Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU . 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ THÔNG BÁO VÀ HỎI ĐÁP VỀ
HÀNG RÀO KỸ THUẬT TRONG THƢƠNG MẠI . 9
1.1. Khái quát về hàng rào kỹ thuật trong thƣơng mại. 9
1.1.1. Khái niệm và các hình thức hàng rào kỹ thuật trong thương mại. 9
1.1.2. Vai trò và mục đích của hàng rào kỹ thuật trong thương mại . 12
1.2. Sự cần thiết phải thành lập cơ quan thông báo, hỏi đáp về TBT. 15
1.2.1. Cơ sở thành lập cơ quan thông báo, hỏi đáp về TBT. 15
1.2.2. Vai trò của cơ quan thông báo, hỏi đáp về TBT trong thương mại . 16
1.3. Nguồn luật điều chỉnh hoạt động thông báo và hỏi đáp về TBT. 17
1.3.1. Pháp luật quốc gia . 17
1.3.2. Điều ước quốc tế . 18
1.4. Nội dung cơ bản về hoạt động thông báo, hỏi đáp về TBT của
các nƣớc trong khuôn khổ WTO và các FTA . 19
1.4.1. Các quy định về hoạt động thông báo, hỏi đáp về TBT trong
khuôn khổ WTO. 19
1.4.2. Nghĩa vụ thông báo, hỏi đáp về TBT trong các FTA . 27
Chƣơng 2: TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN THÔNG
BÁO, HỎI ĐÁP VỀ TBT TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN
THẾ GIỚI . 30
2.1. Khái quát chung về tình hình thực hiện hoạt động thông báo,
hỏi đáp về TBT của một số nƣớc thành viên WTO . 30
40 trang |
Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 785 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan thông báo, hỏi đáp về TBT theo pháp luật nước ngoài, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ư chưa được đề cập một
cách cụ thể, toàn diện tại các công trình nghiên cứu trước đây. Luận văn này
8
góp phần có được cái nhìn cụ thể về mô hình tổ chức và hoạt động thực tiễn
của các cơ quan quan thông báo, hỏi đáp về TBT tại Việt Nam cũng như một
số nước khác. Việc nghiên cứu luận văn này sẽ giúp cho ta thấy được những
điểm tương đồng và những điểm khác biệt trong việc thực thi nghĩa vụ cam
kết liên quan đến thành lập và hoạt động của các cơ quan thông báo, hỏi đáp
về TBT của một số nước. Từ đó, có thể xác định được những kinh nghiệm
thành công có thể áp dụng và những bài học nên tránh đối với Việt Nam. Điều
này được xem như cơ sở lý luận và thực tiễn góp phần xác định phương
hướng kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống các cơ
quan thông báo, hỏi đáp về TBT tại Việt Nam trong thời gian tới.
7. Nội dung nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu và các nhiệm vụ nghiên cứu đã trình bày ở trên,
ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
thiết kế thành 3 chương như sau:
Chương 1. Tổng quan vấn đề thông báo và hỏi đáp về hàng rào kỹ thuật
trong thương mại.
Chương 2. Tổ chức và hoạt động của cơ quan thông báo, hỏi đáp về
TBT tại một số quốc gia trên thế giới.
Chương 3. Tổ chức, hoạt động của cơ quan thông báo, hỏi đáp về TBT
tại Việt Nam và kiến nghị phương hướng, giải pháp hoàn thiện.
9
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ THÔNG BÁO VÀ HỎI ĐÁP VỀ HÀNG RÀO
KỸ THUẬT TRONG THƢƠNG MẠI
1.1. Khái quát về hàng rào kỹ thuật trong thƣơng mại
1.1.1. Khái niệm và các hình thức hàng rào kỹ thuật trong thương mại
1.1.1.1. Khái niệm hàng rào kỹ thuật trong thương mại
Tất cả quy định về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và thủ tục đánh giá
sự phù hợp tạo thành các biện pháp kỹ thuật trong thương mại. Các biện pháp
kỹ thuật này về nguyên tắc là cần thiết và hợp lý nhằm bảo vệ những lợi ích
quan trọng như sức khoẻ con người, môi trường, an ninh... Vì vậy, các nước
đều thiết lập và duy trì một hệ thống các biện pháp kỹ thuật riêng đối với hàng
hoá của mình và hàng hoá nhập khẩu. Tuy nhiên, trên thực tế, các biện pháp
kỹ thuật có thể là những rào cản tiềm ẩn đối với thương mại quốc tế bởi
chúng có thể được nước nhập khẩu sử dụng để bảo hộ cho sản xuất trong
nước, gây khó khăn cho việc thâm nhập của hàng hoá nước ngoài vào thị
trường nước nhập khẩu. Do đó chúng còn được gọi là “hàng rào kỹ thuật đối
với thương mại”.
