Luận văn Thủy sản An Giang hiện trạng phát triển định hướng và giải pháp

Nghềnuôi trồng và khai thác thủy sản ởAn Giang đã có từrất lâu đời. Vào

khoảng thập niên 60 của thếkỷtrước, khi nghềkhai thác đạt qui mô và sản lượng

cao, cho được lượng tôm cá dồi dào thì bên cạnh đó nghềnuôi thủy sản tiến triển

song hành đểcung cấp lượng thủy sản hàng hoá quanh năm. Theo thời gian thì ngành

thủy sản ngày càng được củng cốvà phát triển góp phần quan trọng vào việc đảm bảo

1996 2000 2005

an ninh thực phẩm, tăng nguồn dinh dưỡng nhất là lượng prôtêin từcá rất tốt cho cơ

thểcon người, giúp ổn định và tăng tích lũy cho nền kinh tếtrong tỉnh.

pdf126 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3811 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thủy sản An Giang hiện trạng phát triển định hướng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
làm thức ăn cho cá, đó chính là lợi ích qua lại của mô hình lúa - thủy sản. Trước đây đối tượng thủy sản nuôi chân ruộng chủ yếu là cá mè vinh, cá mè trắng, cá rô phi, cá rô, cá lóc, cá chép,… nhưng từ năm 2000 trở đi đối tượng nuôi chủ yếu là tôm càng xanh vì lợi nhuận hơn rất nhiều so với nuôi cá. Vì vậy, mặc dù từ năm 1995 đến năm 2005 diện tích nuôi thủy sản chân ruộng có tăng khoảng 4,5 lần nhưng diện tích nuôi cá chân ruộng giảm, còn diện tích nuôi tôm càng xanh thì tăng lên. Bảng 2.6. Diện tích nuôi thủy sản theo mô hình nuôi chân ruộng Diện tích (ha) Năm Nuôi cá Nuôi tôm 1995 2000 2001 2002 2003 2004 2005 255,08 129,70 62,25 50,10 45,60 17,29 52,56 - - 199,26 276,17 329,80 472,51 - Nguồn: Sở NN & PTNT An Giang. Như vậy nuôi tôm chân ruộng phát triển từ năm 2000 đến nay và diện tích nuôi lại tăng nhanh. Về khu vực nuôi tôm chân ruộng chủ yếu tập trung ở huyện Thoại Sơn và một số vùng thuộc huyện Châu Thành và Châu Phú. + Nuôi đăng quầng ven sông: đây là loại hình nuôi mới áp dụng ở An Giang từ năm 2000 đến nay và đang có xu hướng gia tăng nhanh về diện tích. Bởi ưu điểm của mô hình này là chi phí đầu tư thấp, chất lượng cá tốt gần tương đương cá nuôi bè, sản lượng cao hơn nuôi cá ao, lợi nhuận cao. Song nhược điểm là gây ô nhiễm môi trường (đặc biệt là vào mùa khô), rất khó phòng trị bệnh khi có dịch bệnh xảy ra, làm phù sa bồi lắng lòng sông, gây cản trở luồng lạch giao thông, làm giảm tài nguyên nước. Đối tượng nuôi chính là cá tra, tôm càng xanh. Khu vực phân bố chủ yếu là đoạn sông Hậu thuộc xã Mỹ Hòa Hưng - Long Xuyên; Hòa Bình - Chợ Mới, nhờ địa hình sông thoai thoải, độ sâu cạn do phù sa bồi lắng. * Diện tích nuôi theo đối tượng Từ năm 1996 - 1998 đối tượng nuôi chính là: cá basa, cá lóc bông, cá hú, cá he, ngoài ra còn có các đối tượng nuôi phụ là cá lóc, cá rô đồng, cá rô phi, cá bống tượng, cá sặc rằn, cá trê phi, cá trê lai, cá chép, cá hường. Trong giai đoạn này đối tượng nuôi xuất khẩu chủ lực là cá tra, cá basa, cá lóc bông, cá he được nuôi bằng lồng bè. Các đối tượng còn lại được nuôi bằng ao và được tiêu thụ nội địa. Từ năm 1999 - 2003 đối tượng nuôi chính là cá tra, cá lóc bông, cá basa, cá hú, cá he, tôm càng xanh, cá rô phi, ngoài ra còn có các đối