Luận văn Tính biểu trưng của từ ngữ chỉ màu sắc trong Tiếng Việt

Cái trận đánh của Hà Nội đạt con số trên 200 chiếc được nêu ngay ở quanh Hồ

Gươm, thượng ngay biển báo công ở các gốc sấu, biển nền đỏ tươi và con số “200” kẻ

trắng đậm nét, thấy nó quý như một loại thượng hạng “Thăng Long” mới nhất- chất khói

đậm đà gợi đến hương vị thâm thúy nhất của đất nước.

Đẩy cửa kính, đứng giữa buồng bệnh trắng lốp lặng tờ, mà cảm thấy như sắc của

sự im lặng phải là một thứ màu gì trăng trắng. Trên giường sắt sơn trắng, trên đệm trắng

của nhà thương, thẳng cẳng nằm dài một người cứng đờ cánh tay. Cánh tay phải giơ lên

kia cũng trắng bệch, cứ giơ mãi như thế để tan loãng vào cái trắng nhờ của buồng bệnh

thắp đèn hơi thủy ngân bóng hình ống. Giữa cái thế giới bệnh bạch lôm lốp ấy, lờ đờ một

đôi mắt nhiều lòng trắng và rậm lông mày. Với một bộ râu xồm đen kịt.

Thật là một điều khá tội nghiệp cho một người đô đốc bố, khi mà trên cái kỳ hạm

đô đốc kéo cờ đám ma to lại treo thêm mũ rơm gậy tre lên đầu đòn trục cần tàu Hoa Kỳ

để thay cho thằng con bất hiếu là Mích Kên đang nằm ườn ra trên giường trắng kia kìa!

Nó rít khói thuốc, cái tàn trắng dài ra gần một đốt tay mà chưa chịu gạt tàn.

Chao ôi, giặc bay Hoa Kỳ đã chán ngấy Hà Nội quá lắm rồi – Hà Nội mà lưới lửa

tên lửa mỗi lần thổi rồng lửa bay lên nền trời hanh xanh Thăng Long, lại hệt như hạ bút

viết chữ tháu lá bùa thiêng khoanh đứng lại, và đốt luôn các thứ “con ma” “thần sấm”, lôi

tuột xuống các thứ tướng úy tá quỷ sứ ma vương Hoa Kỳ.