"Technical Barrier to Trade" theo nghĩa tiếng Việt là “hàng rào kỹ thuật
trong thương mại” hoặc “rào cản kỹ thuật đối với thương mại” (gọi tắt là
TBT). Nhiều tổ chức đã định nghĩa về hàng rào kỹ thuật trong thương mại. Tổ
chức Hợp tác phát triển kinh tế (OECD) đưa ra định nghĩa riêng của mình về
hàng rào kỹ thuật trong thương mại như sau:
Hàng rào kỹ thuật trong thương mại là các quy định mang
tính chất xã hội, các quy định do một nhà nước đưa ra nhằm đạt
được các mục tiêu về sức khỏe, an toàn, chất lượng và đảm bảo môi
trường, căn cứ vào hàng rào kỹ thuật trong thương mại, người ta có
10
thể nhận thấy mục tiêu này thông qua việc một nước ngăn cản hàng
hóa không đảm bảo chất lượng nhập khẩu của mình.
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) sử dụng thuật ngữ “hàng rào kỹ
thuật” trong tên Hiệp định của mình đó là Hiệp định về Hàng rào kỹ thuật
trong thương mại. Theo quy định của Hiệp định TBT thì:
Hàng rào kỹ thuật trong thương mại là một loại hàng rào
phi thuế quan liên quan tới các biện pháp mang tính kỹ thuật
nhằm đạt được những mục đích nhất định như bảo hộ nền sản
xuất trong nước hay các mục đích liên quan đến lợi ích quốc gia
như cung cấp cho thị trường những sản phẩm, hàng hóa có chất
lượng đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng hoặc để bảo vệ cuộc
sống hoặc sức khỏe của con người, động vật hoặc thực vật, bảo
vệ môi trường hoặc để ngăn ngừa các hành động gian lận ở các
mức độ mà nước đó cho là thích hợp.
Từ những định nghĩa trên, có thể hiểu hàng rào kỹ thuật trong thương
mại là một loại hàng rào phi thuế quan, bao gồm các tiêu chuẩn, quy định kỹ
thuật, thủ tục đánh giá sự phù hợp đối với hàng hóa trong thương mại nhằm
mục đích bảo hộ nền sản xuất trong nước, bảo vệ cuộc sống hoặc sức khỏe của
con người, động vật hoặc thực vật và bảo vệ môi trường [6].
1.1.1.2. Hình thức của hàng rào kỹ thuật trong thương mại
Bản chất của hàng rào kỹ thuật trong thương mại là tập hợp các yêu cầu
về kỹ thuật của các quốc gia đối với hàng hóa nhập khẩu vào nước mình,
chúng rất đa dạng và khác nhau về hình thức. Tuy nhiên, có thể nhóm lại các
hình thức của hàng rào kỹ thuật như sau: Các quy định về tiêu chuẩn, quy
chuẩn kỹ thuật, thủ tục đánh giá sự phù hợp.
Các quy định về tiêu chuẩn là quy định về đặc tính kỹ thuật và yêu cầu
quản lý làm chuẩn để phân loại, đánh giá, sản phẩm - hàng hóa - dịch vụ...
11
nhưng không bắt buộc áp dụng. Tiêu chuẩn trở thành “hàng rào” khi hệ thống
tiêu chuẩn này quy định quá chi tiết, quá khác biệt, không có căn cứ khoa học
gây khó khăn cho hàng hóa lưu thông trên thị trường. Theo quy định tại Hiệp
định TBT, tiêu chuẩn là văn bản do một cơ quan được thừa nhận ban hành để
sử dụng rộng rãi và lâu dài, trong đó quy định các quy tắc, hướng dẫn hoặc
các đặc tính đối với sản phẩm hoặc các quy trình và phương pháp sản xuất có
liên quan, mà việc tuân thủ chúng là không bắt buộc. Văn bản này cũng có thể
bao gồm hoặc gắn liền với thuật ngữ, biểu tượng, cách thức bao gói, dãn nhãn
hoặc ghi nhãn áp dụng cho một sản phẩm, quy trình hoặc phương pháp sản
xuất nhất định (mục 1 Phụ lục 1 Hiệp định TBT).