tượng nuôi phụ là cá lóc, cá rô đồng, cá thát lát, cá trê phi, cá trê lai, cá mè vinh, cá chép, cá chim trắng, cá mè, cá hường. Trong giai đoạn này đối tượng nuôi xuất khẩu chủ lực là cá tra, cá basa, cá lóc bông, cá he, cá rô phi, các đối tượng này được nuôi bằng lồng bè. Xu hướng nuôi cá basa xuất khẩu trong giai đoạn này giảm rất mạnh do thời gian nuôi lâu (khoảng 12 - 18 tháng), giá bán chênh lệch so với cá tra không nhiều đôi khi bằng hoặc thấp hơn. Các loại cá còn lại được nuôi bằng ao, chân ruộng, đăng ven và được tiêu thụ trong nước. Cá tra ngày càng trở thành đối tượng nuôi chiếm ưu thế vượt trội và là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của tỉnh An Giang, do thời gian nuôi ngắn, giá bán cao, vòng quay vốn nhanh, được người dân chấp nhận nuôi cao. Đây cũng là một lợi thế trong xuất khẩu, nhưng cũng quá phụ thuộc vào một đối tượng nuôi khi gặp khủng hoảng. Như vậy có 2 loại đối tượng thủy sản đặc trưng được nuôi ở An Giang trong thời gian qua, đó là cá và tôm. Diện tích nuôi được thể hiện như sau: Bảng 2.7. Diện tích NTTS theo đối tượng Năm Tổng DT (ha) %DT nuôi cá %DT nuôi tôm %DT ương nuôi cá giống 1995 2000 2001 2002 2003 2004 2005 1.373,08 1.252,21 1.252,11 1.787,77 1.560,90 1.896,29 1.835,81 100 96,6 78,6 81,9 72 64,2 61,2 - 0,7 18,8 15,8 23,7 29,5 32,0 - 2,7 2,6 2,3 4,3 6,3 6,8 Nguồn: Sở NN & PTNT An Giang. Qua đó cho thấy, trong tổng số diện tích nuôi, cá luôn chiếm tỉ trọng cao hơn so với tôm. Tuy nhiên, năm 2005 so với năm 2000 thì diện tích nuôi tôm ngày càng tăng lên, còn diện tích nuôi cá thì lại giảm. * Diện tích nuôi phân theo địa phương Do ảnh hưởng của điều kiện địa hình, thủy văn và tập quán sản xuất, nhìn chung ở các địa phương trong toàn tỉnh có sự phát triển khác nhau và không đồng đều. Trước tiên, đó là sự thay đổi về diện tích mặt nước, nếu như năm 1995 Chợ Mới, Châu Thành là những huyện đứng đầu về diện tích mặt nước NTTS, thì sang năm 2005 Thoại Sơn và Châu Phú chiếm vị trí ấy, vì đây là 2 địa phương phát triển rất mạnh hình thức nuôi chân ruộng. Cũng trong giai đoạn này, có 5 huyện tăng về diện tích nuôi như Châu Đốc, Phú Tân, Châu Phú, Tri Tôn, Thoại Sơn thì 6 huyện còn lại giảm. Cùng là những huyện miền núi nên Tịnh Biên và Tri Tôn có diện tích NTTS thấp nhất, tuy nhiên qua nhiều năm thì hướng phát triển của từng địa phương cũng khác nhau. Bảng 2.8. Diện tích mặt nước NTTS phân theo huyện Năm 1995 Năm 2005 Đơn vị ha % ha % Tỉ lệ năm 2005 so với năm 1995 (%) Tổng số Long Xuyên Châu Đốc An Phú Tân Châu Phú Tân Châu Phú Tịnh Biên Tri Tôn Châu Thành Chợ Mới Thoại Sơn 1.373,08 139,38 11,49 53,85 124,35 56,86 125,35 92,34 21,59 289,59 291,20 167,08 100 10,2 0,8 3,9 9,1 4,1 9,1 6,7 1,6 21,1 21,2 12,2 1.835,81 123,63 53,83 40,37 90,26 217,58 332,29 23,59 35,77 124,40 188,65 605,44 100 6,7 2,9 2,2 4,9 11,9 18,1 1,3 1,9 6,8 10,3 33,0 133,70 88,69 468,49 74,96 72,58 382,65 265,08 25,54 165,67 42,95 64,78 362,36 Nguồn: Cục thống kê An Giang. 