LỜI CẢM TẠ. 1
LỜI NÓI ĐẦU. 2
MỤC LỤC . 4
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU TRONG LUẬN VĂN . 6
PHẦN MỞ ĐẦU . 7
1. Lý do chọn đề tài: .7
2. Mục đích nghiên cứu:.9
3. Đối tương nghiên cứu :.9
4. Giả thuyết khoa học: .9
5. Nhiệm vụ: .9
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu: .10
7. Phương pháp, và phương pháp luận nghiên cứu: .10
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN . 13
1.1. Khái quát lịch sử nghiên cứu vấn đề.13
1.2. Một số khái niệm: .15
1.2.1. Kiểm tra: .15
1.2.2. Thanh tra :.15
1.2.3. Thanh tra giáo dục .15
1.2.4. Thanh tra GV: .15
1.3. Thanh Tra Giáo dục. .15
1.3.1. Vai trò của TTGD. .15
1.3.2. Nhiệm vụ TTGD:.18
1.3.3. Các đặc điểm của người thanh tra GV:.20
1.3.4. Người TTGV trong giai đoạn mới:.20
1.3.5. Những phẩm chất năng lực cần có ở người thanh tra GV. .22
1.3.6. Tổ chức hoạt động thanh tra GV. .24
1.4. Người GV trường Trung học phổ thông - Đối tượng thanh tra.27
1.4.1. Vai trò, nhiệm vụ của người GV trung học phổ thông .27
1.4.2. Lao động của người GV trung học phổ thông:.29
1.4.3. Đánh giá người GV (trong việc thực hiện nhiệm vụ thứ nhất):.30
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THANH TRA GIÁO VIÊN TRƯỜNG THPT
TỈNH AN GIANG . 35
2.1. Tình hình đội ngũ giáo viên bậc THPT ở An Giang - đối tượng thanh tra:.35
93 trang |
Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 575 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thanh tra giáo viên ở các trường trung học phổ thông, tỉnh An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
việc phát triển nhân lực trước mắt và trong tương lai. Với tình hình
như thế cần có một đội ngũ GV thực sự có chất lượng để thực hiện nhiệm vụ trên. Chúng
tôi nhận thấy kiểm tra, đánh gia là khâu quan trọng trong quá trình dạy học, không những
cho phép xác định mức độ hoàn thành của quá trình dạy học mà còn giúp cả người dạy lẫn
người học điều chỉnh cách dạy cách học thông qua những thông tin phản hồi từ kết quả
thanh tra .... Qua nghiên cứu nhiệm vụ TTGV ở Việt Nam và một số nước, chúng tôi nghĩ
rằng TTGV không chỉ dừng lại ở việc xếp loại nên ngoài chức năng kiểm tra, đánh giá
thanh tra còn phải có nhiệm vụ tư vấn giúp đỡ, uốn nắn , sửa chữa đối tượng được thanh tra
từ đó thúc đẩy, giúp đỡ họ tiên bộ thực sư. Đánh giá tiết dạy của GV là bước cần thiết
nhưng không phải là bước cuối cùng của công tác TTGV, việc trao đổi sau khi dự giờ để
tìm cách tối ưu hoa tiết dạy mới là điều mà công tác thanh tra chuyên môn nhắm đến . Vì
vậy TTV cần phải đầu tư nhiều thời gian và công sức cho buổi làm việc sau dự giờ. Những
quan niệm trên đã chi phối việc chon lọc, đào tạo và tác nghiệp của TTV.
Kết luận
TT GV là nhiệm vụ trọng tâm của TTGD, nó đóng một vai trò quan trọng trong việc
nâng cao chất lượng giáo dục, cụ thể hơn lavnó kiểm tra, đánh giá. tư vấn để thúc đẩy sự
phát triển của đội ngũ GV trong tình hình hiện nay. Nhiệm vụ và nội dung thanh tra tương
34
ứng với mỗi giai đoạn phát triển xã hội khác nhau, việc đánh giá GV phải căn cứ vào mục
tiêu đào tạo, để làm được điều đó người thanh tra phải có đầy đủ những năng lực và phẩm
chất cần thiết, biết vận dụng tiêu chí đánh giá, biết sử dụng công cụ, phương pháp đánh giá
phù hợp với từng đối tượng cụ thể. từ đó mới có thể nâng cao hiệu quả hoạt động TTGV ở
An Giang .