Theo quy định tại mục 1 Phụ lục 1 Hiệp định TBT, quy chuẩn kỹ thuật
là văn bản quy định các đặc tính của sản phẩm hoặc các quá trình có liên quan
đến sản phẩm và phương pháp sản xuất, bao gồm cả các điều khoản hành
chính thích hợp, mà việc tuân thủ chúng là bắt buộc. Văn bản này cũng có thể
bao gồm hoặc gắn liền với thuật ngữ, biểu tượng, cách thức bao gói, dán nhãn
hoặc ghi nhãn áp dụng cho một sản phẩm, quy trình hoặc phương pháp sản
xuất nhất định.
Quy trình đánh giá sự phù hợp là việc sử dụng một bên trung lập thứ ba
(không phải người bán, và cũng không phải người mua) để xác định các tiêu
chuẩn hoặc quy chuẩn kỹ thuật có được đáp ứng hay không. Thủ tục này có
thể trở thành trở ngại không cần thiết đối với thương mại khi các thủ tục gây
mất nhiều thời gian hơn hay chặt chẽ hơn mức cần thiết để đánh giá xem liệu
một sản phẩm có tuân thủ với pháp luật trong nước hay với pháp luật của
quốc gia nhập khẩu. Theo quy định tại mục 3 Phụ lục 1 Hiệp định TBT, quy
trình đánh giá sự phù hợp là bất cứ quy trình nào được sử dụng trực tiếp hoặc
gián tiếp để xác định các yêu cầu liên quan trong các pháp quy kỹ thuật, tiêu
chuẩn có được thoả mãn hay không.
12
1.1.2. Vai trò và mục đích của hàng rào kỹ thuật trong thương mại
Trong nhiều năm gần đây, ngày càng có nhiều quốc gia áp dụng các
quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật trong các hoạt động thương mại quốc tế. Điều
đó có tác dụng to lớn trong bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng về sự an
toàn trong sử dụng, tiêu thụ sản phẩm thông qua chất lượng sản phẩm tiêu
dùng được đảm bảo. Xuất phát từ tác dụng to lớn này, các quốc gia đã và
đang tăng cường xây dựng và thực hiện một chính sách bao gồm các tiêu
chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật áp dụng trong hoạt động thương mại trong nước
cũng như thương mại quốc tế.
Các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đóng vai trò quan trọng nhưng mỗi
nước lại đưa ra những tiêu chuẩn, quy chuẩn khác nhau. Việc có quá nhiều
các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật khác nhau như vậy thường gây khó khăn
cho các nhà sản xuất và xuất khẩu. Nếu các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật
được quy định một cách tùy tiện thì chúng có thể được sử dụng như là
phương tiện bảo hộ. Do đó, các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật có thể trở
thành những rào cản đối với thương mại.
