Luận văn Tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có trong luật hình sự Việt Nam

Xét về hình phạt, tội Hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có được quy định ở

Điều 251 có mức hình phạt cao hơn sơ với tội Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác

phạm tội mà có được quy định ở Điều 250 của Bộ luật hình sự 1999. Hơn nữa, tội Hợp pháp

hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có quy định ba (3) khung hình phạt trong đó quy định khung

hình phạt cơ bản có mức cao nhất là đến năm (5) năm tù (tội phạm nghiêm trọng) và khung

hình phạt cao nhất (khoản 3) là đến 15 năm tù (tội phạm rất nghiêm trọng) là mức khung hình

phạt tương đối cao, đủ sức răn đe với loại tội phạm này. Vì vậy, tội Rửa tiền không cần quy

định mức khung hình phạt cao hơn so với tội Hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có.

Hơn nữa, hầu hết các nước đều quy định mức tối đa của khung hình phạt đối với tội Rửa tiền

là đến 15 năm tù nên chúng ta không cần thiết phải sửa đổi về mức hình phạt đối với loại tội

này.

* Vấn đề trách nhiệm hình sự

- Trách nhiệm hình sự đối với các loại người đồng phạm: Tội rửa tiền thường là tội

phạm có tổ chức vì vậy vấn đề làm rõ trách nhiệm hình sự của các loại người đồng phạm có ý

nghĩa rất quan trọng. Theo quy định của Bộ luật hình sự 1999, các loại người đồng phạm bao

gồm: người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức.