35
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THANH TRA GIÁO VIÊN TRƯỜNG
THPT TỈNH AN GIANG
2.1. Tình hình đội ngũ giáo viên bậc THPT ở An Giang - đối tượng thanh tra:
Số lượng:
(Bảng 2.1)Thống kê hiện trạng trình độ nghiệp vụ sư phạm GV trung học phổ thông ở
An Giang tính đến năm học 2002 – 2003
Tính đến đầu năm học 2002-2003, số GV THPT của tỉnh An G lệ 199ang)
•Chất lượng;
(Bảng 2.2) Thông kê kết quả xếp loại tay nghề GV ở 2 năm học
36
Tính đến đầu năm học 2002-2003, số GV THPT của tỉnh An Giang là 1506 GV. Số
lượng GV có tăng nhưng vẫn còn thiếu, nhất là các bộ môn Giáo dục quốc phòng, Kỹ thuật
công nghiệp, nông nghiệp, số GV được đào tạo sau đại học còn quá thấp. Số GV chưa đạt
chuẩn chiếm tỉ lệ 199/1506.(13.2%)
(Nguồn từ Phòng Tổ chức Sở GD&ĐT An Giang)
•Chất lượng:
(Bảng 2.2) Thống kê kết quả xếp loại tay nghề GV ở 2 năm học
(tính theo chu kỳ thanh tra )
37
( Nguồn từ báo cáo tổng kết năm học của các trường THPT tỉnh An giang.)
Biếu đồ 2.1- So sánh kết quả xếp loại tay nghề GV ở 2 năm học
38
GV được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau (Tại chức, Từ xa, Chính quy...) nên năng
lực giảng dạy khác nhau. Chất lượng đội ngũ GV không đồng đều giữa các trường, giữa các
bộ môn. Hầu hết các trường trung học phổ thông mới thành lập, hoặc ở vùng sâu, vùng xa
thì đội ngũ nòng cốt về chuyên môn còn mỏng, đa số là GV trung học cơ sở tốt nghiệp đại
học tại chức hoặc từ xa được đưa lên giảng dạy cấp trung học phổ thông. Ngược lại, các
trường ở thành phố, thị trấn đội ngũ GV có năng lực chiếm tỷ lệ cao, nhưng cũng còn một
số ít GV lo chạy theo kinh tế nên có biểu hiện thiếu trách nhiệm đối với chức trách được
giao, thiếu ý thức học tập để nâng cao trình độ về nghiệp vụ chuyên môn, hiện nay trên toàn
tỉnh chỉ có hai GV đạt trình độ thạc sĩ đạt 0,12 %.
Qua kết quả xếp loại tay nghề GV của hiệu trưởng các trường THPT ở hai năm cuối
của hai chu kỳ thanh tra cho thấy năng lực giảng dạy của GV có tiến bộ song chưa đều giữa
các môn và giữa các trường với nhau. GV xếp loại tốt chiếm tỉ lệ khá cao 20.7% (tập trung
nhiều vào các trường ở thành phố, thị xã, thị trấn), xếp loại khá đạt 50.5%, tỉ lệ GV đạt yêu
cầu giảm không đáng kể, từ 29.4% (năm học 1997-1998) giảm còn 28.8% (năm học
2002-2003) cho thấy trình dô nghiệp vụ tay nghề GV vẫn chưa được nâng lên, không có GV
nào xếp loại chưa đạt yêu cầu, trong khi kết quả học tập của học sinh vẫn còn nhiều yếu
kém, chất lượng giảng dạy vẫn cồn là vấn đề đang được quan tâm. Với cơ sở phân tích trên
cho thấy việc đánh giá, xếp loại của trường chưa phản ánh đúng tình hình thực tế giảng dạy
39
của GV, và giúp đỡ GV nâng cao tay nghề là việc làm hết sức cần thiết trong việc xây dựng
đội ngũ GV với chất lượng thật sự.
•Sự quan tâm của GV về công tác thanh tra :
Qua tham khảo ý kiến GV ở 12 môn của 15 trường THPT (GV có tay nghề tốt, khá,
đạt yêu cầu, chưa đạt yêu cầu) Họ cho rằng TTV giúp GV thấy được những mặt mạnh, yếu
trong chuyên môn nghiệp vụ mà bản thân không nhận ra hết, nhất là GV trẻ, mới vào biên
chế, GV ở những trường có quy mô nhỏ, tổ chuyên môn mỏng ...rất cần sự đánh giá của
TTV để có những hiểu biết thêm về chuyên môn, phương pháp giảng dạy bộ môn và sau kết
quả thanh tra, TTV cũng đề xuất kiến nghị ban giám hiệu hỗ ượ thêm về chuyên môn, tạo
điều kiện thuận lợi hơn cho GV trong quá trình giảng dạy, trong việc nâng cao tay nghề.