Hàng rào kỹ thuật bao gồm nhiều loại khác nhau và mỗi loại hàng rào
lại có vai trò nhất định. Mỗi biện pháp kỹ thuật có thể đồng thời phục vụ cho
nhiều mục đích, vai trò khác nhau. Có thể kể đến vai trò của các biện pháp kỹ
thuật như sau:
Thứ nhất, việc xây dựng và áp dụng các biện pháp kỹ thuật có vai trò
quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu chính đáng về đảm bảo an toàn
sức khỏe người tiêu dùng, bảo vệ động, thực vật và bảo vệ môi trường. Ngày
nay cùng với mục tiêu tăng trưởng và phát triển thương mại, các quốc gia đều
rất quan tâm đến việc quản lý chất lượng hàng nhập khẩu nhằm mục tiêu đảm
bảo an toàn sức khỏe người tiêu dùng, bảo vệ động thực vật và bảo vệ môi
trường, tuy rằng mức độ quan tâm và các biện pháp áp dụng, cũng như các
13
quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật đối với sản phẩm rất đa dạng và có sự khác
nhau giữa các quốc gia. Việc xây dựng và áp dụng các quy chuẩn, tiêu chuẩn
kỹ thuật đối với sản phẩm (quy trình và các phương pháp sản xuất, chế biến,
quy định về đóng gói, bao bì, nhãn mác môi trường, truy xuất nguồn gốc xuất
xứ, quy định, tiêu chuẩn về hàng đã qua sử dụng, công nghệ, máy móc thiết
bị, phế liệu, phế thải), đặc biệt là các quy định, tiêu chuẩn liên quan (về
mức độ gây ô nhiễm, hàm lượng nguyên liệu tái chế và hàm lượng các chất có
hại cho môi trường) có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu về
môi trường và góp phần trực tiếp làm hạn chế ô nhiễm môi trường qua biên
giới, hạn chế nhập khẩu công nghệ lạc hậu, nguyên liệu và các mặt hàng tiêu
dùng kém chất lượng, đồng thời giảm dần xuất khẩu tài nguyên, khoáng sản
và các mặt hàng mà quá trình sản xuất gây ô nhiễm môi trường.
Thứ hai, việc xây dựng và áp dụng các biện pháp kỹ thuật góp phần bảo
hộ hợp lý các ngành sản xuất trong nước chống lại sự xâm nhập của hàng hóa
nước ngoài, chống các hành vi gian lận thương mại (hàng giả, hàng nhái),
bảo vệ lợi ích người tiêu dùng và kiểm soát nhập khẩu. Bảo hộ thông qua các
biện pháp kỹ thuật là công cụ phổ biến được chính phủ các nước sử dụng để
hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước gặp khó khăn, đặc biệt là doanh nghiệp
trong các lĩnh vực ưu tiên có ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc dân hoặc các
doanh nghiệp tập trung nguồn nhân lực và tài chính lớn, các doanh nghiệp
trong những ngành công nghiệp non trẻ, qua đó nhằm phát triển các ngành
sản xuất trong nước, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường nội địa, khu
vực và quốc tế, phát triển những ngành hàng thay thế nhập khẩu hoặc định
hướng xuất khẩu. Bên cạnh đó, xây dựng và áp dụng các biện pháp kỹ thuật
nhằm quản lý chất lượng hàng nhập khẩu, chống lại các hành vi gian lận
thương mại (hàng giả, hàng nhái) sẽ góp phần bảo vệ lợi ích người tiêu
dùng trong nước và kiểm soát nhập khẩu.
14
Thứ ba, việc xây dựng và áp dụng các biện pháp kỹ thuật góp phần tạo
sự thống nhất về mặt quy chuẩn, tiêu chuẩn trong toàn bộ hệ thống quy chuẩn,
tiêu chuẩn kỹ thuật nói chung của một quốc gia, theo hướng hài hòa và phù hợp
với các quy định và cam kết quốc tế, cũng như cam kết trong các Công
ước/Điều ước quốc tế về thương mại, môi trường đã ký kết hoặc tham gia, từ
đó có vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng hàng hóa sản xuất
trong nước đáp ứng các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật, đem lại lợi ích thiết thực
và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng tốt hơn. Bên cạnh đó, một tác động
nữa của việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật là góp phần tạo ra một cơ cấu sản
xuất phù hợp, thông qua việc hạn chế đầu vào của một số ngành sản xuất, dẫn
tới sự thay đổi cơ cấu đầu vào hoặc điều chỉnh sản xuất theo hướng ít phụ
thuộc hơn vào những nguồn tài nguyên khan hiếm, từ đó khuyến khích các hoạt
động thương mại bền vững đi đôi với bảo vệ môi trường.