Tội Rửa tiền cũng bao gồm cả bốn loại người đồng phạm trên, trong đó trách nhiệm

hình sự của người tổ chức là nặng nhất

pdf16 trang | Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 560 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận văn Tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có trong luật hình sự Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa tội Rửa tiền 1.2.1. Một số vấn đề chung về rửa tiền: * Nguồn gốc thuật ngữ "rửa tiền" Rửa tiền (tiếng Anh: Money laundering) - là cách nói nhằm chỉ sự "làm sạch đồng tiền" phù hợp theo luật pháp, là hoạt động giao dịch tài chính đặc biệt để giấu tên, nguồn và nơi đến của đồng tiền. Nói một cách dễ hiểu, Rửa tiền là hành vi che giấu hoặc đánh lừa việc nhận biết tiền do phạm tội mà có, làm cho tiền này có bề ngoài hợp pháp. Tuy nhiên, thuật ngữ "rửa tiền" chỉ chính thức ra đời ở thế kỷ XX, xuất phát từ các Mafia Mỹ trong khoảng thời gian giữa hai cuộc chiến tranh thế giới. Với vai trò là một thuật ngữ pháp lý, "rửa tiền" lần đầu tiên xuất hiện tại Mỹ vào năm 1982 khi Tòa án Mỹ xử vụ án rửa tiền số 551F Supp.314 ở New York. Sau đó, thuật ngữ "rửa tiền" xuất hiện khắp nơi trên thế giới. * Đặc điểm của hoạt động rửa tiền và tác động của rửa tiền tới nền kinh tế - xã hội Khái niệm “Tiền” trong thuật ngữ "rửa tiền" cần được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm cả tiền và tài sản do phạm tội mà có chứ không phải chỉ bao gồm tiền là phương tiện lưu thông, thanh toán. Dưới khía cạnh tài chính hay pháp lý, rửa tiền đều là hành vi che giấu hoặc đánh lừa việc nhận biết tiền do phạm tội mà có, làm cho tiền này có bề ngoài hợp pháp. - Chu trình rửa tiền bao gồm ba khâu sau: + Nạp: Tài sản tội ác đi vào hệ thống tài chính. Tiền bẩn thường được chia nhỏ để ít gây sự chú ý. + Tẩy rửa: tiền bẩn được phân chia theo những tầng cấp giao dịch tài chính với các mức độ phức tạp khác nhau nhằm mục đích cuối cùng là làm cho rất khó hoặc không thể tìm ra dấu vết dẫn về nguồn gốc “bẩn” của tiền. + Trà trộn: Sau khi đã cho tiền chạy loanh quanh theo những đường phức tạp, tiền bẩn được thu gom và trà trộn vào nền kinh tế hợp pháp như mua cổ phiếu, hoạt động kinh doanh, mua bất động sản hoặc mua các thứ xa xỉ v.v.. - Các hình thức rửa tiền: cơ cấu lại; đổi tiền; mua tài sản; thông qua người môi giới cổ phiếu; chuyển tiền bằng điện tín hoặc thư chuyển tiền; rửa tiền trong các sòng bạc; kinh doanh hợp pháp v.v.. * Tác động của rửa tiền đối với nền kinh tế, xã hội: Về mặt phát triển kinh tế, khối lượng tiền rửa sẽ có tác động xấu đến nền kinh tế qua các khía cạnh chính như sau: làm tăng tội phạm và tham nhũng, làm xói mòn hệ thống tài chính, làm giảm hiệu quả của khu vực chính thức và tác động xấu đến khu vực nước ngoài bằng cách bóp méo giá cả và làm chệch hướng các dòng vốn quốc tế. * Các quan điểm khác nhau về khái niệm rửa tiền dưới khía cạnh pháp lý - Theo Công ước về kiểm soát ma túy của Liên hợp quốc (Công ước Viên) rửa tiền gồm các hành vi: i. Chuyển hoán hoặc chuyển nhượng tài sản mà biết rằng tài sản đó có nguồn gốc từ hành vi phạm tội buôn bán bất hợp pháp ma túy nhằm mục đích che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tài sản hoặc tiếp tay cho bất kỳ cá nhân nào tham gia thực hiện hành vi buôn bán bất hợp pháp ma túy để tránh những hậu quả pháp lý do hành động của người đó gây ra; ii. Che dấu bản chất thực, nguồn gốc, địa điểm, việc định đoạt, sự dịch chuyển, các quyền liên quan, hoặc quyền sở hữu tài sản mà biết rằng tài sản đó có nguồn gốc từ tội phạm buôn bán ma túy; iii. Có được, chiếm hữu hoặc sử dụng tài sản mà biết rằng tài sản đó có nguồn gốc từ tội phạm buôn bán ma túy Định nghĩa về hành vi phạm tội rửa tiền của Công ước Viên được chấp nhận rộng rãi nhất và được sử dụng trong tất cả các văn bản pháp luật quốc tế hiện hành về lĩnh vực này. Hội đồng châu Âu đã chấp thuận các quy định của Công ước Viên trong Công ước của mình về rửa tiền, khám xét, thu giữ và tịch thu tiền, tài sản do phạm tội mà có (Công ước Strasbong ký ngày 08/10/1990). Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF) - một tổ chức được công nhận là tổ chức đặt tiêu chuẩn quốc tế cho những nỗ lực về chống rửa tiền - đưa ra định nghĩa súc tích cho thuật ngữ “rửa tiền” là “việc xử lý tiền do phạm tội mà có nhằm che đậy nguồn gốc bất hợp pháp của chúng” nhằm “hợp pháp hóa” những món lợi thu được một cách bất chính từ hành vi phạm tội”. Sử dụng định nghĩa của Công ước Viên, Điều 6, Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia của Liên hợp quốc (Công ước Palécmô năm 2000) mở rộng định nghĩa rửa tiền. Tại Việt Nam, rửa tiền còn là một khái niệm mới và chưa được thống nhất trong khoa học pháp lý cũng như luật thực định. Trong khoa học pháp lý, hiện tồn tại một số quan điểm sau đây về khái niệm “Rửa tiền”: Quan điểm của GS.TS Nguyễn Xuân Yêm: “Rửa tiền là hoạt động tội phạm nhằm mục đích che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tài sản cho phép chủ nhân của tài sản được hưởng dụng tài sản một cách hoàn toàn hợp pháp, để kinh doanh kiếm lời hoặc để cung cấp tài chính cho các hoạt động phạm tội khác.” Quan điểm của PGS.TS Nguyễn Hoà Bình: “Rửa tiền là quá trình hợp pháp hoá những khoản tiền thu được từ hoạt động tội phạm”. Trong luật thực định của nước ta, “Rửa tiền” là thuật ngữ được quy định duy nhất tại khoản 1, Điều 3, Nghị định 74/2005/NĐ-CP ngày 07/06/2005 của Chính phủ về Phòng, chống rửa tiền như sau: "Rửa tiền là hành vi của cá nhân, tổ chức tìm cách hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có thông qua các hoạt động cụ thể sau: a. Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào một giao dịch liên quan đến tiền, tài sản do phạm tội mà có; b. Thu nhận, chiếm giữ, chuyển dịch, chuyển đổi, chuyển nhượng, vận chuyển, sử dụng, vận chuyển qua biên giới tiền, tài sản do phạm tội mà có; c. Đầu tư vào một dự án, một công trình, góp vốn vào một doanh nghiệp hoặc tìm cách khác che đậy, ngụy trang hoặc cản trở việc xác minh nguồn gốc, bản chất thật sự hoặc vị trí, quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền, tài sản do phạm tội mà có." 1.2.2. Các dấu hiệu cơ bản của tội rửa tiền - Chủ thể Chủ thể của tội Rửa tiền là chủ thể đặc biệt vì chỉ những người dùng tiền, tài sản có nguồn gốc bất hợp pháp (có được từ hoạt động phạm tội) để thực hiện các hành vi làm cho tiền, tài sản đó trở nên hợp pháp mới là chủ thể của tội phạm này. So với tội Hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có, tội rửa tiền có phạm vi chủ thể rộng hơn. Nếu như trong tội Hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có, chủ thể tội phạm là người làm hợp pháp hóa tiền, tài sản do chính mình phạm tội mà có thì chủ thể của tội Rửa tiền có thể là người “làm sạch đồng tiền” do chính mình phạm tội mà có, có thể là người “làm sạch đồng tiền” do người khác phạm tội mà có. Điều này có nghĩa là chủ thể tội rửa tiền bao gồm chủ thể của cả hai tội được quy định trong Điều 250 và 251 BLHS. - Khách thể: khái niệm “tiền” trong thuật ngữ “rửa tiền” được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả tiền và tài sản nên khách thể của tội rửa tiền là trật tự quản lý nhà nước đối với tiền, tài sản có nguồn gốc từ tội phạm. - Mặt chủ quan: lỗi của người rửa tiền là lỗi cố ý. Người rửa tiền nhận biết được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả xảy ra và mong muốn đạt được hậu quả đó. - Mặt khách quan:Rửa tiền là loại tội được tiến hành qua nhiều công đoạn. Vì vậy một mình ai đó không thể tẩy rửa hết nguồn gốc bất chính của tiền. Do đó, hành vi khách quan của tội này sẽ phải bao gồm tất cả các thao tác, hành vi tham gia hoặc hỗ trợ vào quá trình rửa tiền. - Hình phạt: Mức hình phạt như quy định tại Điều 251 Bộ luật hình sự đã đủ sức răn đe đối với người phạm tội nên trong tội Rửa tiền có thể giữ nguyên các khung hình phạt này. 1.2.5. Khung pháp lý về đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền trong nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay Khung pháp lý để đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền ở Việt Nam hiện nay bao gồm: - Bộ luật Hình sự: Điều 251 và các điều luật khác có liên quan (Điều 194, 153, 161, 154, 250, 178, 279, 280, 283, 284, 289, 290, 181, 268). Bộ luật hình sự là văn bản quy phạm pháp luật quan trọng nhất trong việc đấu tranh phòng, chống rửa tiền vì Bộ luật hình sự quy định biện pháp hình sự là biện pháp nghiêm khắc nhất. - Các văn bản pháp luật khác: + Nghị định 74/2005/NĐ-CP ngày 08/06/2005 của Chính phủ về Phòng chống rửa tiền + Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Kiểm toán nhà nước, Luật phòng chống mại dâm, Luật phòng chống ma túy, Luật phòng chống tham nhũng. Các văn bản quy phạm pháp luật này quy định việc kiểm soát đối với hoạt động rửa tiền trong các lĩnh vực như giao dịch tài chính, đầu tư, thành lập doanh nghiệp hay kiểm soát đối việc hình thành các khoản tiền hoặc thu nhập hợp pháp từ hoạt động phạm tội như mại dâm, ma túy - Các Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia. Việt Nam đã ký kết các công ước quốc tế liên quan đến phòng, chống rửa tiền như: Công ước Palermo về chống tội phạm xuyên quốc gia, Công ước Viên về chống buôn lậu ma túy và các chất hướng thần, Công ước về chống tham nhũng, Công ước về chống tài trợ cho khủng bố. Quan trọng nhất là tháng 5/2007, Việt Nam đã gia nhập thành viên Nhóm Châu Á- Thái Bình Dương về chống rửa tiền (APG) và cam kết thực hiện 40+9 Khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF). CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG TỘI HỢP PHÁP HÓA TIỀN, TÀI SẢN DO PHẠM TỘI MÀ CÓ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG VIỆT NAM 2.1. Điều kiện kinh tế xã hội Việt Nam - môi trƣờng thuận lợi làm phát sinh tội Hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có Nền kinh tế thị trường ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới là điều kiện tốt để hoạt động rửa tiền diễn ra. Mỗi năm hàng chục ngàn doanh nghiệp được thành lập mới trong đó không có gì đảm bảo rằng những đồng vốn đưa vào kinh doanh ở những doanh nghiệp được thành lập mới này là những đồng tiền không do phạm tội mà có. Vấn đề thứ hai làm phát sinh hoạt động rửa tiền ở Việt Nam đó là nguồn tiền bất hợp pháp rất lớn từ các hoạt động tội phạm như tham nhũng, mại dâm, cờ bạc, buôn bán ma túy v.v.. làm phát sinh nhu cầu “rửa” những đồng tiền bất hợp pháp này. Một nguyên nhân cũng làm cho hoạt động rửa tiền có thể dễ dàng được thực hiện ở Việt Nam đó là việc thanh toán bằng tiền mặt vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Ngoài ra, việc mở rộng đầu tư nước ngoài cũng là một nguyên nhân dẫn đến gia tăng hoạt động rửa tiền. Ngoài hoạt động đầu tư trực tiếp, các hoạt động đầu tư gián tiếp thông qua thị trường chứng khoán cũng là nguyên nhân dẫn đến gia tăng hoạt động rửa tiền. Những điều kiện kinh tế xã hội trên vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với hoạt động phòng chống rửa tiền ở Việt Nam 2.2. Thực trạng tội phạm Hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có trong nền kinh tế thị trƣờng Việt Nam 2.2.1. Tình hình tội phạm Hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có trong nền kinh tế thị trường Việt Nam Ở Việt Nam chưa có một công bố thống kê chính thức nào về hoạt động rửa tiền cũng như độ lớn của nó trong nền kinh tế. Kể từ khi được thành lập (tháng 3/2007) đến nay, Trung tâm thông tin về phòng chống rửa tiền mới chỉ xác định được khoảng 20 giao dịch nghi ngờ có dấu hiệu rửa tiền nhưng chưa có một vụ nào được kết luận là hành động rửa tiền. 2.2.2. Thực tiễn giải quyết một số vụ án cụ thể Từ khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999 đến nay, các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự Việt Nam mới xử lý hình sự 02 vụ án về tội Hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có. Gần đây nhất Công an thành phố Đà Nẵng đã phát hiện và bắt giữ hai đối tượng: Baggio Carlitos Linska, Massamba Lendebe Visquốc tịch Mozambique, đã có hành vi rửa 295.650 bảng Anh (khoảng 8,9 tỷ đồng) tiền đánh cắp từ tài khoản ở nước ngoài tại hệ thống ngân hàng Việt Nam. Đây là tiền do bọn tội phạm đánh cắp từ nước ngoài gửi vào Việt Nam cho hai đối tượng trên. Vụ án và các đối tượng liên quan đã được giao lại cho Bộ Công an và Interpol xử lý theo đúng quy định của pháp luật và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia. 2.3. Phòng, chống rửa tiền trên thế giới và ở Việt Nam 2.3.1. Hợp tác phòng chống rửa tiền trên phạm vi quốc tế Một trong những hệ thống luật quốc tế đầu tiên là Uỷ ban Basel về các luật lệ ngân hàng và các quy tắc thực hành giám sát năm 1988. Trên bình diện quốc tế, chống rửa tiền được liên kết và có liên quan đến nhiều tổ chức, từ Liên Hiệp Quốc, Ngân hàng Thế giới (WB) đến Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF). Bộ máy có tính hệ thống cao và ràng buộc chặt chẽ hiện là Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF), được nhóm G-7 thành lập tại Paris năm 1989. Hiện tại, FATF có 34 quốc gia thành viên, 2 quốc gia quan sát viên và 5 tổ chức khu vực là thành viên liên kết. FATF được coi là bộ máy chống rửa tiền hiệu quả nhất hiện nay bởi liên hệ không chỉ chính phủ sở tại mà còn nhiều cơ quan chuyên trách chống tội phạm (chẳng hạn Cảnh sát Quốc tế - Interpol). Năm 1990, FAFT đã ban hành 40 khuyến nghị về phòng, chống rửa tiền, được sửa đổi vào năm 1996, 2000 và năm 2003. Vào tháng 10/2001, FATF đã mở rộng trách nhiệm giải quyết các vấn đề về tài trợ khủng bố và đã xây dựng 8 khuyến nghị đặc biệt chống tài trợ khủng bố. Vào tháng 10/2004, FATF đã thông qua khuyến nghị đặc biệt 9 liên quan đến người vận chuyển tiền mặt qua biên giới. 2.3.2. Phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam Tại điều 251, Bộ Luật hình sự 1999 của nước ta đã quy định tội danh hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có, được coi là cơ sở để xây dựng Nghị định 74/2005/NĐ-CP về phòng, chống rửa tiền hiện nay. Luật chống tham nhũng, Luật phòng, chống ma tuý, Luật phòng chống mại dâm cũng đã quy định về các tội phạm là tội phạm nguồn của rửa tiền. Điều 19, Luật các Tổ chức tín dụng đã quy định trách nhiệm của các định chế tài chính đối với các khoản tiền có nguồn gốc bất hợp pháp. Chúng ta đã tham gia Hiệp ước về tổ chức cảnh sát hình sự quốc tế và tham gia một số điều ước quốc tế liên quan đến phòng, chống rửa tiền như Công ước Viên về kiểm soát ma túy và các chất hướng thần, Công ước Palecmo về chống tội phạm xuyên quốc gia, Công ước về chống tham nhũng và gia nhập Công ước quốc tế về chống tài trợ cho khủng bố năm 1999. 