75% ý kiến GV cho rằng thanh tra là để giúp đỡ, khuyên khích GV. 87% ý kiến cho rằng
việc thanh tra GV là cần thiết.
• Các yếu tố tâm lý tác động đến GV trong quá trình thanh tra:
Qua kết quả khảo sát cho thấy 24.3% GV không thích được thanh tra, trong đó có 15
% GV lớn tuổi (trong số 34,3 % GV lớn tuổi), công tác thâm niên càng cao thì lại càng có
tâm lý không muốn thanh tra dự giờ đánh giá mình vì cho rằng mình là người dạy lâu năm
có tay nghề vững không cần thanh tra nhất là những TTV trẻ đáng tuổi em, cháu họ lại càng
khó chịu. Với 9,3% GV mới ra trường (trong số 30,7 % GV thâm niên dưới 5 năm), chưa
đủ kinh nghiệm, chuyên môn nghiệp vụ còn yếu nên cảm thấy lo lắng, sợ hãi khi được
thanh tra dẫu cho rằng qua thanh tra giúp họ rất nhiều về chuyên môn, nâng cao tay nghề.
Ngoài ra, kết quả đánh giá xuề xòa, dễ dãi, không công bằng... nên có GV ngán ngại hoặc
có thái độ không hợp tác khi được thanh tra.
Còn 63.7% GV công tác ở những trường có nền nếp, hoạt động quy củ, ban giám hiệu
quản lý chặt chẽ, nến họ cho việc được thanh tra là điều bình thường. Ngược lại đối với GV
ở những trường ban giám hiệu ít quan tâm kiểm tra đánh giá GV thì họ cảm thấy thiếu tự
tin, hoặc khó chịu khi được thanh tra.
40
Cũng có 12% GV thích được thanh tra để tự khẳng định mình, ham học hỏi, muốn
được giúp đỡ về nghiệp vụ chuyên môn, nâng cao tay nghề đó là những GV có ý thức, có tư
tưởng đạo đức tốt, tinh thần trách nhiệm cao, có lòng nhiệt thành, tận tâm với nghề.
2.2. Hoạt động thanh tra GV :
2.2.1. Quan điểm nhận thức của các cấp quản lý, TTV đối với hoạt động thanh tra
GV :
Lãnh đạo giáo dục các cấp từ Sở đến trường đều có nhận thức đúng đắn về mục đích
TTGV, vai trò của TTV, và đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho hoạt động này. Qua phỏng
vấn ưực tiếp với các đồng chí: Giám đốc Sở, Trưởng phòng Trung học, Thanh tra Sở, hiệu
trưởng một số trường và thăm dò ý kiến của TTV; qua cuộc hội thảo thanh tra năm học
2002-2003, chúng tôi đã ghi nhận một số ý kiến về hoạt động TTGV ở An Giang như sau :
•Giám đốc Sở GD&ĐT là người trực tiếp chỉ đạo công tác thanh tra, nhận xét về tình
hình giáo dục của tỉnh An Giang trong những năm qua có những bước chuyển biến đáng kể,
đội ngũ GV đạt chuẩn về chuyên môn ngày càng tăng, nhiệt tình tâm huyết, hết lòng vì sự
nghiệp trồng người đã góp phần đáng kể trong việc nâng cao chất lượng giáo dục địa
phương. Song vẫn còn một bộ phận GV hạn chế về trình độ nhận thức, năng lực chuyên
môn, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ương giai đoạn
mới, nhất là còn yếu kém về phương pháp giảng dạy. Do đó việc TTGV để có cơ sở bồi
dưỡng hoặc đào tạo GV là việc làm thường xuyên và hết sức cần thiết. Để thực hiện cộng
tác TTGV, cần có một lực lượng TTV đủ về số lượng mạnh về chất lượng nhằm đảm bảo
việc đánh giá chính xác việc giảng dạy của GV, phát hiện những hạn chế... qua đó có những
đề xuất với các cấp quản lý yêu cầu cần thiết để hỗ trợ chuyên môn cho GV. Giám đốc Sở
đánh giá cao vai trò của TTV giúp đỡ GV về chuyên môn một cách thiết thực, là một trong
những yếu tố góp phần nâng cao chất lượng GD&ĐT, nâng cao chất lượng giảng dạy của
GV nhất là trong tình hình hiện nay, khi mà chất lượng giảng dạy của GV vẫn còn nhiều hạn
chế chưa đáp ứng tình hình đổi mới. Qua kết quả thanh tra, giúp Sở GD & ĐT đề ra các biện
41
pháp quản lý thích hợp nhằm thực hiện đạt mục tiêu quản lý. đặc biệt đề ra chiến lược xây
dựng đội ngũ GV với chất lượng thật sự đủ sức đáp ứng nhu cầu phát triển giáo dục của địa
phương trong tình hình mới.