pdf174 trang | Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 1078 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tính biểu trưng của từ ngữ chỉ màu sắc trong Tiếng Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
(hoặc hơn hai) tính từ chỉ màu sắc, thường là các màu đối lập để tăng cảm giác về màu sắc: VD: “Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh” (Xuân Diệu) => Hai màu sắc tương phản đặc tả những điều có giá trị trong cuộc sống đang bị lụi tàn. Trường hợp dùng hơn hai màu sắc phải kể đến cách diễn đạt rất thành công của Hồ Xuân Hương trong bài “Mời trầu”: màu xanh của lá trầu, màu trắng của ruột cau, màu bạc của vôi hợp lại thành thứ màu thắm, màu hạnh phúc. 2.2.9.1. Màu xanh kết hợp với các màu khác Trong trường hợp này, màu xanh không được dùng riêng lẻ mà kết hợp với những màu khác tạo nên sự đối lập, thay đổi và chuyển biến của nhân cách, thể hiện ở dạng quá trình. - Xanh vỏ đỏ lòng: giả dối, tráo trở, bề ngoài tỏ ra tử tế nhưng trong lòng nham hiểm. Bà không phải hạng người xanh vỏ đỏ lòng, đổi trắng thay đen. (Nguyễn Huy Tưởng) - Xanh như lá, bạc như vôi: vô ơn bạc nghĩa, sống thiếu tình người. Có phải duyên nhau thì thắm lại Đừng xanh như lá, bạc như vôi. (Hồ Xuân Hương) 2.2.9.2. Màu đen kết hợp với các màu khác Cũng như màu xanh, màu đen khi kết hợp với màu khác, thông thường là những màu đối lập như đỏ, trắng (hoặc màu phụ của trắng). Về nghĩa biểu trưng, màu đen trong tổ hợp vẫn mang ý nghĩa tiêu cực chỉ những điều kém may mắn, thận phận bạc bẽo, Trong ca dao, dân gian đã vận dụng cấu trúc “thambỏ” như: tham đó bỏ đăng, tham đăng bỏ đó, để đưa màu sắc vào tạo nên cách diễn đạt mới của sự thay đổi “tham đỏ bỏ đen”. Chốn rẫy quê em an bề hèn khó Em chưa có hề tham đỏ bỏ đen. Trong Truyện Kiều, bạc và đen kết hợp với nhau nhưng khi vị trí của hai từ thay đổi thì nghĩa biểu trưng cũng khác đi. Với kết hợp “bạc đen”: Bạc đen thôi có tiếc mình làm chi! (Câu 1402), nghĩa biểu trưng thường được hiểu là “sống chết cũng liều”, tốt xấu ra sao cũng chấp nhận. Còn kết hợp “đen bạc”: Trách người đen bạc, ra lòng trăng hoa (Câu 1538), lại mang nghĩa chỉ người bội bạc, không chung thủy. Và khi tạo thành thế đối lập trong 2 vế câu thì nằm trong chuỗi nguyên nhân - kết quả: Nỗi chàng ở bạc, nỗi mình chịu đen (Câu 1609) 2.3 Ý nghĩa biểu trưng của màu sắc sáng tạo 2.3.1 Sự sáng tạo các mức độ màu sắc và tạo ra màu mới a. Sáng tạo về mức độ màu sắc Thật ra đây là cách sử dụng màu cơ bản kết hợp với từ phụ chỉ mức độ. Từ phụ này có thể có sẵn trong ngôn ngữ, tác giả chỉ thêm một yếu tố để tạo nên một từ láy cho yếu tố phụ. Cấu trúc cũ: Màu cơ bản + từ phụ A Cấu trúc mới: Màu cơ bản + từ phụ A-A’ Hồ Xuân Hương là một trong những thi sĩ được biết nhiều bởi khả năng sáng tạo màu sắc, tô điểm những màu cơ bản thành sắc màu riêng của chính nữ sĩ: Cửa son đỏ loét tùm hum nóc (Đèo Ba Dội) Nảy vừng quế đỏ đỏ lòm lom (Hỏi Trăng 1) Để diễn tả độ nhòe, Xuân Hương lại dùng màu có sắc độ mạnh, dễ đập vào mắt mọi người, màu đỏ. “Đỏ loét”, người đọc sẽ có cảm giác đó là những quệt màu nhòe nhoẹt, trơn ướt và bị đẩy tới cực độ. Còn “đỏ lòm lom”, ở đây màu đậm của ánh sáng biến thành màu đỏ nội lực, sức sống căng tràn, chín lắt lay không thể chín hơn được nữa. Cùng với cách sáng tạo trên còn có những màu sắc khác như: trắng phau phau, trắng phau, Cầu trắng phau phau đôi ván ghép ( Vịnh cái giếng) Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau. ( Dệt cửi) Các màu như xanh, trong, bạc, thuộc gam màu