2.4. Sự cần thiết phải thay đổi tội Hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có thành tội Rửa tiền Việc thay thế tội Hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có bằng tội Rửa tiền dựa trên các căn cứ sau: Thứ nhất, như phân tích ở trên, hành vi khách quan của tội Hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có không bao quát hết các hành vi rửa tiền xảy ra trên thực tế, vẫn còn nhiều hành vi chưa được hình sự hoá, do đó, dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm. Vì vậy, việc thay thế tội Hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có bằng tội mới với việc bổ sung thêm các hành vi khách quan là hết sức cần thiết. Thứ hai, về sự bất hợp lý của Điều 251 Bộ luật hình sự 1999, trước hết đó là đã đặt ra nghĩa vụ chứng minh của cơ quan tư pháp hình sự quá cao, trong khi đó lại có những điều không thể chứng minh được. Thứ ba, Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia đưa ra yêu cầu bắt buộc là các quốc gia phải hình sự hoá các hành vi rửa tiền, còn cách thức hình sự hoá như thế nào là tuỳ thuộc vào thực tiễn lập pháp và tập quán của mỗi quốc gia. Việc tham gia Công ước này đòi hỏi Việt Nam phải sớm quy định tội Rửa tiền trong Bộ luật hình sự. Thứ tư, hiện nay trên thế giới các quốc gia đều sử dụng khái niệm tội Rửa tiền. Vì vậy, việc quy định trong Bộ luật hình sự tội danh mới này không những làm cho pháp luật Việt Nam hài hòa với pháp luật quốc tế mà còn khẳng định cam kết của Việt Nam trong việc đấu tranh phòng và chống rửa tiền vốn đang được các nước nhất là các nước phát triển rất quan tâm. CHƢƠNG 3 PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN 3.1. Thay thế tội Hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có bằng tội Rửa tiền 3.1.1. Quy định thống nhất khái niệm rửa tiền trong hệ thống pháp luật Khoa học pháp lý và luật thực định hiện nay của Việt Nam chưa có một khái niệm chuẩn và thống nhất về khái niệm "Rửa tiền". Để đấu tranh phòng, chống có hiệu quả loại tội này trong thực tiễn cần thiết phải quy định thống nhất khái niệm "Rửa tiền" trong các văn bản pháp luật. 3.1.2. Một số kiến nghị về việc quy định mới tội Rửa tiền trong Bộ luật Hình sự * Định nghĩa khoa học về "Rửa tiền" Theo quan điểm của tác giả thì khái niệm rửa tiền được quy định trong Nghị định 74/2005/NĐ-CP của Chính phủ đã bao quát hết dấu hiệu hành vi khách quan của tội này. Tuy nhiên, định nghĩa ở Nghị định 74/2005/NĐ-CP quy định chưa đầy đủ yếu tố “nhận thức” của chủ thể về nguồn gốc của tài sản, thu nhập do phạm tội mà có. Việc Nghị định 74/2005/NĐ- CP quy định chủ thể phải có dấu hiệu “tìm cách” tức là chủ thể không chỉ biết rõ mà còn tích cực trong việc hợp thức hóa tiền đã loại bỏ nhiều hành vi cấu thành tội này, tức là chủ thể trước đó có thể không biết nhưng trong quá trình thức hiện hành vi biết mà không dừng lại. Vì vậy, khái niệm rửa tiền cần được định nghĩa lại như sau: "Rửa tiền là hành vi của cá nhân, tổ chức thông qua các hoạt động cụ thể sau: a. Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào một giao dịch liên quan đến tiền, tài sản do phạm tội mà có; b. Thu nhận, chiếm giữ, chuyển dịch, chuyển đổi, chuyển nhượng, vận chuyển, sử dụng, vận chuyển qua biên giới tiền, tài sản do phạm tội mà có; c. Đầu tư vào một dự án, một công trình, góp vốn vào một doanh nghiệp hoặc tìm cách khác che đậy, ngụy trang hoặc cản trở việc xác minh nguồn gốc, bản chất thật sự hoặc vị trí, quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền, tài sản do phạm tội mà có nếu chủ thể biết hoặc có thể biết vào thời điểm thực hiện giao dịch hoặc bất kỳ thời điểm thực hiện hành vi nào tài sản có nguồn gốc do phạm tội mà có." * Các yếu tố cấu thành tội phạm: - Chủ thể Chủ thể của tội Rửa tiền