•Phòng Trung học là phòng chức năng, chỉ đạo hoạt động chuyên môn ở các trường
ttực thuộc về việc thực hiện chương trình, nội dung sách giáo khoa theo quy định hiện hành,
việc đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh. Để có
những thông tin phản hồi từ phía GV trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, phải
nhờ lực lượng TTV là những người kiểm tra phát hiện ra những sai sót về chuyên môn, nhất
là việc cải tiến phương pháp giảng dạy, (Có GV không tích cực thực hiện, có GV không đủ
khả năng ) việc đổi mới quan niệm, phương pháp và thói quen trong dạy học cả một thế hệ
thầy cô giáo là một việc khó khăn; cần phải cập nhật tri thức mới, vừa có trình độ sư phạm
lành nghề, thích ứng với phương pháp dạy học mới, biết ứng xử tinh tế, biết phát huy năng
lực của mỗi cá nhân học sinh, biết vận dụng các phương tiện giảng dạy... TTV là những
người nòng cốt về chuyên môn, có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy, được bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ thường xuyên, qua thanh tra sẽ có những ý kiến đóng góp kịp thời
cho giáo viên, nhằm khắc phục những hạn chế, thiếu sót về chuyên môn ương quá trình
giảng dạy.
Sở GD&ĐT sử dụng kết quả đánh giá để có những điều chỉnh, bổ sung chỉ đạo kịp
thời về hoạt động chuyên môn ở các trường trực thuộc. Qua đó cho thấy qua trình quản lý
của phồng trung học không thể thiếu vai trò thanh tra trong lĩnh vực chuyên môn, Từ đó đã
có kế hoạch phối hợp nhịp nhàng với Thanh tra Sở trong hoạt động TTGV, và mỗi chuyên
viên phòng trung học là một TTV phụ trách một môn.
•Thanh tra sở Giáo dục & Đào tạo An giang cho rằng ngoài thanh tra quản lý, thanh
tra chuyên đề, thanh tra và xét giải quyết khiếu nại, tố cáo, thanh tra GV là công việc trọng
tâm nhất trong hoạt động thanh tra. Không chỉ thanh tra GV theo chu kỳ 5 năm mà nó còn là
công việc thường xuyên đối với GV CÓ tay nghề còn non yếu. Mục đích TTGV không phải
để răn đe, cũng chẳng phải để xếp loại nên không dừng lại ở kiểm tra, đánh giá mà phải trao
42
đổi, tư vấn giúp đỡ họ tiến bộ thật sự. Từ đó, Thanh tra Sở đã tham mứu với Giám đốc sở
GD&ĐT đề ra các biện pháp TTGV gọn nhẹ, đạt hiệu quả, đồng thời chỉ đạo các TTV vận
dụng Thông tư 12/GDĐT trong việc đánh giá GV phù hợp với tình hình thực tế của giáo
dục địa phương để có kết quả chính xác nhất làm cơ sở phục vụ tốt cho công tác quản lý.
• Cán bộ quản lý các trường THPT: Qua khảo sát 30 đồng chí trong ban giám hiệu ở
15 trường THPT trong tỉnh, tất cả đều cho rằng TTV là người hiểu sâu về chuyên môn (hiệu
trưởng, phó hiệu trưởng, tổ trưởng chuyên môn chỉ biết chuyên một đến hai môn, không thể
am hiểu hết các môn một cách tường tận, sâu sắc. Qua TT GV, TTV giúp cho trường có
được những thông tin về chuyên môn từ GV một cách chính xác, cụ thể nhất, từ đó có
những hoạt động chỉ đạo tốt hơn trong quá tành quản lý chuyên môn ở trường, tạo điều kiện
cho GV giảng dạy tốt, cụ thể như cung cấp trang thiết bị đồ dùng dạy học, sách báo tham
khảo cần thiết, hoặc theo dõi kiểm tra chặt chẽ hơn về thực hiện quy chế chuyên môn, tăng
cường công tác dự giờ thăm lớp, phân công tổ chuyên môn giúp đỡ. 75% ý kiến hiệu trưởng
cho rằng kết quả thanh tra GV là cơ sở để hiệu trưởng hiểu về chuyên môn của GV từ đó
làm căn cứ để sử dụng, bồi dưỡng hoặc đào tạo GV. 25% ý kiến cho rằng TTGV là để giúp
đỡ và khuyến khích sự cố gắng của GV. Như vậy, dù có hai ý kiến khác nhau về mục đích
TTGV, nhưng 100% ý kiến cán bộ quản lý được khảo sát đều cho rằng thanh tra GV là cần
thiết.