Thứ tư, việc xây dựng và áp dụng các biện pháp kỹ thuật góp phần tăng
cường khả năng đáp ứng các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật và môi trường đối
với hàng hóa xuất khẩu của quốc gia trên các thị trường nhập khẩu, nâng cao
chất lượng và năng lực cạnh tranh xuất khẩu, tạo thuận lợi hơn cho các doanh
nghiệp trong việc tiếp cận, mở rộng thị trường và thúc đẩy hội nhập ngày
càng sâu rộng hơn. Việc sử dụng trợ cấp và các biện pháp bảo hộ phi thuế
quan thông qua các biện pháp kỹ thuật nhằm hạn chế và kiểm soát nhập khẩu
hàng hóa, đặc biệt là các mặt hàng nông sản là biện pháp mà các nước công
nghiệp phát triển thường áp dụng đối với các nước đang phát triển. Do đó,
xây dựng và áp dụng các biện pháp kỹ thuật trong thương mại, thực hiện hài
hòa hóa các biện pháp phi thuế như tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, các biện
pháp vệ sinh an toàn thực phẩm... theo các quy định và cam kết quốc tế, sẽ
góp phần nâng cao khả năng đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật của
hàng hóa xuất khẩu, vượt qua các rào cản kỹ thuật, môi trường ngày càng khắt
khe của các nước để đẩy mạnh xuất khẩu.
15
Thứ năm, trong những trường hợp nhất định, các biện pháp phi thuế
quan, biện pháp kỹ thuật còn có thể được duy trì và áp dụng như một công cụ
chính trị để đơn phương gây sức ép với các quốc gia khác, hay để đổi lấy
những ưu đãi chính trị nhất định, từ đó tạo lập một vị thế vững chắc trên trường
quốc tế. Nhìn chung, việc sử dụng các biện pháp phi thuế quan trong thương
mại quốc tế vì mục đích chính trị là rất khác nhau đối với các quốc gia, có thể
là các biện pháp mạnh như cấm vận toàn diện hoặc từng phần, cấm nhập khẩu
một loại hàng hóa nào đó đối với một nước, hoặc áp dụng các biện pháp phân
biệt đối xử trong việc công nhận nước có nền kinh tế thị trường và nước chưa
có nền kinh tế thị trường Bên cạnh đó, việc áp dụng các biện pháp phi thuế
quan, biện pháp kỹ thuật còn góp phần bảo vệ lợi ích, an ninh quốc gia.
1.2. Sự cần thiết phải thành lập cơ quan thông báo, hỏi đáp về TBT
1.2.1. Cơ sở thành lập cơ quan thông báo, hỏi đáp về TBT
Minh bạch hóa là nghĩa vụ có tầm quan trọng đặc biệt của Hiệp định
TBT, thể hiện một trong những nguyên tắc cơ bản của WTO. Nghĩa vụ này
được quy định tại các Điều 2.9; 2.10; 3.2; 5.6; 5.7; 7.2; 10; 15.2. Theo đó, nước
thành viên phải cung cấp thông tin một cách đầy đủ cho các nước thành viên
khác về các chỉ tiêu quy định kỹ thuật và đánh giá sự phù hợp. Nội dung cam
kết về TBT nhấn mạnh vai trò minh bạch hóa chính sách của các quốc gia
nhằm đảm bảo rằng các biện pháp TBT không trở thành rào cản thương mại trá
hình. Để thưc̣ hiêṇ mục tiêu này, WTO đa ̃yêu cầu các quốc gia phải xây dưṇg
Cơ quan Thông báo và Điểm hỏi đáp quốc gia về TBT như môṭ đầu mối và là
cơ quan tư vấn cấp quốc gia taị mỗi nước thành viên để đảm báo tính minh
bạch, thông suốt và haṇ chế các vi phaṃ về xây dưṇg rào cản thương maị.
Theo nguyên tắc minh bạch, các nước thành viên WTO còn phải thành
lập “Điểm trả lời các câu hỏi liên quan đến các quy định, tiêu chuẩn, thủ tục
kiểm tra kỹ thuật – inquiry points”. Các nước thành viên khi tham gia Hiệp
16
định TBT đều cam kết thành lập tại nước mình cơ quan thực hiện chức năng,
nhiệm vụ thông báo, hỏi đáp về TBT.