2.3.2. Sản lượng thủy sản Do điều kiện tự nhiên, khí hậu và môi trường có tiềm năng lớn và đa dạng cho phát triển thủy sản, đặc biệt là nuôi cá lồng bè và nuôi tôm, các phụ phế phẩm từ chế biến lương thực, cá tạp, cua, ốc,… có thể tận dụng chế biến thành thức ăn nuôi thủy sản. Cho nên diện tích NTTS đã tăng lên nhanh chóng như đã phân tích ở trên, vì vậy có tác động tích cực đến sản lượng thủy sản. Bảng 2.9. Tổng sản lượng thủy sản thu hoạch (Đơn vị: tấn) Năm Tổng SL Cá Tôm Thủy sản khác 1995 2000 2005 103.635 171.424 232.139 86.095 148.663 217.947 178 91 745 17.362 22.670 13.447 Nguồn: Cục thống kê An Giang. Từ 1995 đến 2005 tốc độ tăng trưởng bình quân của sản lượng thủy sản là 8,3%/năm, trong đó sản lượng cá chiếm ưu thế hơn sản lượng tôm, trung bình sản lượng cá chiếm trên 80% tổng sản lượng thủy sản, nhưng sản lượng tôm thì tăng nhanh hơn cá, trung bình tôm tăng khoảng 4,2 lần, cá chỉ tăng 2,5 lần. * Sản lượng nuôi trồng 0% 20% 40% 60% 80% 100% 2001 2002 2003 2004 2005 Năm Cá tra Cá basa Cá lóc Cá và thủy sản khác Biểu đồ 2.5. Cơ cấu sản lượng thủy sản nuôi Nguồn: Cục thống kê An Giang. - Về mặt cơ cấu sản lượng thủy sản nuôi thì chủ yếu là cá tra, cá basa, ngoài ra còn có các loại cá khác như cá lóc, tôm, thủy sản khác. Qua biểu đồ cho thấy cơ cấu sản lượng thủy sản nuôi cá tra chiếm ưu thế nhất, chiếm từ 74% (năm 2004) trở lên, trong khi đó cá basa là loài thủy sản đặc trưng của An Giang mà sản lượng sản xuất càng ít dần và chiếm một tỷ lệ rất khiêm tốn từ 5% trở xuống. Nguyên nhân là do cá tra là loài ăn tạp, dễ nuôi, mau lớn, thích nghi tốt với các điều kiện nuôi khác nhau như nuôi trong ao hầm hoặc nuôi bè. Giống cá tra thì dễ tìm, cá có sức chống chịu tốt với môi trường khắc nghiệt, thời gian nuôi thu hoạch sớm, dễ chế biến, tỷ lệ fillet cao và dễ tiêu thụ. Còn cá basa mặc dù thịt cá thơm ngon và bổ dưỡng hơn nhưng do nhu cầu trao đổi oxy cao nên chỉ thích nghi với nuôi bè neo đậu ở vùng nước chảy mạnh (cá basa ở An Giang chỉ nuôi được ở đoạn sông Hậu thuộc Châu Đốc), thời gian thu hoạch chậm hơn cá tra. Mà giá thu mua nguyên liệu của cá tra nuôi bè và cá basa ít chênh lệch nên dẫn đến sản lượng cá basa ngày càng giảm. - Về mặt sản lượng thủy sản nuôi trồng nhìn chung tăng dần qua các năm, điều này thể hiện rõ nhu cầu của con người và nhất là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong ngành thủy sản. Có thể chia làm 2 giai đoạn: + Năm 1995 đến 2001, sản lượng thủy sản chủ yếu là khai thác, tỉ lệ % sản lượng thủy sản nuôi trồng trong tổng sản lượng là rất thấp, từ 34,2% đến 46,5%. + Từ năm 2002 đến 2005 thì hoàn toàn ngược lại. Sản lượng nuôi trồng ngày càng tăng, tính trung bình mỗi năm tăng 17,5% và chiếm tỉ lệ lớn trong cơ cấu tổng sản lượng, trên 75%. Nguyên nhân là do phát triển NTTS phù hợp với chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Đảng và Nhà nước, đồng thời NTTS còn khai thác, tận dụng mọi tiềm năng về tự nhiên cũng như KT - XH của tỉnh nhằm đảm bảo an ninh thực phẩm, tăng cường dinh dưỡng cho người dân và có dư để xuất khẩu. Bảng 2.10. Diễn biến sản lượng thủy sản nuôi trồng và khai thác Tổng SL SL nuôi trồng SL khai thác Năm Tấn % Tấn % Tấn % 1995 2000 2001 2002 2003 2004 2005 103.635 171.424 180.213 190.660 204.298 212.737 