Luận văn Thực hành chính sách công nghệ để phát triển bền vững hệ thống sản xuất gốm sứ trên địa bàn thị xã Đông triều, tỉnh Quảng Ninh

PHẦN MỞ ĐẦU . 9

PHẦN NỘI DUNG.17

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHÍNH SÁCH CÔNG NGHỆ ĐỂ PHÁT

TRIỂN SẢN XUẤT GỐM SỨ BỀN VỮNG.17

1.1. Những khái niệm cơ bản về chính sách và chính sách công

nghệ. 17

1.1.1. Khái niệm về chính sách. 17

1.1.2. Khái niệm về chính sách công nghệ. 20

1.2. Khái niệm về phát triển bền vững . 24

1.2.1. Quan niệm về phát triển bền vững. 24

1.2.2. Quan điểm về phát triển bền vững ở Việt Nam và tỉnh Quảng

Ninh 27

1.3. Chính sách công nghệ và sự phát triển bền vững hệ thống

sản xuất gốm sứ .

1.3.1. Mối quan hệ giữa công nghệ và phát triển bền vững hệ thống

sản xuất gốm sứ .

1.3.2. Các chính sách công nghệ với sự phát triển bền vững hệ

thống sản xuất gốm sứ.

Tiểu kết Chương 1.

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HÀNH CHÍNH SÁCH CÔNG NGHỆ

VÀ THỰC HÀNH PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG HỆ THỐNG SẢN XUẤT

GỐM SỨ TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ ĐÔNG TRIỀU, TỈNH QUẢNG NINH