1.2.2. Vai trò của cơ quan thông báo, hỏi đáp về TBT trong thương mại
Các cơ quan thông báo, hỏi đáp về TBT tại các nước có vai trò (chức
năng, nhiệm vụ) thực hiện nghĩa vụ của các nước thành viên theo nguyên tắc
minh bạch của Hiệp định TBT, cụ thể:
* Vai trò của cơ quan thông báo về TBT quốc gia
Đây là cơ quan đaị diêṇ của quốc gia có trách nhiêṃ thôn g báo các quy
định kỹ thuật và các quy trình đánh giá sự phù hợp đã, đang và sẽ áp dụng của
quốc gia thành viên đến Ban Thư ký của WTO và ti ếp nhận, phổ biến các
thông báo của các nước thành viên WTO tới các tổ chức có liên quan trong
nước theo hướng dẫn của WTO, gồm:
- Thông báo các quy chuẩn kỹ thuật và thủ tục đánh giá sự phù hợp của
quốc gia mình. Dự thảo quy chuẩn cần được thông báo tối thiểu 60 ngày trước
khi thông qua để các thành viên viên góp ý hoặc đề xuất sửa đổi nếu cần.
- Thông báo về việc thực hiện và điều hành Hiệp định TBT của quốc gia.
- Ngay khi hiệp định TBT có hiệu lực, các nước tham gia phải thông
báo cho các nước thành viên khác về các biện pháp thực hiện và quản lý các
quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật của nước mình, cũng như các thay đổi sau này
của các biện pháp đó.
- Khi các nước thành viên WTO tham gia ký kết các hiệp định song
phương và đa phương với các quốc gia khác có lên quan đến các quy định,
tiêu chuẩn kỹ thuật và thủ tục đánh giá sự hợp chuẩn, nếu các hiệp định này
có ảnh hưởng về thương mại đến các nước thành viên khác thì phải thông qua
Ban thư ký WTO thông báo về các sản phẩm thuộc phạm vi điều chỉnh của
hiệp định, kèm theo 1 bản mô tả vắn tắt hiệp định.
- Thực hiện quy chế thực hành tốt về xây dựng, chấp nhận và áp dụng
17
tiêu chuẩn. Quy chế này đưa ra các nguyên tắc đối với các chính quyền trung
ương, chính quyền địa phương, các tổ chức tiêu chuẩn hoá khu vực và phi
chính phủ trong việc xây dựng các tiêu chuẩn tự nguyện.
* Vai trò của Điểm hỏi-đáp về TBT quốc gia
Đây là đầu mối để các nước thành viên WTO khác , các bên liên quan
trong nước (cá nhân, doanh nghiêp̣, chính phủ) có thể hỏi và có được thông
tin và tài liệu của quốc gia đó về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, quy trình
đánh giá sự phù hợp, các hiệp định song phương hoặc đa phương liên quan tới
TBT... Thông thường, Điểm hỏi đáp là các cơ quan thuộc chính phủ, nhưng
các nhiệm vụ có liên quan cũng có thể được uỷ quyền cho các tổ chức tư nhân
thực hiện. Nghĩa vụ thành lập các Điểm hỏi đáp là đặc biệt quan trọng đối với
các quốc gia đang phát triển. Các nội dung hoạt động chủ yếu, gồm:
- Tiếp nhâṇ và xử lý các yêu cầu làm rõ các vấn đề liên quan đến TBT
của các nước thành viên.
- Tiếp nhâṇ và xử lý các yêu cầu làm rõ các vấn đề có li ên quan đến
TBT của các doanh nghiêp̣ và bên liên quan trong nước về TBT.
1.3. Nguồn luật điều chỉnh hoạt động thông báo và hỏi đáp về TBT
Hoạt động thông báo và hỏi đáp về TBT của các quốc gia được điều
chỉnh bởi pháp luật quốc gia, các điều ước quốc tế.
1.3.1. Pháp luật quốc gia
Pháp luật quốc gia là công cụ pháp lý cơ bản và chủ yếu để nhà nước
thực hiện các chức năng của mình. Cũng như mọi lĩnh vực khác, đối với hoạt
động thông báo, hỏi đáp về TBT, pháp luật quốc gia đóng vai trò rất quan
trọng. Pháp luật của mỗi quốc gia là tổng thể các quy tắc, các quy định điều
chỉnh mọi lĩnh vực của đời sống xã hội của quốc gia đó. Các quy tắc và các
quy phạm này, tùy theo hệ thống pháp luật của mỗi nước, chúng có thể được
thể hiện dưới hình thức thành văn bản hoặc không thành văn bản.