232.139 100 100 100 100 100 100 100 35.410 80.156 83.643 111.599 136.825 154.675 180.809 34,2 46,8 46,4 58,5 67,0 72,7 77,9 68.225 91.268 96.570 79.061 67.473 58.062 51.330 65,8 53,2 53,6 41,5 33,0 27,3 22,1 Nguồn: Cục thống kê An Giang. * Sản lượng thủy sản khai thác Về sản lượng khai thác thủy sản từ năm 1995 - 2005 có sự dao động lớn. Năm nào có lũ lớn thì sản lượng thủy sản tự nhiên có nhiều và sản lượng khai thác lớn như năm 1997. Những năm lũ lớn và liên tiếp nhau như năm 2000 và 2001 thì ngư trường được mở rộng, quy mô khai thác tăng lên, nguồn lợi cá tự nhiên được bổ sung rất nhiều từ thượng nguồn và phát triển tốt ở các thủy vực thuộc vùng ngập nước của tỉnh. Tuy nhiên nhìn một cách tổng quan thì sản lượng khai thác ngày càng giảm xuống, trong cả một giai đoạn sản lượng này giảm xuống 1,32 lần và năm 1995 chiếm 65,8% thì năm 2005 chỉ còn 22,1% trong tổng sản lượng. Nguyên nhân vì đây là ngành truyền thống nên phương tiện đánh bắt của ngư dân rất phong phú và đa dạng như: lưới kéo, lưới rê, lưới rùng, đăng, đáy, chà, vó, cào, vớn, lờ, lợp,… Hiện có một số loại hình đánh bắt thủy sản sử dụng điện (lưới kéo, lưới vây, lưới rùng) mang tính hủy diệt nguồn lợi thủy sản tự nhiên rất lớn, do đó nguồn lợi thủy sản ngày càng suy giảm mạnh và dần dần cạn kiệt. Ngoài ra do áp lực dân số, nhu cầu càng tăng, số lượng người tham gia đánh bắt thủy sản ngày càng nhiều. Hậu quả không chỉ nhanh chóng làm cạn kiệt nguồn lợi thủy sản tự nhiên mà còn ảnh hưởng rất lớn rất lớn đến năng suất, sản lượng của hộ nuôi cá lồng bè. Ngoài ra còn có nhiều yếu tố khác cũng có tác động làm giảm bớt nguồn lợi thủy sản tự nhiên, đó là nguồn cá từ Biển Hồ xuống ít do mực nước lũ thấp, đê bao tiểu vùng ngăn nước tràn đồng. Nhìn chung sản lượng thủy sản tự nhiên thuộc địa bàn tỉnh An Giang khá lớn so với các tỉnh khác trong khu vực, thành phần giống loài rất phong phú và đa dạng. Như vậy cần phải nghiên cứu các biện pháp phát triển nguồn lợi, khai thác và bảo tồn một cách hợp lý. 34.2% 65.8% 46.8% 53.2% Sản lượng nuôi trồng Sản lượng khai thác 77.9% 22.1% Biểu đồ 2.6. So sánh sản lượng thủy sản năm 1996 - 2005 Nguồn: Cục thống kê An Giang. 2.3.3. Giá trị sản xuất (GTSX) thủy sản * Giá trị sản xuất thủy sản toàn tỉnh Nghề nuôi trồng và khai thác thủy sản ở An Giang đã có từ rất lâu đời. Vào khoảng thập niên 60 của thế kỷ trước, khi nghề khai thác đạt qui mô và sản lượng cao, cho được lượng tôm cá dồi dào thì bên cạnh đó nghề nuôi thủy sản tiến triển song hành để cung cấp lượng thủy sản hàng hoá quanh năm. Theo thời gian thì ngành thủy sản ngày càng được củng cố và phát triển góp phần quan trọng vào việc đảm bảo 1996 2000 2005 an ninh thực phẩm, tăng nguồn dinh dưỡng nhất là lượng prôtêin từ cá rất tốt cho cơ thể con người, giúp ổn định và tăng tích lũy cho nền kinh tế trong tỉnh. Bảng 2.11. Giá trị sản xuất nông - lâm nghiệp và thủy sản Đơn vị: triệu đồng Trong đó Năm Toàn ngành Nông nghiệp Lâm nghiệp Thủy sản 1995 2000 2002 2003 2004 2005 5.577.687 7.353.366 8.944.585 10.295.506 12.526.700 13.085.590 4.877.781 6.035.949 7.242.114 8.439.399 10.099.204 