pdf32 trang | Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 494 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực hành chính sách công nghệ để phát triển bền vững hệ thống sản xuất gốm sứ trên địa bàn thị xã Đông triều, tỉnh Quảng Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g hoá một số vấn đề lý luận, kinh nghiệm thực tiễn liên quan trực tiếp tới vấn đề đổi mới công nghệ (ĐMCN) theo hướng thân thiện với môi 12 trường trong một số doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV); Đánh giá, phân tích, làm rõ những mặt được, chưa được, những nguyên nhân tương ứng trong việc ĐMCN hướng thân thiện với môi trường ở một số DNNVV trong những năm 2007-2012; Đề xuất giải pháp chính sách nhằm thúc đẩy DNNVV đầu tư đổi mới công nghệ theo hướng thân thiện với môi trường trong thời gian tới. 2.2. Các công trình nghiên cứu về thực hành (triển khai trên thực tế) Chính sách Khoa học công nghệ Trần Văn Đông (2010). Đề án“Tác động chính sách khoa học và công nghệ trên địa bàn tỉnh An Giang”, cho thấy trong hai năm 2009-2010 việc thực hiện các chính sách về khoa học và công nghệ kích thích kinh tế đã đạt được một số kết quả trên các lĩnh vực: Quản lý nhà nước về khoa học, quản lý công nghệ, hỗ trợ chuyển giao công nghệ, quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ, quản lý nhà nước về về tiêu chuẩn đo lường chất lượng và những chính sách thúc đẩy phát triển khoa học và đổi mới công nghệ trên địa bàn tỉnh An Giang. Từ đó đưa ra một số đề xuất và kiến nghị. Luận văn của tác giả Đào Việt Hà (2010) với đề tài “Thực hành chính sách thị trường kéo kích thích nhu cầu đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp công nghiệp (Nghiên cứu trường hợp nhóm ngành công nghiệp dệt tỉnh Nam Định)”, trình bày những vấn đề cơ bản về công nghệ và đổi mới công nghệ. Nghiên cứu các nội dung về chính sách thị trường kéo trong điều kiện của Việt Nam. Nghiên cứu và làm rõ những tác động của các chính sách thị trường kéo đến nhu cầu đổi mới công nghệ (ĐMCN) ở doanh nghiệp công nghiệp dệt tỉnh Nam Định. Đưa ra các giải pháp thực thi nhằm điều chỉnh những chính sách thị trường kéo nhằm kích thích nhu cầu đổi mới công nghệ ở doanh nghiệp công nghiệp dệt tỉnh Nam Định. Nguyễn Văn Thủy (2012). Đề tài “Nghiên cứu ngành gốm sứ Bình Dương quá trình phát triển và bảo tồn” đã đề cập một cách toàn diện về nghề gốm cổ từ thời tiền - sơ sử đến nguồn gốc ra đời của gốm sứ Bình Dương; các giai đoạn phát triển nổi bật của nghề gốm ở Bình Dương từ cuối thế kỷ XIX đến năm 2010. Việc phân bổ của các lò gốm và kỹ thuật truyền thống của gốm sứ Bình Dương: nguyên liệu, xử lý nguyên liệu, tạo dáng sản phẩm, mỹ thuật trên gốm. Nung sản phẩm: Kỹ thuật xây lò ống, kỹ thuật xây lò bao (lò bầu). Các loại sản phẩm gốm sứ Bình Dương, thị trường tiêu thụ, trong nước và nước ngoài. Đồng thời kiến nghị và đề xuất các biện pháp bảo tồn ngành gốm sứ Bình Dương trong giai đoạn phát triển tiếp theo, để ngành gốm có điều kiện phát triển, hội nhập và hiện đại hóa công nghệ sản xuất. 13 Nguyễn Minh Tân (2013). “Chính sách khuyến khích các tổ chức nghiên cứu và triển khai chuyển giao công nghệ phục vụ phát triển nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh” đã trình bày cơ sở lý luận về công nghệ, chuyển giao công nghệ và chính sách khuyến khích chuyển giao công nghệ. Nghiên cứu thực trạng hoạt động chuyển giao công nghệ và việc thực hiện các chính sách khuyến khích chuyển giao công nghệ (CGCN) trong nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2007- 2011. Tìm hiểu chính sách khuyến khích các tổ chức nghiên cứu và triển