lạnh nhưng cũng có thể biến thành màu nóng. Đặc biệt là cách sử dụng màu thắm trong thơ Hồ Xuân Hương: Có phải duyên nhau thì thắm lại Đừng xanh như lá bạc như vôi. (Mời trầu) Màu xanh của lá trầu, màu bạc của vôi, màu trắng của ruột cau là ba thứ thuộc gam màu lạnh. Hòa ba thứ màu riêng lẻ ấy vào nhau thì được màu thắm, màu của hạnh phúc. Thắm là hòa quyện vào nhau không thể tách rời của ba loại màu sắc trên. Như vậy, khi sáng tạo tác phẩm văn học, các tác giả không chỉ tạo ra những mức độ màu khác nhau mà còn tạo thêm những màu phụ trong nhóm màu. Đồng thời cũng sử dụng những cách “phối màu” khác nữa. 2.3.2. Dùng “sai” phạm vi biểu vật của từ Mỗi từ ngữ nói chung và từ ngữ chỉ màu sắc nói riêng đều có phạm vi biểu vật riêng. Nhìn chung, những màu sắc trung tính có phạm vi biểu vật rộng, những màu phụ kèm mức độ có phạm vi biểu vật hẹp. Tuy nhiên, trong sáng tác thơ văn, một số từ ngữ chỉ màu được sử dụng “sai” phạm vi nhằm biểu hiện sáng tạo nội dung và phá cách trong cách thể hiện. Chẳng hạn như xanh xao chỉ dùng cho người nhưng một số tác phẩm dùng “xanh xao” để miêu tả sự vật: màu trời xanh xao, mây chiều xanh xao, Trời xanh xao trên bờ môi dịu ngọt Lúa tươm vàng, ưng ửng, nở hồn em (Mùa lúa mới- Vương Ngọc Long) Có nỗi buồn rất nhẹ Thoảng như là gió qua Có một ngày rất nắng Đến bên trời xanh xao (Vỡ tan bên chiều hoang- Vương Ngọc Long) Mưa rơi nhè nhẹ mưa rơi Lệ ai rớt xuống ven trời quạnh hiu Xanh xao một vũng mây chiều Vài con cú đậu đợi triều nước lên (Lệ xanh – Hà Văn Kỳ) Hay như từ “biếc” (màu xanh lam có pha màu lục) chỉ dùng cho biển, rêu, nhưng ở đây được sử dụng phổ biến để chỉ màu mắt: Ta soi vào mắt biếc của ngày xa Thêm khát vọng - thêm niềm tin mới mẻ Xin chào nhé những búp non mới hé Sẽ có ngàn mắt biếc giống ta xưa. (Mắt biếc - Tạ Chiến) Màu vàng cũng thế, vàng vọt là từ chỉ thể trạng người nhưng đã được phổ biến tả sự vật; như trong những câu thơ của Thâm Tâm: Bóng chiều không thắm, không vàng vọt, Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?” (Tống biệt hành- Thâm Tâm) Em sợ một ngày nơi vạn dặm Anh về vội vã đến quê xưa Thấy trăng vàng vọt nơi xa vắng Bởi đời đã sớm nắng chiều mưa (Thời xa vắng- Chi Lan) Trăng thu hao gầy vàng vọt Rơi vào lòng em nhẹ tênh... (Đêm thu- Lê Hương Nhu) Cũng góp vào việc dùng “sai” phạm vi biểu vật phải kể đến “bậc thầy chơi chữ” Nguyễn Tuân. Ông đã chuyển từ chỉ màu da con người, từ để tả cảnh vật thành những từ miêu tả những khái niệm trừu tượng như sự sống, cảnh giác, Tôi đứng dưới gốc đào, một buổi chiều ngừng bắn, nghĩ miên man thấy sự sống là một điều gì thật là óng ánh, thiêng liêng, và hồng hào. (Cho giặc Mỹ nó ăn một cái tết ta) Tôi cho rằng anh đúng là một mẫu người Hoa Kỳ, theo cái nghĩa Hoa Kỳ là chúa hay khôi hài một cách đen ngòm như thế. Mùa đông năm 1967, da trời Hà Nội thấp thỏm xanh ngắt một niềm cảnh giác. (Đèn điện phố phường Hà Nội vui sáng hơn bất cứ lúc nào) Hoặc cũng có khi dùng từ chỉ màu sắc hàm chứa mức độ (màu phụ) kết hợp với một từ chỉ mức độ nữa nhằm nhấn mạnh ý tưởng: Trên vườn chuối thành nội, chuối khu Lục Bộ Tam Tòa đã cháy khô vì lửa trận, mà cái gì xanh lè nhất chỗ khu vườn chuối đó lại là bom đạn lân tinh Mỹ quăng vào hàng đống. (Nhớ Huế) Từ đây, có thể rút ra một nhận xét: sự phát triển phong phú của hệ thống từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt còn có sự góp phần của việc dùng “sai” phạm vi biểu vật của từ. Quá trình này không nằm ngoài quá trình phát triển nghĩa của từ tiếng Việt. 2.3.3. Kết