10.561.633 54.962 85.951 89.888 91.394 98.368 102.077 644.944 1.231.466 1.612.583 1.764.713 2.329.128 2.421.880 TĐT% 8,9 8,0 6,3 14,1 Nguồn: Sở NN & PTNT An Giang Mặc dù nông nghiệp vẫn chiếm tỉ trọng cao trong cơ cấu GTSX nông - lâm - thủy sản nhưng rõ ràng chúng ta cũng thấy được sự chuyển biến của ngành thủy sản. Từ 1995 đến 2005, nếu như tốc độ tăng trưởng bình quân của toàn khu vực nông - lâm - thủy sản là 8,9%/năm, thì thủy sản tăng 14,1%/năm, trong khi đó nông nghiệp chỉ tăng 8%/năm và lâm nghiệp là 6,3%/năm (thấp hơn bình quân của toàn ngành). Trong cơ cấu GDP nông - lâm - thủy sản, tỷ trọng GDP nông nghiệp giảm từ 86,81% (1995) xuống 80,96% (2005), còn thủy sản thì tăng lên từ 11,80% (1990) lên 18,25% (2005). Như vậy, ngành thủy sản phát triển đã tác động tích cực trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở nông thôn, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. 0% 20% 40% 60% 80% 100% 1995 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Thủy sản Lâm Nghiệp Nông nghiệp Biểu đồ 2.7. Cơ cấu GDP Nông - Lâm - Thủy sản Nguồn: Cục thống kê An Giang * Giá trị sản xuất thủy sản phân theo nuôi trồng và khai thác GTSX ngành thủy sản toàn tỉnh An Giang giai đoạn 1996 - 2005 tăng lên liên tục. Trong cơ cấu GTSX ngành thủy sản thì GTSX ngành nuôi trồng tăng từ 71,7% lên 85%, còn GTSX thủy sản khai thác thì giảm xuống. Ngoài ra trong suốt thời gian này GTSX thủy sản nuôi trồng luôn chiếm tỷ trọng cao hơn so với GTSX thủy sản khai thác. Bảng 2.12. Cơ cấu GTSX ngành thủy sản An Giang Tổng số NTTS Khai thác thủy sản Dịch vụ thủy sản Năm Triệu đồng % Triệu đồng % Triệu đồng % Triệu đồng % 1996 1999 2000 2003 2005 728.226 965.628 1.231.466 1.764.713 2.421.880 100 100 100 100 100 521.819 684.041 840.939 1.340.966 2.058.238 71,7 70,8 68,3 76,0 85,0 202.458 277.520 352.693 363.424 286.407 27,8 28,7 28,6 20,6 11,8 3.949 4.067 37.835 60.323 77.235 0,5 0,4 3,1 3,4 3,2 Nguồn: Cục thống kê An Giang. Qua bảng 2.12 còn cho thấy, GTSX của dịch vụ thủy sản mặc dù chiếm tỉ lệ rất nhỏ trong cơ cấu toàn ngành nhưng vẫn thấy sự tăng trưởng của nó, từ 0,5% tăng lên 3,2%. Riêng về tốc độ tăng trưởng GTSX, thì tốc độ tăng trưởng GTSX của ngành khai thác là tụt giảm rõ rệt, thể hiện ở hình 2.6 sau: 0 100 200 300 400 500 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Toàn ngành Nuôi trồng Khai thác Năm % Biểu đồ 2.8. Tốc độ tăng trưởng GTSX ngành thủy sản An Giang (Theo giá hiện hành) Nguồn: Cục thống kê An Giang. Tốc độ tăng trưởng của ngành thủy sản có thể chia thành 2 giai đoạn: - Giai đoạn 1996 – 2000: GTSX ngành khai thác tăng lên liên tục và có tốc độ tăng trưởng cao nhất, như năm 2000 tốc độ tăng lên đến 174,2% so với năm 1996. Trong khi đó, GTSX ngành nuôi trồng có tốc độ tăng trưởng rất thấp, thậm chí có năm như 1998 tốc độ tăng trưởng giảm xuống so với năm 1996. Do đó, GTSX toàn ngành trong giai đoạn này có tăng nhưng chậm và không ổn định. - Giai đoạn 2001 – 2005: xu hướng phát triển có sự thay đổi ngược lại. Nhìn chung, tốc độ tăng trưởng của toàn ngành tăng liên tục và tăng rất cao. Trong đó, GTSX ngành nuôi trồng tăng lên nhanh chóng và nếu so với tốc độ tăng trưởng của GTSX ngành khai thác những năm cao nhất của giai đoạn trước thì cao hơn gấp 2 lần, điều đó biểu hiện sự phát triển vượt bậc của ngành nuôi trồng. Còn ngành khai thác giai đoạn này tốc độ tăng trưởng chựng lại và có xu hướng giảm xuống. 