khai chuyển giao công nghệ phục vụ phát triển nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh: hỗ trợ nâng cao năng lực hoạt động CGCN trong nông nghiệp của các tổ chức đơn vị khoa học công nghệ của địa phương; hỗ trợ nâng cao năng lực tiếp thu công nghệ cho nông dân, doanh nghiệp Tuy nhiên, việc thực hành chính sách công nghệ để phát triển bền vững hệ thống sản xuất gốm sứ trên địa bàn thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh còn mới, chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào đề cập đến vấn đề này. Do đó, đây là lần đầu tiên vấn đề nghiên cứu về thực hành chính sách công nghệ để phát triển bền vững nghề gốm sứ được đặt ra để tiến hành nghiên cứu cụ thể, khoa học và có hệ thống trên địa bàn thị xã Đông Triều. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục tiêu nghiên cứu Luận văn đề ra mục tiêu nghiên cứu như sau: Định hướng điều chỉnh chính sách công nghệ để phát triển bền vững hệ thống gốm sản xuất gốm sứ thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục tiêu nghiên cứu trên, Luận văn có các nhiệm vụ sau đây: - Phân tích cơ sở lý luận về chính sách công nghệ phát triển bền vững hệ thống sản xuất gốm sứ; - Khảo sát thực trạng thực hành chính sách công nghệ để phát triển bền vững hệ thống sản xuất gốm sứ trên địa bàn thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh; - Định hướng điều chỉnh chính sách công nghệ để phát triển bền vững hệ thống gốm sản xuất gốm sứ thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. 14 4. Phạm vi nghiên cứu 4.1. Phạm vi nội dung nghiên cứu - Chính sách công nghệ để phát triển bền vững hệ thống sản xuất gốm sứ; - Phát triển bền vững hệ thống gốm sản xuất gốm sứ thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh; - Những tác động của các chính sách công nghệ đến hệ thống sản xuất gốm sứ. 4.2. Phạm vi không gian nghiên cứu Chính sách công nghệ sản xuất gốm sứ trên địa bàn thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. 5. Câu hỏi nghiên cứu - Việc thực hành chính sách công nghệ trong hệ thống sản xuất gốm sứ trên địa bàn thị xã Đông Triều đã diễn ra như thế nào? - Cần phải điều chỉnh chính sách công nghệ trong hệ thống sản xuất gốm sứ theo hướng bền vững trên địa bàn thị xã Đông Triều như thế nào? 6. Giả thuyết nghiên cứu Quá trình thực hành chính sách công nghệ trong hệ thống sản xuất gốm sứ trên địa bàn thị xã Đông Triều còn tồn tại nhiều thiếu sót, bất cập: chính sách tài chính chưa đủ mạnh, thủ tục phức tạp, mức độ nhận biết và thực hành chính sách công nghệ vào sản xuất còn yếu Điều chỉnh chính sách công nghệ theo hướng khắc phục hạn chế trong các chính sách phải gắn liền với việc sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên theo hướng phát triển bền vững nền sản xuất gốm sứ Đông Triều. Cụ thể thông qua các nhóm giải pháp như: - Giải pháp 1: Triển khai và thực thi các chiến lược, quy hoạch của tỉnh Quảng Ninh và thị xã Đông Triều - Giải pháp 2: Có các điều chỉnh đối với các chính sách công nghệ để phát triển bền vững hệ thống sản xuất gốm sứ, thể hiện trong các chính sách (Chính sách thuế, Chính sách về tài chính - tín dụng, Chính sách công nghiệp, Chính sách thương mại, Chính sách tăng cường xây dựng đội ngũ.) 7. Phương pháp nghiên cứu 7.1. Phương pháp thu thập thông tin 15 - Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Nghiên cứu cơ sở lý luận từ các lý thuyết có liên quan và kế thừa kết quả nghiên cứu từ các đề tài nghiên cứu đã có. Thu thập và phân tích thông tin từ các bài báo khoa học, từ kết quả các cuộc điều tra về hoạt động áp dụng chính sách công nghệ của doanh nghiệp, các văn bản chính sách có liên quan; - Phân tích chính sách: Thu thập các chính sách khuyến khích doanh nghiệp (các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển hệ thống gốm sứ của Chính phủ và tỉnh Quảng Ninh, các chính sách về thuế, tín dụng, thương mại, công nghiệp, công nghệ...). 