hợp sáng tạo với các danh từ tạo nên khái niệm mới Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy cách dùng từ ngữ chỉ màu sắc của Xuân Diệu hết sức đặc biệt. Ngoài những từ chỉ màu sắc miêu tả thì cũng có một số lượng không nhỏ những từ chỉ màu sắc được kết hợp với một số danh từ khác tạo nên những khái niệm rất mới. Có thể kể đến một số màu: xanh, vàng, xám,.. Màu vàng được Xuân Diệu dùng rất mới, rất lạ và rất phong phú: giọng hồng vàng (Thanh niên), lệ vàng (Yêu mến), chiều vàng (Giờ tàn), đêm vàng (Lời Bá Nha), trời vàng (Hoa đêm), cây vàng (Nụ cười xuân), nắng vàng êm (Đơn sơ), Những kết hợp này thể hiện khả năng dồi dào của nhà thơ khi sử dụng tính từ tạo âm hưởng màu sắc độc đáo trong tác phẩm của mình. “Đêm vàng” là cụm từ xuất hiện khá nhiều trong “Gửi hương cho gió” của Xuân Diệu. Thực tế, trong thơ ca cũng như trong ngôn ngữ đời thường, ta thường gặp các từ “đêm đen”, “đêm tối”, “đêm sáng trăng”. Đêm sáng trăng- một đêm sáng nhờ ánh sáng của trăng nhưng Xuân Diệu lại dùng tổ hợp “đêm vàng”. Lòng mặt trời nghẹn tắt cũng vì thương Những đêm vàng vấn vít nguyệt tơ vương Đi không nỡ ở trên đường bạch lộ. (Lời Bá Nha) Vừa xịch gối chăn, mộng vàng tan biến Dung nhan xê động, sắc đẹp tan tành. (Giục giã) Màu hồng cũng là màu của sự tươi trẻ, sức sống cuồn cuộn, lại được cảm nhận bằng “cặp mắt xanh” của nhà thơ nên những sự vật có màu sắc khác đều có thể chuyển sang hồng: xuân hồng, nắng hồng, sương hồng, Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi. (Vội vàng) Hôm nay chiều đợi chờ Nắng nhỏ cành vương vấn Sương hồng cây ước mơ Em đến: lòng van khấn. (Chiều đợi chờ) Màu hồng còn là màu có sức mạnh mãnh liệt như đã chứa trong nó mọi sức nóng và sự chói chang của một cái nắng gay gắt buổi trưa hè: Mùa hạ trắng ở dưới trời đốt trắng Nắng hồng nung mây bạc chảy ngân nga Cảnh thưa thớt chỉ một con đường vắng Cái am xưa hay đôi chiếc bia già. (Hè) Riêng màu xám được Xuân Diệu dùng ít (chỉ ba lần) nhưng nó góp phần không nhỏ trong việc tập trung thể hiện tâm trạng của nhà thơ. Thong thả chiều vàng thong thả lại Rồi điđêm xám tới dần dần Cứ thế mà bay cho đến hết Những ngày, những tháng, những mùa xuân. (Giờ tàn) Chiều vàng là hình ảnh không vui, không buồn nhưng đẹp. Đêm xám đã hiện ra, gần như đối lập với chiều vàng, là hình ảnh xấu, ghê rợn, u tối bao phủ bởi một màu xám xịt, đó là kết quả của xuân qua, tuổi già, là cái lo của một con người. Có một hình ảnh khác đối lập giữa thiên nhiên bao la, hùng vĩ là tâm trạng cô đơn, trống trải u buồn của nhà thơ, một “không gian xám”. Mây theo chim về dãy núi xa xanh Từng đoàn lớp nhịp nhàng và lặng lẽ Không gian xám tưởng sắp tan thành lệ. (Tương tư, chiều) Màu xanh thì lại được kết hợp với các từ: ánh tơ xanh (Trăng), mộng xanh, tim xanh (Lời thơ vào tập Gửi hương cho gió). Màu xanh được diễn tả qua sắc thái của tình yêu, trong đêm trăng thanh thì tình yêu mong manh, dễ vỡ như “ánh tơ xanh” Dịu dàng đàn những ánh tơ xanh Cho gió du dương điệu múa cành Cho gió đượm buồn thôi náo động Linh hồn yểu điệu của đêm thanh. (Trăng) Và không chỉ thế, màu xanh dùng để diễn tả với tất cả sức trẻ: nắng xanh, hồn xanh, tóc xanh, mộng xanh, Ngực thở trời, mình hút nắng tươi xanh Ta góp hết những vòng hoa mới lạ. (Thanh niên) Đó là lời reo lên sung sướng của chàng trai trẻ tiếp cận với xuân đầu vừa thơ, vừa mộng. Vì vậy phải vội vàng giục giã giữ lấy tuổi thanh niên để vĩnh viễn: “Vàng son đang lộng lẫy buổi chiều xanh” (Giục giã), để giữ lấy “mộng xanh trời” để hồn