2.3.4. Năng suất Bảng 2.13. Diễn biến năng suất NTTS An Giang Năm Năng suất nuôi trồng (tấn/ha) Tỉ lệ % so với năm trước 1996 2000 2003 2005 37,05 64,01 87,65 98,49 143,71 131,51 140,41 120,75 Nguồn: Cục thống kê An Giang. Nhìn chung năng suất nuôi thủy sản của tỉnh An Giang luôn biến động mạnh và có xu hướng tăng dần theo năm. Mức tăng trung bình trong thời gian qua là 11,4%. Trong đó năng suất đạt cao nhất ở các huyện đầu nguồn sông Hậu và sông Tiền như An Phú, Châu Đốc, Tân Châu. Bảng 2.14. Năng suất NTTS phân theo địa phương năm 2005 Đơn vị SL nuôi trồng (tấn) Dt nuôi trồng (ha) Năng suất (tấn/ha) Long Xuyên 18.454 123,63 149,26 Châu Đốc 13.846 53,83 257,21 An Phú 19.121 40,37 473,64 Tân Châu 14.290 90,26 158,32 Phú Tân 33.990 217,58 156,21 Châu Phú 45.075 332,29 135,64 Tịnh Biên 935 23,59 39,63 Tri Tôn 1.163 35,77 32,51 Châu Thành 10.632 124,40 85,46 Chợ Mới 15.666 188,65 83,04 Thoại Sơn 7.636 605,44 12,61 Toàn tỉnh 180.809 1.835,81 98,49 Nguồn: Cục thống kê An Giang 2.3.5. Hiện trạng chế biến và xuất khẩu thủy sản An Giang 2.3.5.1. Chế biến thủy sản Bảng 2.15. Cơ cấu sản phẩm thủy sản chế biến của An Giang Cá Tôm Mực Thủy sản khác Năm Tấn Tăng % so với 2000 Tấn % Tấn % Tấn % 2000 2001 2002 2003 2004 2005 5.202 11.437 24.044 23.087 39.308 54.039 100 219,8 462,2 443,8 755,6 1038,8 443 289 137 52 1.094 56 100 65,2 30,9 11,7 247,0 12,6 764 748 215 - - 3 100 97,9 28,1 - - 0,4 907 1.362 1.861 3.493 5.327 - 100 150,2 205,2 385,1 587,3 - TĐT% 59,7 -33,9 -67 55,7 Nguồn: Cục thống kê An Giang. - Về cơ cấu thủy sản chế biến: cá là sản phẩm thủy sản chế biến chủ yếu, từ năm 1996 đến 2005 sản lượng không ngừng tăng, chiếm tỷ lệ 70% trở lên trong tổng sản lượng thủy sản chế biến, đáp ứng được thị trường tiêu thụ trong nước và quốc tế. Ngoài ra còn có tôm, mực và các loại thủy sản khác. Nhìn chung, sản lượng tôm, mực chế biến ngày càng giảm, còn các loại thủy sản khác ngày càng tăng, điều đó cho thấy sự đa dạng hóa các mặt hàng chế biến xuất khẩu nhằm sử dụng hết nguồn nguyên liệu trong tỉnh. Qua bảng 2.16 sản phẩm cá chế biến có tốc độ tăng trưởng rất nhanh và tốc độ tăng trung bình trong cùng thời kỳ so với các sản phẩm khác là cao nhất, kế đến là các loại thủy sản khác. Riêng về tôm và mực, sản lượng chế biến không những giảm mà tốc độ tăng trưởng còn ở con số âm. Điều này thể hiện rõ An Giang là tỉnh có nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển con cá và đó cũng chính là những mặt hàng chủ lực của tỉnh. - Các loại sản phẩm: được chế biến dưới nhiều dạng như cá nguyên con, cá cắt khúc, cá fillet đông lạnh tươi, tôm đông lạnh, mực đông lạnh; sản phẩm chế biến sẳn như chả cá, cá tẩm bột, chạo cá; đồ khô như chà bông, lạp xưởng cá, các loại khô; đồ hộp và các sản phẩm ăn liền. Ngay cả bong bóng cá, bao tử cá tra cũng được sử