là bất kỳ chủ thể nào chỉ cần họ là người đã thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm. Họ không nhất thiết phải là người đã thực hiện hành vi phạm tội khác, có được tiền, tài sản từ việc thực hiện tội phạm đó và người đó đã sử dụng các biện pháp nghiệp vụ về kinh tế, thương mại, tài chính, ngân hàng hoặc các giao dịch khác để làm cho đồng tiền có được từ hoạt động phạm tội trước đây của mình trở thành đồng tiền hợp pháp như chủ thể của tội Hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có. Như vậy, chủ thể của tội rửa tiền bao hàm cả phạm vi chủ thể của tội Hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có được quy định ở Điều 251 và chủ thể được quy định ở Điều 250 của Bộ luật hình sự 1999. Người phạm tội rửa tiền là người có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 14 tuổi trở lên nếu thực hiện hành vi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc đặc biệt nghiêm trọng; từ đủ 16 tuổi trở lên nếu thực hiện hành vi phạm tội thuộc bất kỳ loại tội nào. - Khách thể Tội rửa tiền có khách thể là trật tự quản lý nhà nước đối với tiền, tài sản do phạm tội mà có. Tiền, tài sản do phạm tội mà có trong khách thể của tội này không chỉ bao gồm tiền, tài sản tài sản do chính chủ thể của tội rửa tiền có được từ hoạt động phạm tội trước đó của họ mà bao gồm tất cả các loại tiền, tài sản có nguồn gốc từ tội phạm nói chung. Như vậy tiền, tài sản trong khách thể của tội rửa tiền bao gồm cả tiền, tài sản trong khách thể của tội Hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có được quy định ở Điều 251 và tội Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được quy định ở Điều 250 của Bộ luật hình sự 1999. - Mặt chủ quan Lỗi của người phạm tội rửa tiền là lỗi cố ý. Khi thực hiện hành vi phạm tội này, người phạm tội luôn có mục đích làm cho tiền, tài sản có nguồn gốc bất hợp pháp trở thành tiền, tài sản hợp pháp. Do đó, mục đích là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm này, không phụ thuộc vào việc người phạm tội có đạt được mục đích của mình hay không. - Mặt khách quan Mặt khách quan của tội Rửa tiền so với tội Hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có rộng hơn bao gồm các hành vi sau đây: + Thông qua các nghiệp vụ tài chính, ngân hàng hoặc các giao dịch khác để hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có, hoặc; + Sử dụng tiền, tài sản do phạm tội mà có vào việc tiến hành các hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động kinh tế khác; + Sở hữu, sử dụng, giấu diếm, che dấu, vứt bỏ hay mang vào Việt Nam bất kỳ loại tài sản nào do phạm tội mà có; + Biến đổi hoặc chuyển nhượng tài sản đó hoặc mang nó ra khỏi Việt Nam. * Hình phạt Xét về hình phạt, tội Hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có được quy định ở Điều 251 có mức hình phạt cao hơn sơ với tội Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được quy định ở Điều 250 của Bộ luật hình sự 1999. Hơn nữa, tội Hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có quy định ba (3) khung hình phạt trong đó quy định khung hình phạt cơ bản có mức cao nhất là đến năm (5) năm tù (tội phạm nghiêm trọng) và khung hình phạt cao nhất (khoản 3) là đến 15 năm tù (tội phạm rất nghiêm trọng) là mức khung hình phạt tương đối cao, đủ sức răn đe với loại tội phạm này. Vì vậy, tội Rửa tiền không cần quy định mức khung hình phạt cao hơn so với tội Hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có. Hơn nữa, hầu hết các nước đều quy định mức tối đa của khung hình phạt đối với tội Rửa tiền là đến 15 năm tù nên chúng ta không cần thiết phải sửa đổi về mức hình phạt đối với loại tội này. * Vấn đề trách nhiệm hình sự - Trách nhiệm hình sự đối với các loại người đồng phạm: Tội rửa tiền thường là tội phạm có tổ chức vì vậy vấn đề làm rõ trách nhiệm hình sự của các loại người đồng phạm có ý nghĩa rất quan trọng. Theo quy định của Bộ luật hình sự 1999, các loại người đồng phạm bao gồm: người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức. Tội Rửa tiền cũng bao gồm cả bốn loại người đồng phạm trên, trong đó trách nhiệm hình sự của người tổ chức là nặng nhất. - Trách nhiệm của pháp nhân đối với việc xử lý hành vi rửa tiền Luật hình sự Việt Nam không quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân vì vậy không thể đặt ra vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân. Tuy nhiên, vì rửa tiền thường thực hiện thông qua các công ty, vì vậy việc xử lý các công ty vi phạm bằng các biện pháp khác là hết sức cần thiết. Cụ thể, việc áp dụng các chế tài hành chính và dân sự nghiêm khắc sẽ có tác dụng răn đe buộc các công ty phải tích cực hơn trong nỗ lực ngăn chặn rửa tiền. Vì vậy, việc ban hành một Nghị định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực rửa tiền với những mức chế tài nghiêm khắc là hết sức cần thiết. - Trách nhiệm hình sự của người phạm tội nguồn đối với tội rửa tiền Theo quan điểm của tác giả, thì vấn đề trách nhiệm trách nhiệm hình sự của tội phạm nguồn như sau: + Nếu người thực hiện tội phạm nguồn sau đó tiếp tục thực hiện hành vi rửa tiền thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự cả tội phạm nguồn và tội rửa tiền. + Nếu người thực hiện tội phạm nguồn nếu không thực hiện hành vi rửa tiền thì chỉ bị truy cứu trách nhiệm về tội phạm nguồn mà người này đã thực hiện. - Việc loại trừ trách nhiệm hình sự đối với một số chủ thể nhất định Tội rửa tiền cần loại trừ trách nhiệm hình sự đối với luật sư tham gia bào chữa cho người bị buộc tội rửa tiền. Một luật sư không bị coi là tham gia vào một giao dịch rửa tiền nếu nhận phí bào chữa ngay tình cho một người bị buộc tội rửa tiền hoặc một tội phạm xác định khác. Việc quy định này là rất cần thiết vì nó tạo ra cơ sở pháp lý để luật sư có thể yên tâm tham gia các vụ bào chữa liên quan đến những người bị buộc tội rửa tiền hay các tội có liên quan khác nhằm đảo bào quyền bào chữa của bị can, bị cáo được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003. 3.1.3. Mô hình lý luận tội Rửa tiền Trên cơ sở một số kiến nghị được nêu ra trong tiểu mục 3.1.2 nêu trên, có thể nêu ra mô hình tội rửa tiền trong Bộ luật hình sự như sau: Điều 251 (sửa đổi): Tội rửa tiền 1. Người nào tham gia vào một giao dịch mà bao gồm tài sản phát sinh từ một tội phạm; hoặc kiếm được, sở hữu, sử dụng, giấu diếm, che dấu, vứt bỏ hay mang vào Việt Nam bất kỳ loại tài sản nào như vậy; hoặc biến đổi hoặc chuyển nhượng tài sản đó hoặc mang nó ra khỏi Việt Nam mà người này biết hoặc có thể biết vào thời điểm tham gia giao dịch hoặc vào thời điểm thực hiện hành vi rằng tài sản đó có nguồn gốc từ hoặc thu được một cách trực tiếp hoặc gián tiếp từ một tội phạm thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm: a. Có tổ chức; b. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; c. Phạm tội nhiều lần; d. Tiền, tài sản phạm tội có giá trị lớn; đ. Thu lợi bất chính lớn; e. Gây hậu quả nghiêm trọng f. Phạm tội chuyên nghiệp g. Tái phạm nguy hiểm 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ tám năm đến mười lăm năm: a. Tiền, tài sản phạm tội có giá trị rất lớn hoặc đặc biệt lớn; b. Thu lợi bất chính rất lớn hoặc đặc biệt lớn; c. Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng; 4. Người phạm tội có

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfv_l0_01990_1002_2010080.pdf
Tài liệu liên quan