dung cơ bản của
các nghi lễ.
Thơ ca trong các nghi lễ nông nghiệp của người Dao Tuyển khá phong
phú như hát trong lễ gọi hồn lúa, cúng thần nông; hát đón hồn lúa cái; các bài
hát dâng hiến các sản phẩm nông nghiệp. Tất cả các bài hát ấy đều do thầy
cúng diễn xướng. Chúng mang đậm tính chất tôn giáo, có nhiều yếu tố ma
thuật, nhưng vẫn “ lấp lánh sáng soi rọi vào lịch sử hoặc phản ánh hiện thực
cuộc sống của ngƣời Dao”[51, tr.40].
Trong lễ gọi hồn lúa cúng thần nông, thầy cúng hát một cách thành kính
bài ca dài trước sự kính cẩn của cả làng. Mở đầu bài ca nêu lên mục đích của
việc cúng thần nông, gọi hồn lúa là để: Bảo vệ lúa non, mùa tƣơi tốt; mƣời
cây sinh đẻ trăm cây tròn, và kết thúc là Lúa hồn đƣa đến mọi kho tàng.
Nhưng phần lớn bài ca là một câu chuyện huyền thoại về sự tích ông Thần
Nông dạy người dân làm ra lúa gạo và chăn nuôi. Câu chuyện ấy có thể được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
56
tóm tắt như sau: Ngày xưa Ngọc Hoàng làm ra thiên địa, Phục Nhị Tề Muội
sinh ra loài người nhưng không có gì ăn Chỉ ăn cỏ cây cùng ngọn sóng, Thần
Nông nghĩ thương mà Nƣớc mắt ròng ròng chảy bèn đến Phùng Lai Sơn
Thượng ( nơi có hồn lúa đựng trong kho Thạch Ri ), rồi cho năm Thánh quân
hoá thành chuột trắng cắn bao tải ở Thạch Ri và lấy được giống lúa về hạ giới
trồng. Loài người không có trâu để cày bừa, Thần Nông sai lợn và chó đi dũi
dất để trồng lúa; lợn dũi được đất để trồng lúa, còn chó chỉ ngủ nhưng chó
tranh công của lợn, thế là từ đó Thần Nông chỉ cho lợn ăn cám, rau cỏ, còn
chó được ăn cơm:
Bây giờ truyền cho thế giới cƣời
Chó con ăn cơm không thành bảo ( ngọc )
Lợn con ăn chuối mới đáng tiền [51, tr.120].
Phần còn lại của bài ca là những lời cầu khẩn hồn lúa không phân tán
mọi nơi mà quy tụ trong kho nhà gia chủ:
Lúa hồn tứ phía lên bàn tâm
Bên trái lúa hồn canh cùng bếp
Bên phải lúa hồn nếp cùng tẻ
Tan rồi lúa hồn quay kho bịch [51, tr.121].
Cùng với nghi lễ cúng thần nông gọi hồn lúa, nghi lễ đón hồn lúa cái
cũng được người Dao Tuyển tổ chức một cách trang trọng và thành kính. Vào
đầu vụ, khi gặt những gánh lúa đầu tiên về nhà, người gánh lúa phải đứng ở
ngoài sân hát đối còn chủ nhà ra đón và hát đáp. Nội dung cuộc hát đôi đáp
với đại ý: Sau bao ngày mong đợi, nhờ có mưa thuận, gió hòa, nay lúa đã
chín, cần phải nhập kho để cho chủ quản; người gặt lúa, cầu chúc cho chủ nhà
được mùa, có nhiều thóc gạo; chủ nhà cảm ơn người gặt và mời các chàng
vào nhà uống rượu mừng, chúc các nàng gặt lúa tươi đẹp, đằm thắm.
Như vậy, các bài ca trong lễ gọi hồn lúa, cúng thần nông và đón hồn lúa
cái đã phản ánh tín ngƣỡng thờ nhiên thần của đồng bào DaoTuyển.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
57
Trong các nghi lễ cúng tổ tiên, cúng người quá cố, người Dao Tuyển có
hệ thống các bài ca, gọi chung là thơ ca dâng hiến như hiến trà, hiến rượu,
hiến cơm…Nội dung các bài ca đều đề cập đến nguồn gốc xuất xứ, quá trình
sản xuất, giá trị của những sản phẩm dâng hiến đối với cuộc sống con người.