dụng làm nguyên liệu chế biến. - Chế biến nước mắm: nước mắm cũng là sản phẩm truyền thống ở An Giang, đã nổi tiếng trong vùng và trong nước, được xuất khẩu sang Hàn Quốc, Thái Lan, Lào, Campuchia. Toàn tỉnh hiện nay có 12 cơ sở chế biến nước mắm, chủ yếu là của tư nhân, tập trung ở Châu Đốc, Long Xuyên, Chợ Mới, Châu Thành. Sản lượng nước mắm tăng lên hàng năm. Tổng sản lượng 5 năm 2001 – 2005 là 15 triệu lít. Nước mắm sản xuất theo qui trình công nghệ cổ truyền, thủ công, thiết bị dùng sản xuất nước mắm rất đơn giản. Nguyên liệu sản xuất nước mắm là tất cả loại cá được đánh bắt ở sông. Tuy nhiên, hiệu suất thu hồi nước mắm nhiều nhất và rẻ tiền nhất là cá linh. Mùa cá linh thường từ tháng 8 đến tháng 10 (âm lịch) hàng năm. Nghề làm nước mắm ở An Giang có lợi thế là có lực lượng lao động, có tay nghề truyền thống; nguồn nguyên liệu cá sông, nhất là cá linh rất dồi dào, thị trường tiêu thụ rộng. Nhưng do qui trình công nghệ sản xuất ở các cơ sở tư nhân còn lạc hậu, thời gian chế biến chượp quá dài dẫn đến đồng vốn quay chậm, giá thành cao cộng với thiếu vốn, thiếu đầu tư sản xuất nên chất lượng nước mắm chưa phù hợp thị hiếu tiêu dùng trong và ngoài nước; về chất lượng, mẫu mã, bao bì... không cạnh tranh lại với nước mắm ở Kiên Giang và các nơi khác, đang có nguy cơ thu hẹp dần [31]. - Chế biến mắm các loại: mắm cá là đặc sản ở An Giang với nhiều tên gọi khác như: mắm Châu Đốc, mắm Bà Giáo Khỏe ... Vào mùa nước nổi, còn gọi là mùa cá, cá đánh bắt được bán tươi không hết phải làm mắm, làm khô. Ban đầu người dân An Giang làm mắm, làm khô để giải quyết lượng cá dư thừa. Về sau nâng dần thành nghề sản xuất mắm cá, khô cá các loại để tiêu thụ trong cả nước và xuất khẩu. Toàn tỉnh hiện có 23 cơ sở sản xuất mắm cá (đều thuộc của tư nhân, hộ gia đình) tập trung ở Châu Đốc và huyện An Phú với sản lượng tăng giảm không đều do tùy thuộc vào thị trường tiêu thụ. Sản lượng mắm chế biến năm 2005 là 1000 tấn. Nguyên liệu làm mắm thường là các loại cá lóc, cá kết, cá linh, cá trèn, cá sặc...Tuy nhiên, các cơ sở chế biến mắm thường là của tư nhân hoặc hộ gia đình ở các khu đông dân cư, gây mùi vị khó chịu... làm ảnh hưởng xấu đến môi trường; hàng cá chế biến mắm chủ yếu tiêu thụ nội địa, do hạn chế về mùi vị, màu sắc, bao bì chưa hấp dẫn và chưa bảo đảm các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm... nên chưa thu hút người tiêu dùng trong và ngoài nước[31]. - Chế biến khô thủy sản nước ngọt: sản xuất các loại khô cá nước ngọt cũng là một nghề truyền thống ở An Giang. Toàn tỉnh hiện có 12 cơ sở sản xuất khô cá, trong đó có 5 cơ sở sản xuất cá tra phồng, đều thuộc các cơ sở tư nhân, hộ gia đình, số lượng lao động tăng, giảm không ổn định, sản xuất theo thời vụ (chỉ mùa nắng, mùa cá). Các sản phẩm khô cá ở An Giang rất đa dạng gồm: khô cá tra phồng, khô cá lóc, khô cá lóc bông, cá sặc, cá chạch, khô cá các loại có tẩm gia vị... Sản lượng khô các loại tăng hàng năm.Tổng sản lượng khô các loại trong 5 năm 2001 - 2005 là 5000 tấn. Hiện nay, chế biến khô ở An Giang vẫn chỉ là ngành sản xuất truyền thống chứ chưa phát triển thành ngành