18
Pháp luật quốc gia điều chỉnh về thông báo, hỏi đáp về TBT là tổng
hợp các quy định điều chỉnh về các hoạt động này. Với tư cách là nguồn luật,
pháp luật quốc gia có thể được thể hiện dưới hình thức văn bản hoặc không
được thể hiện dưới hình thức văn bản. Nguồn luật này được thể hiện dưới
hình thức nào thì hoàn toàn phụ thuộc vào từng hệ thống pháp luật nhất định.
Việt Nam không có luật riêng điều chỉnh về tổ chức và hoạt động của
cơ quan thông báo, hỏi đáp về TBT mà chỉ có luật chung điều chỉnh về các
hàng rào kỹ thuật là Luật Tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật 2007. Pháp luật điều
chỉnh chủ yếu đối với hoạt động thông báo, hỏi đáp về TBT tại Việt Nam bao
gồm các văn bản quy phạm pháp luật cấp dưới luật, cụ thể: Quyết định số
114/2005/QĐ-TTg ngày 26 tháng 5 năm 2005 về việc thành lập và phê duyệt
Quy chế tổ chức và hoạt động của Mạng lưới các cơ quan thông báo và điểm
hỏi đáp của Việt Nam về hàng rào kỹ thuật trong thương mại; Quyết định số
09/2006/QĐ-BKHCN ngày 4 tháng 5 năm 2006 của Bộ Khoa học và Công
nghệ ban hành Quy trình thông báo và hỏi đáp của mạng lưới cơ quan thông
báo và điểm hỏi đáp của Việt Nam về hàng rào kỹ thuật trong thương mại.
Ngoài những văn bản quy phạm pháp luật trên, hoạt động thông báo, hỏi đáp
về TBT tại Việt Nam còn được điều chỉnh tại các văn bản như: Quyết định số
579/QĐ-TĐC ngày 21 tháng 5 năm 2007 về việc ban hành Quy chế thực hiện
nghĩa vụ thông báo và hỏi đáp về hàng rào kỹ thuật trong thương mại đối với
các đơn vị trực thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng; Quyết định
số 1253/QĐ-TĐC ngày 12 tháng 6 năm 2014 ban hành Điều lệ tổ chức và
hoạt động của Văn phòng Thông báo và hỏi đáp quốc gia về Tiêu chuẩn Đo
lường Chất lượng.
1.3.2. Điều ước quốc tế
Các Điều ước quốc tế được coi là nguồn luật điều chỉnh bao gồm điều
ước quốc tế song phương và điều ước quốc tế đa phương.
19
Điều ước quốc tế song phương là loại điều ước quốc tế do hai bên chủ
thể trong quan hệ quốc tế ký kết với mục đích xác lập mối quan hệ pháp lý
giữa hai bên trong nhiều vấn đề, trong đó có nội dung liên quan đến việc thực
hiện hoạt động thông báo, hỏi đáp về TBT. Những quy định trong các điều
ước quốc tế song phương chỉ điều chỉnh các quan hệ pháp lý giữa hai bên ký
kết. Có thể kể đến các Điều ước quốc tế song phương trong đó có Chương
liên quan đến TBT bao gồm cả nội dung điều chỉnh hoạt động thông báo, hỏi
đáp về TBT như: FTA giữa Việt Nam - Nhật, Việt Nam - Chi lê, Việt Nam -
Lào, Việt Nam - Hàn Quốc, Việt Nam - Liên minh kinh tế Á Âu. Trong các
FTA đã ký kết cũng như đang đàm phán, nội dung về TBT được các bên
khẳng định tuân thủ đầy đủ theo Hiệp định TBT của WTO, đặc biệt là vấn đề
minh bạch hóa trong quá trình xây dựng, ban hành và áp dụng các văn bản
mang tính quy phạm của Việt Nam.
Điều ước quốc tế đa phương là loại điều ước quốc tế từ ba chủ thể trong
quan hệ quốc tế trở lên ký kết hoặc tham gia. Điều ước quốc tế đa phương lớn
nhất điều chỉnh về TBT, trong đó có các quy định liên quan hoạt động thông
báo, hỏi đáp về TBT là Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại
(Hiệp định TBT). Các quy định điều ước quốc tế đa phương có giá trị bắt
buộc đối với các thành viên của điều ước.