thêm xanh” Tôi là con chim đến từ núi lạ Ngửa cổ hát chơi Khi gió sớm vào reo um khóm lá Khi trăng khuya lên ủ mộng xanh trời. Hát vô ích, thế là chim vỡ cổ Héo tim xanh cho quá độ tài tình (Lời thơ vào tập Gửi hương cho gió) 2.3.4. Những màu sắc không chính danh 2.3.4.1 Màu của tâm trạng Màu sắc trong Truyện Kiều không chỉ có những màu mang ý nghĩa biểu trưng mà còn là màu sắc của tình cảm. Đó là những màu quan san, màu quan tái, màu khơi trêu, màu của nỗi nhớ Bốn phương mây trắng một màu / Trông vời cố quốc biết đâu là nhà. Hay trời cao trông rộng một màu bao la. Có thể nói, Nguyễn Du không chỉ nắm bắt sắc màu của sự vật mà còn nắm bắt và diễn tả cả sắc màu tình cảm nhuốm đậm lên cảnh vật, không gian làm cho phong cảnh trở nên sinh động, có hồn 2.3.4.2 Màu “trong” Nguyễn Khuyến là nhà thơ kiên định, thủy chung với khuynh hướng lánh đục tìm trong, luôn đề cao tiết trong sạch, tinh khiết của nhà nho. Cái đẹp của sự trong sáng thanh cao là cảm hứng thẩm mỹ để ông đam mê một màu trong. Để diễn đạt cái sắc không màu, ông luôn sáng tạo để tìm từ, tạo từ rất linh hoạt: trong, trong vắt, thanh khiết, Có khi ông dùng “trong” đơn tiết: Phía tây nam có ao nước trong (Tây nam trì thủy thanh) Giếng không phải không trong (Tỉnh phi vô thanh tuyền) Đợi lúc sông trong hỏi còn sống được bao lâu (Sĩ đáo hà thanh năng thọ kỷ) Hoặc cấu tạo song tiết theo phương thức láy: Vầng trăng non trong trẻo treo trên mái tường cao (Quyên quyên tân nguyệt quải cao tường) Hay phương thức ghép: Ao thu lạnh lẽo nước trong veo Bên cạnh đó, ông dùng số lượng lớn thủ pháp so sánh: trong như tuyết, thanh như tẩy, bất nhiễm trần, trong như ngọc, Ở đây, sự không màu không có nghĩa là nhạt màu, vô cảm. Khi kết hợp với những từ ngữ xung quanh nó, nó trở nên một màu sắc đặc biệt. Khó nhận biết đây là màu thật nhưng cũng không thể cho là màu hư bởi cả hai phương diện biểu vật và biểu niệm của nó đều gây ấn tượng sâu sắc. Nhạt là không thấy gì, thực và ảo, cụ thể và mơ hồ. Thực chất ở đây có sự tương liên, chuyển hóa giữa màu sắc: Màu xanh thực và các màu nhạt chuyển hóa dần về phía trong, trở nên hư vô, vô định. Đây là phần bí ẩn, thu hút bởi nét riêng trong ngôn ngữ chỉ màu sắc trong thơ Nguyễn Khuyến. 2.3.4.3 Màu thời gian Đoàn Phú Tứ là một thi sĩ của Xuân Thu Nhã Tập. Trong số những bài thơ nổi tiếng của nhóm tác giả này phải kể đến bài thơ “Màu thời gian” với một khái niệm mới về màu sắc của thời gian: Màu thời gian không xanh Màu thời gian tím ngát Thời gian trừu tượng đã được xác định, được cụ thể hóa. Nếu Xuân Diệu cảm nhận được từng bước đi của thời gian để khát khao sống trọn vẹn thì Đoàn Phú Tứ tìm thấy ở thời gian những sắc màu, những hương vị vọng về từ những câu chuyện xưa cũ. Cảm thức về thời gian quá khứ và hiện tại nối liền, từ hiện tại nhớ về quá khứ, từ quá khứ mong về hiện tại. Thời gian không có sắc, không có hương trong hiện thực nhưng tồn tại trong tâm tưởng, hoài niệm của tác giả. Hoài niệm xưa buồn bã bâng khuâng khiến cảm nhận về thời gian cũng lãng nhạt mơ hồ. Đây là màu của tâm trạng u buồn lặng lẽ, không cuộn trào sôi sục mà bện chặt lòng người. Do vậy, thời gian vô hình đã trở nên tím ngắt u buồn. Có thể nói Đoàn Phú Tứ đã khai sáng một cách nói mới, cách khám phá hiện thực mới. Dù cách thể hiện có chỗ khó hiểu nhưng đó là những cảm xúc chân thật, tinh tế của tâm trạng con người. 