•Thanh tra viên cho rằng, tuy chỉ thanh tra một GV 1 lần/ 5 năm, nhưng người TTV
đóng một vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ và nâng cao năng lực chuyên môn của GV.
Chính khi thanh tra toàn diện một GV, đặc biệt sau khi dự giờ của GV, TTV và người được
thanh tra cùng nhìn lại tiết dạy đã được thực hiện để cùng phân tích đánh giá tìm ra những
biện pháp nhằm có thể cải thiện những lần dạy sau, qua việc phát hiện ra những ưu, khuyết
điểm trong chuyên môn, TTV đã có những trao đổi với GV nhằm giúp họ có những phương
pháp tối ưu trong giảng dạy, khuyến khích họ tự học tập và bồi dưỡng để nâng cao năng lực
chuyên môn. Ngoài ra, với kết quả thanh tra làm cho cán bộ quản lý trường học phải suy
nghĩ về hoạt động chuyên môn của trường, từ đó đề ra kế hoạch, biện pháp hướng dẫn, hỗ
43
trợ, giúp đỡ GV trong quá tình thực hiện nhiệm vụ chuyên môn. Cụ thể có 85% ý kiến hiệu
trưởng, 78.3 % ý kiến GV cho rằng hiệu trưởng đã giúp đỡ GV về chuyên môn sau khi
thanh tra.
2.2.2.Tổ chức bộ máy thanh tra :
TTV Sở GD&ĐT An Giang là công chức Nhà nước, được bổ nhiệm theo thẩm quyền:
UBND tỉnh (đối với Chánh thanh tra), Giám đốc Sở (đối với phó Chánh thanh tra), Thanh
tra tỉnh (đối với TTV), để thực hiện nhiệm vụ quyền hạn thanh tra nhà nước về GD&ĐT
theo quy định của pháp luật.
Thanh tra Sở GD & ĐT tham gia thực hiện các quyết định thanh tra của Uỷ ban Nhân
dân tỉnh, Thanh tra tỉnh, Giám đốc sở như : Lập kế hoạch, tổ chức các vụ việc thanh tra, kết
luận, kiến nghị các biện pháp giải quyết và chịu trách nhiệm về kết luận và kiến nghị của
mình.
Thanh tra Sở GD&ĐT An Giang gồm 6 đồng chí, được phân công như sau:
•Chánh thanh tra: phụ trách chung.
•Phó chánh thanh tra: thanh tra, giải quyết khiếu tố, thanh tra chuyên môn.
•Bốn TTV còn lại được phân công phụ trách bốn mãng công việc như sau:
+Thanh tra chuyên môn các môn khoa học tự nhiên, phổ cập THCS, theo dõi công tác
kiểm tra nội bộ trường học.
+ Thanh tra chuyên môn các môn khoa học xã hội, thanh tra việc thực hiện và theo dõi
công tác thanh tra GV ở các trường THPT,
+Thanh tra chuyên môn tiểu học, theo dõi hoạt động thanh tra tại các Phòng giáo dục.
+ Thanh tra tài chính, thanh tra việc quản lý, sử dụng, bảo quản cơ sở vật chất, thư
viện, thiết bị trường học.
Ngoài ra các TTV đều tham gia các đoàn thanh tra chuyên đề, thanh tra thi, thanh tra
giải quyết khiếu tố theo địa bàn đã phân công.