công nghiệp chế biến. Riêng nghề sản xuất khô cá tra phồng mới xuất hiện từ năm 1991 và phát triển khá nhanh. Sản phẩm được tiêu thụ trong nước và xuất khẩu sang nhiều nước có Việt kiều sinh sống như ở Mỹ, Úc, Canađa... Nghề sản xuất khô cá tra phồng phát triển đã kéo theo nghề nuôi cá tra phát triển, thu hút nhiều lao động có việc làm. Nguyên liệu chính là cá tra nuôi ở ao hầm, bình quân tiêu thụ nguyên liệu khoảng 2000 tấn/ năm, chiếm khoảng 10% tổng sản lượng cá tra nuôi. Cá tra có nhiều mỡ nên có cơ sở chế biến khô cá tra phồng ở Châu Đốc đã đầu tư máy ép bọc rút chân không để tăng thời gian bảo quản. Sản xuất khô cá tra phồng có hiệu quả sẽ giải quyết được một lượng lớn cá tra nuôi ao hầm. Đây là biện pháp tích cực nhất tạo thêm việc làm cho người lao động, góp phần xóa đói giảm nghèo và phát triển nông thôn[31]. - Bên cạnh những sản phẩm chế biến thực phẩm chính để xuất khẩu, các doanh nghiệp ở An Giang đã tận dụng những phụ phẩm để chế biến bột cá làm thức ăn cho gia súc như da cá, mỡ cá, xương cá. Gần đây người ta còn tận dụng mỡ cá làm ra dầu biozen có thể thay thế cho các loại năng lượng trước đây như dầu diezen, xăng. Loại dầu biozen này có năng lượng rất cao, giá thành rẻ hơn các nguồn năng lượng khác và đặc biệt không gây ra ô nhiễm môi trường. Đây không phải là những mặt hàng xuất khẩu chính nhưng cũng góp phần không nhỏ vào việc nâng cao lợi nhuận, giảm chi phí sản xuất, đồng thời thể hiện sự đa dạng hoá sản phẩm. 2.3.5.2. Thị trường Thị trường là một yếu tố quan trọng nhất quyết định sự tồn tại của một doanh nghiệp hoặc một sản phẩm hàng hóa nào đó. Do đó các doanh nghiệp phải không ngừng vươn lên để đáp ứng những đòi hỏi khắc khe của cơ chế thị trường: chất lượng hàng hóa tốt, mẫu mã đẹp, giá cả hợp lý. * Đối với thị trường tiêu thụ nội địa Là thị trường tiêu thụ lớn, sức mua ổn định cả về mặt sản lượng và giá trị. Nhìn chung trong nội địa chủ yếu là tiêu thụ ở dạng tươi sống và đông lạnh ở thị trường ngoài tỉnh. Cụ thể: - Cá tra nuôi: tiêu thụ dưới dạng tươi sống và cung cấp nguyên liệu làm khô cá tra phồng chiếm gần 50% sản lượng cá tra nuôi. Còn lại 50% được nông dân tăng cường cải tiến kỹ thuật nuôi (như lồng bè, đăng quầng, ao hầm) làm cho cá có chất lượng mỡ trắng, thịt ngon không kém gì cá basa, cá bông lau, cung cấp cho các cơ sở chế biến fillet đông lạnh xuất khẩu ngoài tỉnh, hoặc tinh chế thành những sản phẩm có giá trị gia tăng. - Các loại cá khác: cá lóc bông, cá lóc... tiêu thụ tươi sống khoảng 40.000 tấn/năm (trong đó có 50% cá khai thác từ tự nhiên), cung cấp làm mắm các loại 1.000 tấn/năm và cung cấp làm khô khoảng 2.000 tấn/năm. Như vậy, nhu cầu thị trường đối với mặt hàng cá lóc, lóc bông luôn được tiêu thụ hết sản lượng nuôi nhưng với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và giảm giá thành sản phẩm. - Tôm càng xanh: chủ yếu tiêu thụ tươi sống trong tỉnh với giá cả bán tại các chợ rất cao, còn chế biến thì ngày càng giảm vì tỷ lệ hao hụt rất lớn làm giá thành sản phẩm rất cao khó cạnh tranh vớ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVDLDLH004.pdf
Tài liệu liên quan