2.3.4.4 Những sắc màu trừu tượng Thế Lữ là người tiên phong trong phong trào Thơ Mới với nhiều thành công nhất ở chặng đầu. Ngoài hệ thống màu sắc cụ thể, Thế Lữ còn tạo ra rất nhiều những sắc màu trừu tượng, màu ảo, đó là màu thơ, màu ái tình, màu đằm thắm, màu kín đáo, màu châu lệ, màu biệt li, màu cay đắng, màu tiếc thương, - Mắt còn thấy màu rực rỡ - Và để màu tươi của ái tình - Nước non trong sạch thay màu mới - Nồng say thắm nhuộm màu thi cảm - Cùng nàng Thơ lựa chọn các màu thơ - Mấy cụm hoa non ngậm màu kín đáo -Mấy phen ta thấy màu châu lệ - Mặc ánh tà dương còn dãi màu li biệt Sự đa dạng những màu trừu tượng cho thấy khả năng sáng tạo vô cùng phong phú của tác giả. Điều này có thể lí giải trên cơ sở phương pháp sáng tác: Thế Lữ chịu ảnh hưởng nhiều từ trào lưu thơ lãng mạn (liên quan tới hội họa) và trào lưu thơ tượng trưng (liên quan tới âm nhạc). Về cấu trúc, những màu ảo này có thể do tổ hợp “màu + danh từ” như: màu thơ, màu châu lệ, hoặc “màu + tính từ” như: màu kín đáo, màu mới, màu rực rỡ, TIỂU KẾT 1/ Về ý nghĩa biểu trưng chung của từ ngữ chỉ màu sắc Có hai dạng cấu trúc chính: “X + từ chỉ màu sắc” chiếm 59% (47/79); “từ chỉ màu sắc + X”, chiếm 41% (32/79) trong tổng số những từ ngữ chỉ màu sắc mang ý nghĩa biểu trưng được luận văn thống kê. - Với ý nghĩa biểu trưng chỉ tầng lớp hay giới trong xã hội, “X” có thể là một bộ phận cơ thể như: mày, đầu, tóc,.. hoặc những gì liên quan tới đối tượng đề cập như: áo, mực, ngày tháng,.. Màu sắc được dùng để kết hợp ở đây là màu xanh, màu tím, màu trắng, màu son (màu phụ của đỏ). Vấn đề đặt ra là vì sao lại là những màu này? Trong số các màu, màu xanh được thế giới quan niệm là màu sâu nhất, tinh khiết nhất bởi nó gắn liền với thiên nhiên, của sự sống còn non. Dùng màu xanh để chỉ tuổi trẻ xem ra là một qui luật mang tính phổ quát xuất phát từ hiện thực thực tế. Còn màu trắng và màu tím đều bắt nguồn từ thực tế là đồng phục của học sinh Việt Nam thường là màu trắng và màu mực học trò thường dùng là màu mực tím. Trong việc sử dụng màu trắng, giữa cách dùng ở nước ta và thế giới có sự tương đồng. Thế giới quan niệm màu trắng là màu của sự tinh khiết, ban sơ, vì thế màu áo của cô dâu ngày cưới là màu trắng. - Khi dùng để biểu trưng cho cái chết, “X” ở đây có thể là bộ phận cơ thể như “xương”, là vật dụng như “khăn” (cũng là một vật không thể thiếu trong các đám tang của người thân); hoặc đó là một sự vật trong thiên nhiên được chuyển nghĩa để chỉ một vật khác tương tự trong thế giới khác (một thế giới tưởng tượng trong quan niệm của dân gian và tôn giáo) như “suối vàng”. - Còn với những nghĩa biểu trưng còn lại như: nơi lén lút, số phận, “X” là chính những sự vật mà nghĩa biểu trưng hướng tới (chợ đen, vận đen,). Nhìn chung, để tạo ra những ý nghĩa biểu trưng, các từ ngữ chỉ màu sắc đã được chuyển nghĩa bằng các phương thức như ẩn dụ, hoán dụ. 2/ Về ý nghĩa biểu trưng có sắc thái tu từ của từ ngữ chỉ màu sắc Qua quá trình khảo sát và phân tích, luận văn nhận thấy rằng: trong các văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ văn chương, hầu hết những ý nghĩa biểu trưng chung trong ngôn ngữ đều được vận dụng vào văn bản. Bên cạnh đó, các tác giả cũng sáng tạo thêm một số ý nghĩa biểu trưng riêng biệt. Chẳng hạn như ca dao thì dùng màu sắc để đưa ra những quan niệm thẩm mỹ riêng của người bình dân như: răng đen, da đen giòn, áo nâu,; Truyện Kiều thì nổi bật ở cách dùng màu sắc diễn tả tâm lý, tình cảm như: ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh, mây trắng một màu,; còn Xuân Diệu đã kết hợp giữa danh từ và tính từ chỉ màu sắc khá độc đáo tạo nên sắc thái riêng như: ánh tơ xanh, tim