7.2. Phân tích số liệu thống kê - Đối với các thông tin định lượng: thiết kế các biểu mẫu tổng hợp theo yêu cầu nội dung cần phân tích, đánh giá. - Đối với các thông tin định tính: sử dụng các suy luận logic, phương pháp chuyên gia, đưa ra các phán đoán về bản chất của các sự kiện, thể hiện mối liên hệ giữa các sự kiện. 8. Luận cứ 8.1. Luận cứ lý thuyết - Các khái niệm về công nghệ, chính sách khoa học công nghệ, phát triển bền vững; - Các chính sách tác động tới phát triển bền vững hệ thống sản xuất gốm sứ; - Liên hệ về mối quan hệ giữa chính sách và quá trình thực hiện, giữa chính sách công nghệ thúc đẩy nhu cầu phát triển với các chính sách khác. 8.2. Luận cứ thực tiễn - Kết quả phân tích một số chính sách công nghệ để phát triển bền vững hệ thống sản xuất gốm sứ; - Khảo cứu kinh nghiệm về chính sách công nghệ của một số nước trên thế giới thông qua việc nghiên cứu từ các công trình trên sách vở, các trang web, các nguồn thông tin chính thống 9. Kết cấu của luận văn Luận văn được trình bày theo các phần sau: - Phần mở đầu 16 - Phần nội dung Chương 1. Cơ sở lý luận chính sách công nghệ để phát triển sản xuất gốm sứ bền vững. Chương 2. Thực trạng thực hành chính sách công nghệ để phát triển bền vững hệ thống sản xuất gốm sứ trên địa bàn thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Chương 3. Điều chỉnh chính sách công nghệ để phát triển bền vững hệ thống sản xuất gốm sứ thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. - Kết luận và khuyến nghị - Tài liệu tham khảo 17 PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHÍNH SÁCH CÔNG NGHỆ ĐỂ PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT GỐM SỨ BỀN VỮNG 1.1. Những khái niệm cơ bản về chính sách và chính sách công nghệ 1.1.1. Khái niệm về chính sách Theo Từ điển tiếng Việt thì “chính sách” là “sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra”. Theo tác giải Vũ Cao Đàm thì “chính sách là một tập hợp biện pháp được thể chế hóa, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo sự ưu đãi một hoặc một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát triển của một hệ thống xã hội”1. Theo tác giả thì khái niệm “hệ thống xã hội” được hiểu theo một ý nghĩa khái quát. Đó có thể là một quốc gia, một khu vực hành chính, một doanh nghiệp, một nhà trường. Theo James Anderson: “Chính sách là một quá trình hành động có mục đích theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề mà họ quan tâm”. Như vậy, có thể hiểu: Chính sách là chương trình hành động do các nhà lãnh đạo hay nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm vi thẩm quyền của mình. Cũng có một định nghĩa khác, “chính sách là chuỗi những hoạt động mà chính quyền chọn làm hay không làm với tính toán và chủ đích rõ ràng, có tác động đến người dân”. 