Luận văn Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường của doanh nghiệp – Một số vấn đề pháp lý và thực trạng áp dụng tại Việt Nam

MỞ ĐẦU .1

1. Tính cấp thiết của đề tài .1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.3

3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài.4

4. Phạm vi nghiên cứu đề tài.5

5. Phương pháp nghiên cứu đề tài.5

6. Kết cấu của luận văn .6

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG

THIỆT HẠI DO GÂY Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG CỦA DOANH NGHIỆP.7

1.1. Khái quát về trách nhiệm bồi thường thiệt hại .7

1.1.1. Khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại.7

1.1.2. Đặc điểm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại.9

1.1.3. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.10

1.2. Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi

trường của doanh nghiệp .12

1.2.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường

của doanh nghiệp.12

1.2.2. Đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường

của doanh nghiệp.16

1.2.3. Chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại

do gây ô nhiễm môi trường của doanh nghiệp.19

pdf105 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 22/02/2022 | Lượt xem: 456 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường của doanh nghiệp – Một số vấn đề pháp lý và thực trạng áp dụng tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hông tuân thủ các quy định khác về bảo vệ môi trường các cơ sở sản xuất, kinh doanh đã làm suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân khác. Như vậy, chủ thể “tiềm tàng” chịu TNBTTH về ô nhiễm môi trường, trước hết là các cơ sở sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. 2.1.1.3. Thực trạng pháp luật về chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường của doanh nghiệp tại Việt Nam Ô nhiễm môi trường và hậu quả do ô nhiễm môi trường phải được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền nghiên cứu, điều tra và kết luận kịp thời. Theo quy định tại Điều 14 Nghị định số 03/2015/NĐ-CP ngày 6/1/2015 quy định về xác định thiệt hại đối với môi trường thì: Trên cơ sở dữ liệu, chứng cứ và kết quả tính toán thiệt hại, cơ quan hành chính nhà nước9 quyết định giải quyết bồi 9 Trách nhiệm yêu cầu bồi thường thiệt hại được quy định như sau: a) Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với môi trường do ô nhiễm, suy thoái gây ra trên địa bàn thuộc phạm vi quản lý của mình. Trong trường hợp này, Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm đề nghị Ủy ban nhân dân cấp huyện tổ chức thu thập và thẩm định dữ liệu, chứng cứ để xác định thiệt hại đối với môi trường do ô nhiễm, suy thoái gây ra; 38 thường theo 03 hình thức sau đây: - Thỏa thuận việc bồi thường với người gây thiệt hại; - Yêu cầu trọng tài giải quyết - Khởi kiện tại tòa án. Như vậy, khi có hành vi gây ÔNMT xảy ra đối với môi trường thì các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền phải nghiên cứu, điều tra và kết luận kịp thời. Trên cơ sở dữ liệu, chứng cứ và kết quả tính toán thiệt hại, cơ quan hành chính nhà nước quyết định lựa chọn một trong ba hình thức giải quyết BTTH. Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Cần phải tôn trọng thỏa thuận của các bên về mức bồi thường, hình thức bồi thường và phương thức bồi thường, nếu thỏa thuận đó không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được có thể khởi kiện ra cơ quan Tòa án để yêu cầu giải quyết tranh chấp theo trình tự, thủ tục tố tụng dân sự. Khi giải quyết tranh chấp về BTTH ngoài hợp đồng cần chú ý nguyên tắc BTTH như sau: thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ, có nghĩa là khi có yêu cầu giải quyết bồi thường thiệt hại do tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm, phải căn cứ vào các điều luật tương ứng của BLDS 2015 quy định trong trường hợp cụ thể đó, thiệt hại bao gồm những khoản nào và thiệt hại đã xảy ra là bao nhiêu, mức độ lỗi của các bên để buộc người gây thiệt hại phải bồi b) Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với môi trường do ô nhiễm, suy thoái gây ra trên địa bàn từ hai xã, thị trấn, thị tứ trở lên; c) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với môi trường do ô nhiễm, suy thoái gây ra trên địa bàn từ hai huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trở lên; d) Bộ Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với môi trường do ô nhiễm, suy thoái gây ra trên địa bàn từ hai tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trở lên" 39 thường các khoản thiệt hại tương xứng đó. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, việc xác định đâu là thiệt hại thực tế còn có quan điểm khác nhau giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, dẫn đến không chỉ khó khăn trong việc xác định trách nhiệm hình sự mà còn cả trong trách nhiệm dân sự của người gây ra thiệt hại. 2.1.2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường của doanh nghiệp tại Việt Nam Việc làm rõ các điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH do ÔNMT của doanh nghiệp là những yếu tố, những cơ sở nền tảng quan trọng để xác định trách nhiệm bồi thường, chủ thể phải bồi thường, chủ thể được bồi thường và mức độ bồi thường. Đặc biệt, đối với trách nhiệm BTTH do gây ÔNMT có đặc thù về tính chất ảnh hưởng thiệt hại cho xã hội trên diện tích rộng, diễn biến vụ việc phức tạp và trong thời gian dài, việc nghiên cứu và xác định cụ thể các căn cứ phát sinh loại trách nhiệm này là cần thiết. Bản chất trách nhiệm BTTH do ÔNMTcũng chính là một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại nên điều kiện làm phát sinh loại trách nhiệm này cũng xuất phát từ nền tảng của các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung10 (bao gồm bốn điều kiện). Tuy nhiên theo Bộ luật dân sự 2015 (BLDS 2015), Điều 602 có quy định: “Chủ thể làm ô nhiễm môi trường mà gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật, kể cả trường hợp chủ thể đó không có lỗi” cho chúng ta thấy rằng, theo quy định của pháp luật hiện hành, việc xác định trách nhiệm BTTH do ÔNMT của doanh nghiệp chỉ cần chứng minh ba điều kiện: (i) Có hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật bảo vệ môi trường của doanh nghiệp; (ii) Có thiệt hại xảy ra (iii) Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật bảo vệ môi trường của doanh nghiệp và thiệt hại xảy ra. Trong đó, điều kiện về lỗi không bắt buộc đặt ra chính là điểm khác biệt cơ bản, đặc thù nhất giữa TNBTTH do ÔNMT và TNBTTH nói chung. Không yêu cầu về điều kiện lỗi của chủ thể vi phạm cũng được thể hiện rõ nét trong sự thay đổi của BLDS 10 Gồm: (i) Hành vi trái pháp luật gây thiệt hại; (ii) Thiệt hại xảy ra; (iii) Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra; (iv) Lỗi của người gây ra thiệt hại. 40 2015 so với BLDS 200511. Theo quy định của BLDS 2005, trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, TNBTTH do ÔNMT chỉ được miễn trừ trong trường hợp người bị thiệt hại có lỗi. Với cách quy định này thì cũng không rõ ràng khi chỉ ra có bắt buộc điều kiện lỗi của chủ thể vi phạm không. Vì thế sự thay đổi trong quy định của BLDS 2015 là hoàn toàn hợp lý và đảm bảo công bằng vì hoạt động sản xuất, kinh doanh của các chủ thể có thể đem lại cho họ những lợi nhuận nhất định nên khi hành vi đó gây thiệt hại cho môi trường thì việc quy định trách nhiệm bồi thường ngay cả khi doanh nghiệp không có lỗi sẽ thắt chặt cơ sở pháp lý cho việc truy cứu