Đây là một nghi thức dâng cúng các sản phẩm nông nghiệp rất phổ biến trong
tín ngưỡng của các dân tộc. Chúng tôi xin trích dẫn một số đoạn thơ ca dâng
hiến của người Dao Tuyển .
Hiến trà:
Chè là riêng hai ba tháng chè
Chƣa từng cốc vũ sớm nảy mầm
Ngọc nữ hái về xao trong chảo
Trong bếp xao ra hoa mẫu đơn
Ngày xƣa dƣới phàm không biết uống
Liền gốc, liền lá bó chảo xao [51, tr.129].
Hiến rượu:
Ngày xƣa bà Đỗ làm ra rƣợu
Năm dặm đã nghe mùi rƣợu thơm
Mƣời chén rƣợu thành mâm yến tiệc [51, tr.131].
Hiến cơm:
Năm năm cầm búa đi vào rừng
Xuân đến tra tẻ với tra nếp
Lại không để nếp pha vào tẻ
Ăn tẻ bèn đem tẻ đến giã
Ăn nếp bèn đem nếp đến giã [51, tr.132].
Như vậy, những bài ca dâng hiến đã thể hiện một kho tàng trí thức đồ
sộ, quí báu về lịch sử di cư, kinh nghiệm lao động sản xuất, tín ngưỡng
truyền thống và đặc biệt là đời sống tâm linh vô cùng phong phú của tộc
người Dao Tuyển.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
58
* Tiểu Kết
Người Dao Tuyển ở Lào Cai có một kho tàng thơ ca dân gian khá
phong phú, phản ánh một cách chân thực hiện thực đời sống, tư tưởng tình
cảm, phong tục, tập quán tín ngưỡng của con người.
Thơ ca than thân mà tiêu biểu là tiếng hát mồ côi hết sức sâu lắng, gây
xúc động mạnh mẽ lòng người về những cảnh đời trắc trở, éo le, bất hạnh của
kiếp người mồ côi, qua đó toát lên một tinh thần nhân văn cao cả.
Thơ ca giao duyên thể hiện đầy đủ các cung bậc, các sắc thái tình cảm
của tình yêu lứa đôi như thơ ca giao duyên của các dân tộc anh em khác. Tuy
nhiên, những câu hát, bài hát giao duyên của người Dao Tuyển vẫn mang
những nét bản sắc riêng, độc đáo. Điều này xuất phát từ quan niệm tình yêu
của họ: Tình yêu gắn liền với hôn nhân và sự thuỷ chung; tình yêu gắn liền
với lao động sản xuất, xây dựng gia đình hạnh phúc ấm no, bản làng giàu đẹp.
Qua những câu hát giao duyên của người Dao Tuyển, ta thấy được vẻ đẹp tâm
hồn và tính cách của tộc người này. Những con người luôn lạc quan yêu đời,
yêu lao động, yêu quê hương, luôn coi trọng đạo đức luân lí, sống chân thành,
phóng khoáng và mạnh mẽ. Những vẻ đẹp tâm hồn ấy có cội nguồn từ truyền
thống văn hoá tư tưởng của người Dao Tuyển và đó chính là bản sắc của họ
trong sự đối sánh với các dân tộc anh em khác.
Thơ ca nghi lễ phong tục khá phong phú với nhiều tiểu loại khác nhau.
Mỗi tiểu loại gắn liền với một phong tục riêng của người Dao Tuyển. Các tiểu
loại ấy là tấm gương phản chiếu những nét đẹp trong đời sống tập quán, tín
ngưỡng của con người với một quan niệm nhân sinh tích cực.
Tìm hiểu thơ ca dân gian nói chung, thơ ca dân gian người Dao Tuyển
ở Lào Cai nói riêng thì nhất thiết phải chú ý đến nội dung của lời ca, bên cạnh
đó còn phải chú ý đến diễn xướng và thi pháp biểu hiện. Trở lên, người viết
đã phân tích những nội dung cơ bản của thơ ca dân gian người Dao Tuyển ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
59
Lào cai. Dưới đây, người viết xin trình bày một số đặc điểm cơ bản của thi
pháp trong thơ ca dân gian người Dao Tuyển ở Lào Cai.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
60
CHƢƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP THƠ CA DÂN GIAN
CỦA NGƢỜI DAO TUYỂN Ở LÀO CAI
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV_08_SP_VH_PVQ.pdf