1 Vũ Cao Đàm (2005), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, xuất bản lần thứ 11, Hà Nội, tr. 26-27 18 Chính sách được hiểu theo nghĩa hẹp: Chính sách có thể được thể hiện thông qua, một chương trình, một mục tiêu của chương trình hay sự tác động của chương trình lên một vấn đề của xã hội. Thuật ngữ “chính sách” được dùng với nghĩa rộng hơn: như chính sách đối ngoại, chính sách đối nội; hoặc trong một nghĩa hẹp và cụ thể hơn ví dụ chính sách trợ cấp hay chính sách giải quyết đòi hỏi của sinh viên về nhà ở, học bổng. Các tổ chức quốc tế (Liên hiệp quốc) cũng thường đưa ra nhiều chính sách của mình nhằm đề cập đến những vấn đề quan tâm như cấm vận; phòng chống ma túy, việc làm, thất nghiệp. Thuật ngữ này cũng được sử dụng để chỉ cách ứng xử giữa các quốc gia với nhau - chính sách cấm vận của Mỹ chống Việt Nam trước đây là một ví dụ. Theo lý thuyết trò chơi (Game Theory) chính sách là một sự lựa chọn của các phương án chơi. Trong bối cảnh của sự cạnh tranh, lựa chọn một hoạt động mang tính tốt nhất không theo nghĩa tuyệt đối mà chỉ mang tính tương đối. Nghĩa là các nhà hoạch định chính sách lựa chọn cách thức tiến hành các hoạt động theo nguyên tắc: lựa chọn phương án tốt nhất trong tất cả các phương án mà công ty, nhà kinh doanh biết. Do đó, để đưa ra một chính sách cần vận dụng lý thuyết phân tích hệ thống, lý thuyết lựa chọn tối ưu cũng như nhiều công cụ toán học khác để quyết định cái tốt nhất. Như vậy, phân tích khái niệm “chính sách” thì thấy: - Chính sách là do một chủ thể quyền lực hoặc chủ thể quản lý đưa ra; - Chính sách được ban hành căn cứ vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế; - Chính sách được ban hành bao giờ cũng nhắm đến một mục đích nhất định; nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó; chính sách được ban hành đều có sự tính toán và chủ đích rõ ràng. Như vậy: Chính sách là chương trình hành động do các nhà lãnh đạo hay nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm vi thẩm quyền của mình. Từ đó có thể hiểu: Chính sách là một tập hợp biện pháp được thể chế hoá, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo sự ưu đãi một hoặc một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động của họ, định hướng hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát triển của một hệ thống xã hội. Mà “Hệ thống xã hội” ở đây được hiểu theo một ý nghĩa khái quát, đó có thể là một quốc gia, một khu vực hành chính, 19 một doanh nghiệp, một nhà trường,...  Các đặc trưng cơ bản của chính sách Thứ nhất, chủ thể ban hành chính sách công là Nhà nước. Nếu chủ thể ban hành các "chính sách tư" có thể là các tổ chức tư nhân, các đoàn thể chính trị – xă hội, cũng như các cơ quan trong bộ máy nhà nước để điều tiết hoạt động trong phạm vi tổ chức, đoàn thể hay cơ quan riêng biệt đó thì chủ thể ban hành chính sách công chỉ có thể là các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Vấn đề ở đây là các cơ quan trong bộ máy nhà nước vừa là chủ thể ban hành chính sách công, vừa là chủ thể ban hành "chính sách tư". Sự khác biệt là ở chỗ các "chính sách tư" do các cơ quan nhà nước ban hành là những chính sách chỉ nhằm giải quyết những vấn đề thuộc về nội bộ cơ quan đó, không có hiệu lực thi hành bên ngoài phạm vi cơ quan. Chính sách công do Nhà nước ban hành nên có thể coi chính sách công là chính sách của Nhà nước. Nhà nước ở đây được hiểu là cơ quan có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước, bao gồm Quốc hội, các bộ, chính quyền địa phương các cấp Thứ hai, các quyết định này là những quyết định hành động, có nghĩa là chúng bao gồm cả những hành vi thực tiễn. Chính sách công không chỉ thể hiện dự định của nhà hoạch định chính sách về một vấn đề nào đó, mà còn bao gồm những hành vi thực hiện các dự định nói trên. Chính sách công trước hết thể hiện dự định của các nhà hoạch định chính sách nhằm làm thay đổi hoặc duy trì một hiện trạng nào đó. Song, nếu chính sách chỉ là những dự định, dù được ghi thành văn bản thì nó vẫn chưa phải là một chính sách. Chính sách công còn phải bao gồm các hành vi thực hiện những dự định nói trên và đưa lại những kết quả thực