44
Thanh tra Sở là bộ phận tham mưu đắc lực cho Giám đốc Sở, qua đó kịp thời điều
chỉnh các hoạt động phù hợp với chỉ đạo của quản lý cấp trên, với kế hoạch đã đề ra. Trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ, lực lượng Thanh tra Sỏ đã phối hợp đồng bộ với các phòng
chức năng Sở GD & ĐT để điều hành lực lượng TTV, cộng tác viên thanh tra. Số lượng
TTV ở Thanh tra sở GD & ĐT An Giang được bổ nhiệm theo đúng tỉ lệ qui định của Thanh
tra Bộ GD & ĐT- 10% tổng số cán bộ, nhân viên của Sở GD & ĐT - song vẫn còn ít để thực
hiện nhiệm vụ thanh tra, cụ thể như khi thanh tra toàn diện các đơn vị trường học phải có sự
phối hợp tham gia của các phòng chức năng của Sở ( Tổ chức, Trung học, Khảo thí, Hành
chính tổng hợp...), đặc biệt trong công tác TTGV không thể bố trí được một số lượng TTV
chuyên trách đủ lớn để thanh tra nên phải bổ nhiệm một số TTV, được chọn trong số cán bộ
quản lý, GV giỏi. Số TTV này trên thực tế đã hoạt động tích cực nhưng chưa đủ tư cách
pháp lý vì chưa được Nhà nước công nhận, trong Nghị định 358/HĐBT trước đây gọi lập lờ
là cộng tác viên thanh tra là để bấu víu vào Pháp lệnh thanh tra nhưng thực tế họ đã tiến
hành thanh tra và tự đánh giá, kết luận về năng lực của một GV. Việc sử dụng đội ngũ TTV
như trên là chưa hợp lý, "cơm chấm cơm" chỉ là giải pháp tình thế, họ vừa thực hiện nhiệm
vụ giảng dạy vừa đảm nhiệm công tác thanh tra nên hiệu quả chưa cao.
2.2.3. Xây dựng lực lượng thanh tra GV:
Lực lượng TTV tại sở chưa đủ để thực hiện nhiệm vụ TTGV một nhiệm vụ trọng tâm
của TTGD, nên phải thành lập đội ngũ TTV, họ là những cán bộ quản lý, GV giỏi có nhiều
kinh nghiệm chuyên môn ở các trường THPT trong tỉnh
•Số lượng:
Căn cứ vào số lượng GV THPT trong tỉnh sở Giáo dục và đào tạo An Giang thành lập
đội ngũ TTV theo đúng tỷ lệ quy định của Bộ, số lượng thanh ra viên kiêm nhiệm đủ để
thanh tra GV, đảm bảo chỉ tiêu thanh tra hằng năm, đủ TTV cho 12 môn, số lượng TTV cho
một môn theo tỷ lệ cứ 1 TTV thanh tra 50 GV trong 5 năm. Mỗi môn đều có một chuyên
viên phòng trung học Sở giáo dục tham gia.
45
(Bảng 2.3 )-Thống kê tình hình đội ngũ TTV THPT nhiệm kì 2001-2003
• Nguồn đào tạo và công tác bồi dưỡng nghiệp vụ:
Các TTV được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau (chính quy, tại chức...). SỐTTV đã
tham gia thanh tra từ 3 nhiệm kỳ trở lên chiếm 59.7%, có nhiều kinh nghiệm trong TTGV,
vận dụng tốt các văn bản hướng dẫn trong việc đánh giá GV, hiểu rõ tâm lý từng đối tượng
GV, nên hiệu quả công tác cao, vừa đảm bảo chỉ tiêu, vừa đảm bảo tính chính xác khi xếp
loại GV.
46
Song 11,5% TTV mới tham gia thanh tra nhiệm kỳ đầu tiên, chưa có nhiều kinh
nghiệm, lúng túng trong khâu chuẩn bị, trong việc thực hiện quy trình thanh tra, cách xếp
loại, quan hệ ứng xử, đặc biệt trong cách dự giờ đánh giá GV, nên chưa đạt kết quả tốt
trong công tác thanh tra GV.
•Tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ:
Vào đợt bồi dưỡng hè các TTV luôn được tham gia lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra
do Thanh tra Sở tổ chức về lý luận nghiệp vụ thanh tra (vị trí, chức năng TTGD, vai trò
TTV), kinh nghiệm thanh tra, quán triệt các cơ sở pháp lý để thanh tra (thông tư
12/GD&ĐT ...). thời gian tổ chức khoảng 1 tuần. Ngoài ra, các TTV lần lượt được dự lớp
bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra tại trường Cán bộ Quản lý GD & ĐT Trung ương II.
+Mỗi năm, vào đầu tháng 9 thanh tra Sở tổ chức hội thảo TTV với nội dung:
-Kết hợp với Phòng trung học bồi dưỡng phương pháp giảng dạy bộ môn nhất là việc
thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng tích cực của học sinh.
-Dự giờ 2 tiết/môn, thống nhất cách đánh giá tiết dạy theo môn, thực tập đánh giá một
hồ sơ GV .
-Bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra, tiếp tục quán triệt thông tư 12/GD&ĐT, lưu ý về quy
trình TTGV, cách đánh giá xếp loại, nhất là đối với TTV mới tham gia lần đầu.