trách nhiệm dân sự đối với các doanh nghiệp có hành vi làm ô nhiễm môi trường, góp phần tích cực vào sự nghiệp bảo vệ môi trường nhằm mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia Việt Nam. 2.1.2.1. Doanh nghiệp phải có hành vi vi phạm pháp luật môi trường Những hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường rất đa dạng phong phú. Có thể liệt kê ra ở đây một số loại hành vi tương đối phổ biến12: + Phá hoại, khai thác trái phép nguồn tài nguyên thiên nhiên như hành vi chặt phá rừng, khai thác rừng trái phép, hủy hoại hệ sinh thái.... + Khai thác nguồn tài nguyên sinh vật bằng phương tiện, công cụ, phương pháp hủy diệt, không đúng thời vụ và sản lượng theo quy định của pháp luật như: Khai thác trái phép tài nguyên sinh vật + Khai thác, kinh doanh, tiêu thụ các loài thực vật, động vật hoang dã thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định như: Khai thác trái phép loài sinh vật là các hành vi săn bắt, đánh bắt, bẫy bắt, hái, lượm, thu giữ nhằm lấy các sinh vật (bao gồm động vật, thực vật, nấm, vi sinh vật), bộ phận hoặc dẫn xuất của các loài động vật, thực vật mà không được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc vượt quá số lượng cho phép trong 11Điều 628, BLDS 2005 quy định: “Cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại, thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường, trừ người thiệt hại có lỗi” 12 Điều 7. Luật BVMT năm 2014 41 giấy phép khai thác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. + Vận chuyển, chôn lấp chất độc, chất phóng xạ, chất thải và chất nguy hại khác không đúng quy trình kỹ thuật về bảo vệ môi trường như: chôn lấp các chất thải phóng xạ, chất thải hóa học. + Thải chất thải chưa được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường; các chất độc, chất phóng xạ và chất nguy hại khác vào đất, nguồn nước và không khí: Xả nước thải vào môi trường là việc doanh nghiệp xả các loại nước thải vào môi trường đất, nước dưới đất, nước mặt bên trong và ngoài cơ sở, khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung. Trường hợp xả nước thải vào môi trường đất, nước dưới đất, nước mặt (ao, hồ, hố, ... trong khuôn viên của cơ sở) khi tính số lần vượt quy chuẩn kỹ thuật về chất thải, giá trị nguồn tiếp nhận Kq được tính bằng 0,6 theo quy chuẩn kỹ thuật đó. Ví dụ: hành vi xả nước thải vượt quy chuẩn kỹ thuật về chất thải có độ pH từ 4 đến dưới cận dưới của quy chuẩn kỹ thuật cho phép. + Đưa vào nguồn nước hóa chất độc hại, chất thải, vi sinh vật chưa được kiểm định và tác nhân độc hại khác đối với con người và sinh vật như: nước thải từ trong nhà máy rò rỉ, chảy ra khu dân cư. Thông số môi trường nguy hại trong nước thải là các thông số môi trường có tên trong quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về ngưỡng chất thải nguy hại + Thải khói, bụi, khí có chất hoặc mùi độc hại vào không khí; phát tán bức xạ, phóng xạ, các chất ion hóa vượt quá quy chuẩn kỹ thuật môi trường: Thải bụi, khí thải vào môi trường là việc doanh nghiệp làm phát sinh bụi, khí thải vào môi trường không khí như: đốt cháy các nhiên liệu hóa thạch như than, dầu, khí đốt tạo ra các chất khí độc hại thỉa vào môi trường từ cac nhà máy sản xuất (CO2, CO, SO2, NOx, các chất hữu cơ chưa cháy hết: muội than, bụi) + Gây tiếng ồn, độ rung vượt quá quy chuẩn kỹ thuật môi trường như: Các nguồn gây ra rung, chấn động do hoạt động xây dựng không được vượt quá giá trị quy định đối với khu vực đặc biệt và khu vực thông thương không được vượt quá mức nền 75 Mức gia tốc rung cho phép, dB 42 + Nhập khẩu, quá cảnh chất thải từ nước ngoài dưới mọi hình thức. + Nhập khẩu, quá cảnh động vật, thực vật chưa qua kiểm dịch; vi sinh vật ngoài danh mục cho phép. + Sản xuất, kinh doanh sản