tế. Nhiều người thường hiểu chính sách công một cách đơn giản là những chủ trương của Nhà nước ban hành, điều đó đúng nhưng chưa đủ. Nếu không có việc thực thi chính sách để đạt được những kết quả nhất định thì những chủ trương đó chỉ là những khẩu hiệu mà thôi. Thứ ba, chính sách công tập trung giải quyết một vấn đề đang đặt ra trong đời sống kinh tế – xã hội theo những mục tiêu xác định. Chính sách công là một quá trình hành động nhằm giải quyết một vấn đề nhất định. Khác với các loại công cụ quản lý khác như chiến lược, kế hoạch của Nhà nước là những chương trình hành động tổng quát bao quát một hoặc nhiều lĩnh vực kinh tế – xă hội, đặc điểm của chính sách công là chúng được đề ra và được thực hiện nhằm giải quyết một hoặc một số vấn đề liên quan lẫn nhau đang đặt ra trong đời sống xã hội. Chính sách công chỉ xuất hiện trước khi đó đã tồn tại hoặc có nguy cơ chắc chắn xuất hiện một vấn đề cần giải quyết. Vấn đề chính sách được hiểu là một mâu thuẫn hoặc một nhu cầu thay đổi hiện trạng xuất 20 hiện trong đời sống kinh tế – xă hội đòi hỏi Nhà nước sử dụng quyền lực công để giải quyết. Có thể nói, vấn đề chính sách là hạt nhân xuyên suốt toàn bộ quy trình chính sách (bao gồm các giai đoạn hoạch định, thực thi và đánh giá chính sách). Việc giải quyết những vấn đề nói trên nhằm vào những mục tiêu mà Nhà nước mong muốn đạt được. Thứ tư, chính sách công gồm nhiều quyết định có liên quan lẫn nhau. Trước hết, chúng ta không nên đồng nhất khái niệm quyết định ở đây với các quyết định hành chính, càng không thể coi đó chỉ là những văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước.  Mục tiêu của chính sách Chính sách là tập hợp các chủ trương và hành động về phương diện nào đó của chính phủ nó bao gồm các mục tiêu mà chính phủ muốn đạt được và cách làm để thực hiện các mục tiêu đó. Những mục tiêu này bao gồm sự phát triển toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế - văn hóa – xã hội – môi trường. Chính sách phát triển là tập hợp các chủ trương và hành động của chính phủ nhằm tạo phát triển bằng cách tác động vào việc cung cấp các yếu tố đầu vào (đất đai, lao động, vốn, cơ sở hạ tầng), tác động tới giá đầu vào hay giá đầu ra, tác động về việc thay đổi tổ chức, trong đó thị trường đầu vào và cả đầu ra được thực hiện, tác động vào chuyển giao công nghệ. 1.1.2. Khái niệm về chính sách công nghệ 1.1.2.1. Khái niệm về công nghệ Từ những năm 60 của thế kỷ XX, thuật ngữ “công nghệ” được sử dụng để chỉ các hoạt động ứng dụng những kiến thức là kết quả của nghiên cứu khoa học ở mọi lĩnh vực nhằm mang lại hiệu quả cao hơn trong hoạt động của con người. Khái niệm công nghệ này dần được chấp nhận và sử dụng rộng rãi trên thế giới nhưng việc đưa ra định nghĩa công nghệ lại chưa có sự thống nhất, nguyên nhân là do tính đa dạng của công nghệ, sự đa dạng trong quan điểm của các nhà nghiên cứu và sự phát triển của KH&CN Các tổ chức quốc tế và các nhà khoa học đã cố gắng đưa ra một định nghĩa về công nghệ có thể dung hoà các quan điểm, đồng thời tạo thuận lợi cho việc phát triển và hoà nhập của các quốc gia. Và bốn khía cạnh cần bao quát trong định nghĩa công nghệ gồm: - Khía cạnh “công nghệ là máy biến đổi”: đề cập đến khả năng làm ra đồ vật của công nghệ. Cần phân biệt giữa khái niệm công nghệ và kỹ thuật, hai khái niệm này đều quan tâm tới việc tạo ra các đồ vật, song công nghệ không những chỉ quan tâm tới việc tạo ra các đồ vật mà còn quan tâm tới hiệu quả của quá trình đó; 21 - Khía cạnh “công nghệ là một công cụ”: nhấn mạnh vào dạng tồn tại vật chất của công nghệ. Công nghệ là một sản phẩm của con người, do