-Nhận xét, đánh giá rút kinh nghiệm hoạt động thanh tra trong năm học qua và tổng
kết hoạt động của một chu kỳ hoặc một nhiệm kỳ thanh tra (nếu có).
• Năng lực, phẩm chất:
Lực lượng TTV đủ sức đảm đương nhiệm vụ, hiểu rõ vai trò TTV đối với công tác
TTGV và luôn phát huy tác dụng của nó, mỗi TTV hiểu và nắm rõ quy trình thanh tra một
GV.
Hầu hết TTV là chuyên viên phòng trung học Sở GD&ĐT, cán bộ quản lý, GV dạy
giỏi ở các trường phổ thông trong tỉnh, có năng lực, nhiều kinh nghiệm trong chuyên môn,
có tay nghề vững, am hiểu phương pháp giảng dạy từng bộ môn, có khả năng đánh giá, phân
tích giờ dạy.
47
Qua kết quả khảo sát cán bộ quản lý, GV 15 trường THPT đã đánh giá năng lực, phẩm
chất TTV như sau:
Nội dung khảo sát Cán bộ QL GV
- Đánh giá chính xác giờ dạy. 68.3% 61.7%
- Khả năng thuyết phục để GV chấp nhận sự đánh giá 83.3% 83.6%
- Khả năng hướng dẫn giúp đỡ GV 90.0% 87.3%
- Khả năng đề xuất ý kiến cho hiệu trưởng và các cấp
quản lý
86.7%
- Khả năng viết báo cáo sau khi thanh tra 93.3%
-Tinh thần trách nhiệm trong công tác. 91.7%
- Gương mẫu, chí công, vô tư. 66.7% 68.3%
Kết quả khảo sát trên cho thấy chất lượng đội ngũ TTV vẫn chưa đều ở các môn, giữa
các TTV trong cùng một môn. Năng lực, trình độ chuyên môn của TTV còn khá chênh lệch,
phẩm chất đạo đức vẫn chưa đạt chuẩn, chưa thật sự công minh trong đánh giá, xếp loại GV
nên tỉ lệ kết quả thanh tra chính xác đạt thấp. Mục đích thanh Tra là để giúp đỡ GV nhưng
khả năng hướng dẫn giúp đỡ GV của TTV còn hạn chế, việc đề xuất ý kiến cho hiệu trưởng
và các cấp quản lý chưa được chú ý đúng mức, một phần do năng lực của TTV, một phần
do Thông tư 12/GD&ĐT không nhấn rõ đó là một trong những chức năng của thanh tra GV
cần phải thực hiện.
Theo đánh giá của lãnh đạo Sở GD&ĐT, Thanh tra sở thì năng lực của một số TTV
vẫn còn nhiều hạn chế, việc trao đổi giúp đỡ GV sau tiết dự giờ chưa có tính thuyết phục
cao, GV thường không thông nhất với kết quả đánh giá của TTV nhất là các GV được xếp
loại đạt yêu cầu. Việc đề xuất ý kiến cho các cấp quản lý là rất ít và không thiết thực. Ngoài
ra, do ảnh hưởng tâm lý nên một số TTV chưa thật sự vô tư, khách quan vẫn còn cả nể, xuề
xoa trong đánh giá xếp loại. tất cả những yếu tố trên đã dẫn đến kết quả TTGV chưa thật sự
chính xác.
48
Theo quan điểm của chúng tôi, công tác TTGV rất khó khăn, đòi hỏi đội ngũ TTV
phải thực sự có năng lực, phẩm chất tương xứng mới đủ sức đảm đương nhiệm vụ, mới thực
sự là nhà cố vấn sư phạm cho GV, là chỗ tham mứu đáng tin cậy cho cán bộ quản lý các cấp
trong việc xây dựng đội ngũ GV với chất lượng thực sự. Do đó, việc chọn lọc, xây dựng lực
lượng TTV kiêm nhiệm có chất lượng trong tình hình hiện nay (trong lúc TTV chuyên trách
chưa đủ để làm nhiệm vụ TTGV) là rất cần thiết.
•Về chế độ chính sách, các TTV được hưdng chế độ TTGV theo qui định của Thông
tư Liên Bộ số 16/ TTLB ngày 23/8/1995 hướng dẫn thực hiện chế độ đối với GV được điều
động làm nhiệm vụ TTGD, chi trả 40.000 đồng/một hồ sơ thanh tra, và công tác phí được
chi trả theo thực tế, ngoài ra không có khoảng phụ cấp nào thêm.