xanh, giọng hồng vàng, đêm xám, Điều này càng chứng minh rõ, khả năng biểu trưng của từ ngữ chỉ màu sắc trong phong cách ngôn ngữ văn chương là vô tận. Sau đây là bảng tổng kết của chúng tôi về ý nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt (qua một số một số văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ văn chương). Bảng 2.3: Nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt (qua một số một số văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ văn chương) Quy ước chú thích: (1): Ca dao; (2): Truyện Kiều; (3): Thơ Xuân Diệu; (4): Thơ Tố Hữu; (5): Văn Nguyễn Tuân Nhóm màu Nghĩa biểu trưng Đ en Đỏ N âu T ím Trắng X ám X anh V àng Sự trong trắng ngây thơ 4 1, 2, 4 Sự tang tóc, chia ly 1, 2, 3,4 Sự thay đổi 2 3 Vẻ đẹp bình dị 1 4 4 Sự kiên định, không thay đổi 1 4 Sự kém may mắn 2 Hạng người xấu xa 2,4,5 Không khí ảm đạm, u ám 3 3 3, 5 3,5 Tuổi trẻ, còn nhỏ 1,2,3,4 1,2,3,4 Sự đau đớn, đau khổ 1 Tình yêu đôi lứa 3 3 Chỉ việc hôn nhân 1, 2 Sự cao quý 4 4 1,2,4 Cái chết 4 1,2 Tâm trạng u sầu 3 2 Người nông dân 1,4 Việc tu hành, người tu hành 2 Sự chiến thắng, cách mạng 4,5 Bảng 2.4: Nghĩa biểu trưng của những kết hợp từ chỉ màu sắc có sắc thái tu từ Yếu tố kết hợp Đ en Đỏ N âu Trắng T ím X ám X anh V àng Nghĩa biểu trưng áo + + Số phận mây, đất, giờ + sông, nước + Cuộc sống bế tắc, u ám ánh tơ + mộng, giọng, thư, đêm, chiều, trầu, cau, mây, trăng + Tình yêu chén + Hạnh phúc nắng, mộng, hồn, tim + xuân, lá, máu + Tuổi trẻ cỏ, liễu, giếng + đêm, không gian + mây, trăng + Tâm trạng u sầu thời gian + + Hoài niệm quá khứ tiếng, chén, mây, khúc (nhạc) + Điều cao quý, tốt đẹp da + yếm, cổ tay + Vẻ đẹp của phụ nữ Chương 3: SO SÁNH Ý NGHĨA BIỂU TRƯNG CỦA TỪ NGỮ CHỈ MÀU SẮC TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT VỚI TỪ NGỮ CHỈ MÀU SẮC TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG ANH 3.1 Những vấn đề chung 3.1.1 Khái quát về thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh “Sự hiểu biết về thành ngữ là cần thiết để có được sự hiểu biết hoàn hảo về một ngôn ngữ" (M.F. Zamenhof, 1905). Thành ngữ có vai trò vô cùng quan trọng trong mỗi ngôn ngữ. Những đơn vị thành ngữ là loại ngữ cố định, có tính hình tượng, nghĩa thường không thể suy ra từ nghĩa đen của các yếu tố cấu tạo. Chẳng hạn như khi nói về thái độ không lao động, chỉ chờ dịp may, người ta dùng cách nói: “há miệng chờ sung”,... Thành ngữ cũng nằm trong hệ thống ngôn ngữ, có ngữ nghĩa ổn định như từ. Nếu so với quán ngữ, thành ngữ có tính hình tượng và có tính biểu trưng cao. Tính biểu trưng của thành ngữ có thể hiểu là dùng những sự vật thông thường, thường thấy trong cuộc sống hàng ngày để diễn tả một điều khái quát, trừu tượng và phổ biến trong cuộc sống. Chính vì vậy, khi nói về tính biểu trưng, luận văn dành chương 3 để khảo sát từ ngữ chỉ màu sắc trong thành ngữ tiếng Việt (có đối chiếu với tiếng Anh). Phần lớn các thành ngữ đều có điệu (một số ít có cả vần và điệu). Ở tiếng Việt, vần- điệu đều xuất hiện trong thành ngữ, trong khi đó ở tiếng Anh thành ngữ chỉ có vần hoặc có khi không có vần. VD: ở tiếng Việt: (1) Dân ngu khu đen (2) Đầu xanh tuổi trẻ Ở (1) có sự lặp lại khuôn vần “ngu - khu”, ở (2) chỉ có điệu chứ không lặp vần. Trong tiếng Anh: Black and blue (đen và xanh= bị bầm tím, bị thâm tím da thịt): lặp tổ hợp phụ âm “bl” A black look (cái nhìn đen= cái nhìn giận dữ) Cả thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh đều khai thác triệt để các thủ pháp ngữ nghĩa: (i) Thủ pháp so sánh