đó con người có thể làm chủ được nó. Vì là một công cụ nên công nghệ có mối quan hệ chặt chẽ đối với con người và cơ cấu tổ chức; - Khía cạnh “công nghệ là kiến thức”: nhấn mạnh vào dạng tồn tại phi vật chất của công nghệ, khía cạnh này đề cập đến cốt lõi của mọi hoạt động công nghệ là kiến thức và nó bác bỏ quan niệm công nghệ phải là các vật thể nhìn thấy được. Đặc trưng kiến thức khẳng định vai trò dẫn đường của khoa học đối với công nghệ, đồng thời nhấn mạnh rằng không phải ở các quốc gia có các công nghệ giống nhau sẽ đạt được kết quả như nhau. Việc sử dụng một công nghệ đòi hỏi con người cần phải được đào tạo về kỹ năng, kiến thức và luôn cập nhật những kiến thức đó; - Khía cạnh “công nghệ hàm chứa trong các dạng hiện thân của nó” dù là kiến thức song vẫn có thể mua được, bán được công nghệ là một loại hàng hoá, đó là do công nghệ hàm chứa trong các vật thể tạo nên nó. Từ các khía cạnh trên, trong luận văn này công nghệ được hiểu theo định nghĩa do uỷ ban kinh tế và xã hội khu vực Châu Á Thái Bình Dương (ESCAP): Công nghệ là “hệ thống kiến thức về quy trình và kỹ thuật dùng để chế biến vật liệu và thông tin. Nó bao gồm kiến thức, kỹ năng, thiết bị, phương pháp và các hệ thống dùng trong việc tạo ra hàng hoá và cung cấp dịch vụ”. Định nghĩa về công nghệ theo Ủy ban kinh tế và xã hội khu vực Châu Á Thái Bình Dương (ESCAP) đưa ra có tính bao quát các khía cạnh liên quan đến công nghệ. “Công nghệ là hệ thống kiến thức, nhấn mạnh bản chất cốt lõi của công nghệ là kiến thức, khẳng định vai trò dẫn đường của khoa học đối với công nghệ. Công nghệ có khả năng chế biến các nguồn lực thành hàng hoá và dịch vụ, do đó phải đáp ứng được mục tiêu sử dụng và các yêu cầu về kinh tế để được áp dụng trong thực tế. Công nghệ là công cụ, phương tiện, nhấn mạnh đó là sản phẩm của con người và con người có thể làm chủ được nó. Công nghệ hàm chứa trong các dạng hiện thân của nó như kiến thức, kỹ năng, thiết bị, các hệ thống do đó công nghệ có thể mua bán được”2. Theo định nghĩa này, khái niệm công nghệ không chỉ áp dụng cho các lĩnh vực sản xuất ra các sản phẩm vật chất mà còn được áp dụng cho các lĩnh vực sản xuất ra các sản phẩm phi vật chất như các dịch vụ xã hội Tuy còn có sự khác nhau giữa các định nghĩa này, nhưng xu thế chung hiện nay trên 2 ESCAP (1989), Technology Atlas Project- A framework for technology based development. Pg. 99 22 thế giới nhấn mạnh vào khía cạnh công nghệ là tri thức còn máy móc, thiết bị chỉ là vật mang tri thức. Vấn đề quan trọng nhất trong các định nghĩa về công nghệ đó chính là tri thức khoa học.  Các đặc trưng cơ bản của công nghệ Công nghệ là một loại hàng hoá nhưng là hàng hoá đặc biệt vì nó sản sinh ra sản phẩm, do vậy có những đặc trưng rất khác biệt với các loại hàng hoá khác. Muốn quản lý tốt công nghệ cần nắm vững các đặc trưng cơ bản của công nghệ. Nhiều nước đang phát triển đã không thành công trong việc dựa vào phát triển công nghệ để xây dựng đất nước, do không nắm vững các đặc trưng này. Trong nền kinh tế thị trường, công nghệ là một loại hàng hoá nhưng là một loại hàng hoá đặc biệt. Do là một sản phẩm đặc biệt nên ngoài những đặc trưng như những sản phẩm thông thường, công nghệ có những đặc trưng mà chỉ công nghệ (sản sinh ra sản phẩm) mới có. Các đặc trưng của công nghệ cần được nắm vững là: chuỗi phát triển của các thành phần công nghệ, độ phức tạp (mức độ tinh vi) của các thành phần công nghệ, độ hiện đại của các thành phần công nghệ và chu trình sống của công nghệ. - Chuỗi phát triển của các thành phần công nghệ : Phần kỹ thuật: Khởi đầu của phần cứng công nghệ là nghiên cứu