1.4. Nội dung cơ bản về hoạt động thông báo, hỏi đáp về TBT của
các nƣớc trong khuôn khổ WTO và các FTA
1.4.1. Các quy định về hoạt động thông báo, hỏi đáp về TBT trong
khuôn khổ WTO
1.4.1.1. Khái quát về Hiệp định TBT
Giai đoạn tiền thân của WTO, các điều khoản của GATT 1947(các Điều
III, XI và XX) chỉ quy định chung về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật. Theo
kết quả đánh giá tác động của các rào cản phi thuế quan đối với thương mại
20
quốc tế của Nhóm công tác của GATT đã kết luận rằng rào cản kỹ thuật là
nhóm rào cản lớn nhất trong các biện pháp phi thuế quan mà các nhà xuất khẩu
phải đối mặt. Sau nhiều năm đàm phán, cuối Vòng đàm phán Tokyo vào năm
1979, 32 quốc gia thành viên GATT đã ký kết Hiệp định về Hàng rào kỹ thuật
trong thương mại (Hiệp định TBT). Tên gọi trước đây của Hiệp định TBT là
Quy chế Tiêu chuẩn, quy định các quy tắc về xây dựng, chấp nhận và áp dụng
các quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn và quy trình đánh giá sự phù hợp. Hiệp định
mới của WTO về Hàng rào kỹ thuật trong thương mại đã nâng cấp và làm rõ
hơn các quy định trong Quy chế Tiêu chuẩn. Hiệp định TBT được đàm phán
trong Vòng đàm phán Uruguay là một phần không thể tách rời của hệ thống
các Hiệp định WTO. Trong vòng đàm phán Uruguay, Hiệp định TBT đã được
thỏa thuận lại và văn bản sửa đổi có hiệu lực từ năm 1995. Hiệp định TBT gồm
các cam kết mang tính “khái quát chung”, tức là được áp dụng cho mọi lĩnh
vực quản lý và mọi sản phẩm (kể cả nông sản và thực phẩm). Hiệp định TBT ra
đời đã nâng cao hiệu quả trong xuất khẩu và áp dụng các quy định, tiêu chuẩn
kỹ thuật cũng như góp phần to lớn trong việc giải quyết khó khăn do mâu thuẫn
giữa các bộ quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật của các nước khác nhau.
Hiệp định TBT ra đời thừa nhận sự cần thiết của các biện pháp kỹ
thuật, công nhận rằng các nước có quyền thiết lập các mức bảo vệ hợp lý cho
cuộc sống, sức khỏe của con người, động thực vật và môi trường, và không bị
ngăn cản đưa ra các biện pháp cần thiết để áp dụng được các mức bảo vệ đó.
Chính vì vậy Hiệp định khuyến khích các nước sử dụng tiêu chuẩn quốc tế
phù hợp với điều kiện nước mình, nhưng không đòi hỏi các nước thay đổi
mức độ bảo vệ do sự tiêu chuẩn hóa này. Tuy nhiên, Hiệp định TBT cũng
đồng thời kiểm soát các biện pháp này sao cho chúng được các nước thành
viên sử dụng đúng mục đích và không trở thành công cụ bảo hộ. Hiệp định
TBT đưa ra các nguyên tắc và điều kiện mà các nước thành viên WTO phải
21
tuân thủ khi ban hành và áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật hay các
quy trình đánh giá sự phù hợp. Bên cạnh đó, các nước thành viên WTO phải
thực hiện các cam kết về minh bạch hóa.
1.4.1.2. Nội dung quy định về nghĩa vụ thông báo, hỏi đáp về TBT tại
Hiệp định và các yêu cầu trong giai đoạn hiện nay
Hiệp định TBT yêu cầu mỗi nước Thành viên phải công khai quá trình
xây dựng, ban hành và áp dụng các văn bản quy phạm pháp luật, tiêu chuẩn,
quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp của mình ngay ở giai
đoạn dự thảo (trước khi có hiệu lực) và phải thông báo cho các Thành viên
khác biết về các biện pháp mà mình đang xây dựng. Các nước có nghĩa vụ phải
thông báo cho WTO các dự thảo quy chuẩn k
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 00050008263_4992_2002954.pdf