As white as snow (trắng như tuyết) Trắng như bông (ii) Thủ pháp ẩn dụ One in a blue moon (một lần trong trăng xanh= hiếm khi) Hai bàn tay trắng (không có gì) (iii) Thủ pháp đồng nghĩa, gần nghĩa The pot calls the kettle black (Nồi chê ấm đen) Đỏ da thắm thịt (iv) Thủ pháp đối nghĩa Black and white (Đen và trắng= Đầy đủ chứng cứ, tương đương “Giấy trắng mực đen”) Đen bạc đỏ tình (v) Thủ pháp hoán dụ Green thumb (ngón tay xanh= người làm vườn giỏi) Một xanh cỏ hai đỏ ngực (hoặc hi sinh hoặc vinh quang) (vi) Thủ pháp thậm xưng Mong đỏ mắt Paint the town red (sơn cả thị trấn màu đỏ= ăn chơi xả láng) Ngoài ra, thành ngữ của tiếng Việt và tiếng Anh chứa đựng sự tương đồng về ý nghĩa biểu trưng cũng như có những khác biệt rất đáng lưu ý. Đó là phần trọng tâm của chương này, chúng tôi sẽ trình bày ở phần sau. 3.1.2 Khái quát về từ ngữ chỉ màu sắc trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh Luận văn đã tiến hành khảo sát trên các từ điển: Từ điển tiếng Việt, Từ điển thành ngữ Việt Nam, The Oxford Encyclopedic English Dictionary [53], [87], [91], chúng tôi thu thập được 75 thành ngữ tiếng Việt và 113 thành ngữ tiếng Anh có từ ngữ chỉ màu sắc. Qua thống kê, chúng tôi có bảng số liệu sau: Bảng 3.1: Số lượng từ chỉ màu sắc trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh Ngôn ngữ Nhóm màu Tiếng Việt Tiếng Anh Số lượng 22 18 Đen/ Black Tỉ lệ % 19 16 Số lượng 50 25 Đỏ/ Red Tỉ lệ % 43 22 Số lượng 0 3 Nâu/ Brown Tỉ lệ % 0 2,5 Số lượng 15 15 Trắng/ White Tỉ lệ % 13 13 Số lượng 0 3 Tím/ Purple Tỉ lệ % 0 2,5 Số lượng 0 6 Xám/ Grey Tỉ lệ % 0 5 Số lượng 6 37 Xanh/ Blue/ Green Tỉ lệ % 5 32 Số lượng 23 8 Vàng/ Yellow Tỉ lệ % 20 7 Tổng số 116 115 Biểu đồ 3.1: So sánh tỉ lệ các nhóm màu trong thành ngữ tiếng Việt với thành ngữ tiếng Anh Qua bảng 3.1 và biểu đồ 3.1, luận văn rút ra những vấn đề sau: - Nhóm màu đỏ được dùng nhiều ở thành ngữ tiếng Việt trong khi nhóm màu xanh là phổ biến hơn trong thành ngữ tiếng Anh. - Trong thành phần ngữ liệu mà chúng tôi khảo sát, có những màu sắc mà thành ngữ tiếng Việt không dùng đến như màu nâu, màu tím, màu xám. Như vậy, nhìn chung số lượng các từ ngữ chỉ màu sắc trong thành ngữ tiếng Việt được ghi nhận lại là ít hơn so với tiếng Anh. Về khả năng kết hợp màu sắc, chúng tôi thống kê sự kết hợp màu sắc với các từ khác trong thành ngữ như sau: Bảng 3.2: Khả năng kết hợp của từ ngữ chỉ màu sắc với các yếu tố khác trong thành ngữ tiếng Việt Đ en Đỏ N âu Trắng T ím X ám X anh V àng Nhóm màu Yếu tố kết hợp + + + Đầu + Con (người) + Mặt + + Mắt + Mỏ (miệng) + Tai + Má + Môi + + Răng + Tay + Bụng + Máu + Da + Thịt + + Khu (mông) + Lòng (dạ) Đ en Đỏ N âu Trắng T ím X ám X anh V àng Nhóm màu Yếu tố kết hợp + Rừng + Lá + Giấy + Mực + Vôi + Đèn + Gạo + Cơm + Cá + Nước + Đũa + Chỉ + Vỏ + Lầu (gác) + Cửa + Bôi (tô) + Giày (vò) + Mặc + + Đổi (thay) Bảng 3.3: Khả năng kết hợp của từ ngữ chỉ màu sắc với các yếu tố khác trong thành ngữ tiếng Anh B lack B lue B row n G reen G rey Purple Pink R ed W hite Y ellow + + + + + head + + hair + + + face + + + + eye + + nose + neck + finger (thumb) + tooth + + hand + leg + boy + + collar + belt + + day + + elephant + + light + look + list + mark + herring + grass B lack B lue B row n G reen G rey Pink Purple R ed W hite Y ellow + beetro (beet) + hole + stump + snocker + ice + sheep + ball + spot + blood + feel + pound + hope + gill + eminence + envy + monst

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfla7489_3568_1871031.pdf
Tài liệu liên quan