nhu cầu, thiết kế, chế tạo thử, trình diễn, sản xuất hàng loạt, truyền bá, phổ biến và cuối cùng là bị thay thế bởi trang thiết bị mới. Các nước đang phát triển để có một công nghệ thường thông qua con đường nhập khẩu, do không trải qua các trình tự để có công nghệ nên khó nắm vững, tiến đến làm chủ được nó. - Mức độ phức tạp (độ tinh vi) của các thành phần công nghệ : Mức độ phức tạp của phần kỹ thuật được đánh giá theo các cấp như sau: 1) Các phương tiện thủ công sử dụng năng lượng cơ bắp con người hay súc vật là chủ yếu. 2) Các phương tiện có động lực, nguồn năng lượng là các loại động cơ nhiệt, điện thay thế cơ bắp. - Độ hiện đại của các thành phần công nghệ Khác với độ phức tạp của các thành phần công nghệ, độ hiện đại không thể chia thành “cấp” mà phải so sánh chúng với thành phần tương ứng được coi là “tốt nhất thế giới” vào thời điểm đánh giá. Công việc này đòi hỏi những chuyên gia kỹ thuật thành thạo trong việc sử dụng công nghệ đó. Có một số tiêu chuẩn chung để đánh giá mức độ hiện đại của các thành phần công nghệ. Độ hiện đại của phần kỹ thuật Chỉ tiêu đánh giá là hiệu năng kỹ thuật. Độ hiện đại của phần con người Đánh giá bằng chỉ tiêu: khả năng công nghệ. Độ hiện đại của phần thông tin Đánh giá bằng chỉ tiêu: Tính thích hợp của thông tin. Độ hiện đại của phần tổ chức Đánh giá bằng chỉ tiêu: Tính hiệu quả của tổ chức - Chu trình sống của công nghệ, sự phát triển của một công nghệ có qui luật biến đổi theo 23 thời gian. Quản lý công nghệ đòi hỏi có sự hiểu biết sâu sắc về chu trình sống của công nghệ, đặc biệt là mối quan hệ của chu trình sống công nghệ với sự tăng trưởng thị trường của nó. Để hiểu rõ chu trình sống công nghệ cần đề cập đến hai đặc trưng khác có liên quan, đó là giới hạn của tiến bộ công nghệ và chu trình sống của sản phẩm. Trong thời gian tồn tại của một công nghệ, công nghệ luôn biến đổi: về tham số thực hiện của công nghệ; về quan hệ với thị trường Trong nền kinh tế cạnh tranh, để duy trì vị trí của mình, các công ty phải tiến hành đổi mới sản phẩm, đổi mới qui trình sản xuất và thay thế công nghệ đang sử dụng đúng lúc khi có những thay đổi trong khoa học - công nghệ, trong nhu cầu thị trường.  Mục tiêu của quản lý công nghệ Mục tiêu quản lý công nghệ quốc gia: Quản lý Nhà nước về CN là dạng quản lý trong đó chủ thể quản lý chính là Nhà nước. Đó là dạng quản lý xã hội mang tính quyền lực Nhà nước, được sử dụng quyền lực Nhà nước của bộ máy hành chính Nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của con người trong lĩnh vực phát triển CN. Mục tiêu QLCN chú trọng vào việc xây dựng các chính sách để tạo điều kiện cho các tiến bộ KH&CN, chú trọng đến các công nghệ đang hoạt động để đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế bền vững và ngăn ngừa các tác động xấu của công nghệ có thể gây ra cho con người và môi trường tự nhiên. Quản lý công nghệ ở quy mô doanh nghiệp: Việc lựa chọn công nghệ phù hợp sẽ giúp cho DN có được lợi thế cạnh tranh và để làm được điều đó, các nhà quản lý đặc biệt là QLCN cần phải có kiến thức cơ bản về chiến lược cạnh tranh, nó sẽ giúp họ trong việc định hướng lựa chọn công nghệ. Mục tiêu QLCN là luôn đưa ra những quyết định khôn khéo trên mọi lĩnh vực nhằm tăng cường hiệu quả sản xuất kinh doanh và tạo lợi thế cạnh tranh của DN trên thương trường. 1.1.2.2. Khái niệm về chính sách công nghệ Khi nghiên cứu về chính sách đổi mới theo cách tiếp cận hệ thống đổi mới quốc gia (NIS), C. Edquyst (2001) cho rằng: Chính sách khoa học công nghệ nó

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf02050004671_1292_2003227.pdf
Tài liệu liên quan