Chúng tôi thiết nghĩ, chế độ qui định như trên là không hợp lý, chưa tương xứng với
công sức đã bỏ ra, vì để thanh tra được một GV, TTV phải đi lại ít nhất 3 lần, nghiên cứu kỹ
về chương trình, bài dạy...., trao đổi, giúp đỡ GV, đôi lúc gặp các đối tượng gây khó khăn
trong quá trình thanh tra, mất lòng bạn bè, đồng nghiệp.
2.2.4. Tổ chức các hoạt động thanh tra GV ở An giang :
•Chương trình, kế hoạch của Sở GD&ĐT An Giang đối với hoạt động TTGD và
thanh tra GV:
Căn cứ vào các văn bản chỉ đạo của Bộ, hướng dẫn hoạt động TTGD của thanh tra Bộ,
thực tế hoạt động của năm học trước, rút kinh nghiệm những mặt làm được và chưa làm
được, tập ttung những việc cần phải làm, Giám đốc Sở chỉ đạo hoạt động TTGD và TTGV.
Qua đó Thanh tra Sở xây dựng nhiệm vụ năm học.
•Định hướng chung cho hoạt động TTGD trong năm và những việc cần tập trung
giải quyết:
Đánh giá xếp loại các trường học một cách toàn diện trên cơ sở các quy định về mục
tiêu, chương trình, kế hoạch đào tạo theo chỉ tiêu kế hoạch hàng năm, trên cơ sở phân tích
các ưu khuyết điểm từng đơn vị một cách cụ thể giúp cho thủ trưởng và tập thể sư phạm
49
nhận rõ tình hình đơn vị, chỉ ra những biện pháp sát hợp nhằm giải quyết những vấn đề cơ
bản, cấp bách, giúp thực hiện tốt các yêu cầu của nhiệm vụ năm học. Tổng hợp tình hình
GD&ĐT từng địa phương để thông báo và kết hợp với cấp ủy, chính quyền, lãnh đạo, chỉ
đạo tốt hoạt động này theo phân cấp quản lý. Mỗi năm thanh tra toàn diện 25% hoạt động
giáo dục của ba Huyện.
Thanh tra lao động sư phạm của GV thuộc các hệ bậc học theo tỷ lệ quy định từng
năm học, nhằm xác định mức phấn đấu theo từng mốc thời gian của từng Nhà giáo cụ thể.
Qua đó củng cố và tăng cường nề nếp kỷ cương dạy và học, khuyên khích và thúc đẩy việc
rèn luyện, nâng tay nghề các Nhà giáo.
Thanh tra các chuyên đề chuyên môn nhằm động viên, uốn nắn những lệch lạc trong
việc thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của trường học (thanh tra việc cải tiến phương pháp
giảng dạy, dạy thêm học thêm...).
Rút kinh nghiệm công tác quản lý trường học, việc thực hiện các loại quy chế, quy
định, các phong trào khác trong nhà trường để ngày càng nâng cao hiệu quả hoạt động của
lực lượng trong toàn ngành.
•Nội dung công tác:
Những nội dung cần hướng dẫn cho TTV, thời gian tổ chức hướng dẫn
50
Tài liệu ấn phẩmcác điều kiện để hoạt động của thanh tra Sở: các biểu mẫu dùng để
thanh tra trường học, thanh tra GV, thanh tra chuyên đề, các loại phiếu dự giờ, sổ tay TTGD
đã được in sẵn; hồ sơ thanh tra trường học, thanh tra GV được lưu trữ theo năm; các văn
bản hướng dẫn công tác thanh tra. Kinh phí cho hoạt động thanh tra: 102.500.000đ
Về TTGV: Số lượng GV được thanh tra phần lớn tập trung vào các đơn vị trường học
thuộc ba huyện sẽ được thanh tra trong năm học.
Lực lượng thực hiện TTGV là đội ngũ TTV Sở Giáo dục và Đào tạo đánh giá xếp loại
lao động sư phạm của GV cấp 3 ở trường THPT, THCN, TTGDTX.
Đội ngũ TTV Phòng Giáo dục đánh giá xếp loại lao động sư phạm của GV cấp 2 ở
trường THCS và ở trường THPT còn các lớp cấp 2, ở trường tiểu học, mầm non tại huyện.
Sở theo dõi kết quả.
•Các biện pháp để đảm bảo thực hiện kế hoạch thanh tra GV:
Sở tiếp tục tổ chức bồi dưỡng độ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tvefile_2014_05_27_7794164041_7671_1871452.pdf