phẩm gây nguy hại cho con người, sinh vật và hệ sinh thái; sản xuất, sử dụng nguyên liệu, vật liệu xây dựng chứa yếu tố độc hại vượt quá quy chuẩn kỹ thuật môi trường như: chất tăng trọng, kích thích tăng trưởng + Phá hoại, xâm chiếm trái phép di sản thiên nhiên, khu bảo tồn thiên nhiên. + Xâm hại công trình, thiết bị, phương tiện phục vụ hoạt động bảo vệ môi trường. + Hoạt động trái phép, sinh sống ở khu vực được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định là khu vực cấm do mức độ đặc biệt nguy hiểm về môi trường đối với con người như: Xây dựng công trình, nhà ở trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt của khu bảo tồn. + Che giấu hành vi hủy hoại môi trường, cản trở hoạt động bảo vệ môi trường, làm sai lệch thông tin dẫn đến gây hậu quả xấu đối với môi trường. + Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, vượt quá quyền hạn hoặc thiếu trách nhiệm của người có thẩm quyền để làm trái quy định về quản lý môi trường. - Hành vi vi phạm các quy định về đánh giá tác động môi trường hoặc các yêu cầu ghi tại phiếu thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường như: Hành vi vi phạm quy định về thực hiện báo cáo đánh giá tác động môi trường thuộc thẩm quyền phê duyệt của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, bộ; cơ quan ngang bộ, hành vi vi phạm các quy định về thực hiện đề án bảo vệ môi trường ... - Hành vi vi phạm các quy định về bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên như các quy định về bảo vệ rừng, khai thác, kinh doanh động vật, thực vật quý hiếm; bảo vệ nguồn đất, bảo vệ đất; vi phạm các quy định về đa dạng sinh học và bảo tồn thiên nhiên - Hành vi vi phạm các quy định về vệ sinh công cộng như quy định về vận 43 chuyển và xử lý chất thải, rác thải; quy định về tiếng ồn, độ rung - Hành vi vi phạm các quy định về bảo quản và sử dụng các chất dễ gây ô nhiễm; vi phạm các quy định về phòng, chống sự cố môi trường trường trong tìm kiếm, thăm dò, khai thác vận chuyển dầu khí; trong thăm dò, khai thác hầm mỏ Những hành vi được coi là trái pháp luật BVMT được quy định rõ trong Điều 7 Luật BVMT2014 với nội dung khá dài cho chúng ta thấy tính đặc thù và đa dạng của hành vi gây ô nhiễm môi trường của doanh nghiệp13: + Đốt phá rừng, khai thác khoáng sản một cách bừa bãi gây thiệt hại đến môi trường, làm mất cân bằng sinh thái; thải khói, bụi, khí độc, mùi hôi thối gây hại vào không khí; phát bức xạ, phóng xạ quá giới hạn cho phép vào môi trường xung quanh; chôn vùi, thải vào đất các chất thải độc hại quá giới hạn cho phép; thải dầu mỡ, hoá chất độc hại, chất phóng xạ quá giới hạn cho phép, các chất thải, xác động vật,thực vật, vi khuẩn, siêu vi khuẩn và gây dịch bệnh vào nguồn nước; nhập khẩu, xuất khẩu chất thải + Vi phạm các quy định về đánh giá tác động môi trường hoặc các yêu cầu ghi tại phiếu thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường; Vi phạm các quy định về bảo về nguồn tài nguyên thiên nhiên như các quy định về bảo vệ rừng, khai thác, kinh doanh động vật, thực vật quý hiếm; Bảo vệ nguồn đất, bảo vệ đất; Vi phạm các quy định về đa dạng sinh học và bảo tồn thiên nhiên; Vi phạm các quy định về bảo quản và sử dụng các chất dễ gây ô nhiễm; Vi phạm các quy định về phòng, chống sự cố môi trường trường trong tìm kiếm, thăm dò, khai thác vận chuyển dầu khí; trong thăm dò, khai thác hầm mỏ Khi doanh nghiệp sản xuất phát triển thì tất yếu sẽ làm tăng nhu cầu khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Việc khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên có thể tạo ra những ảnh hưởng bất lợi cho môi trường và vi phạm pháp luật BVMT. Đặc biệt, từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức Thương mại thế 13 Nguyễn Minh Thư, Pháp luật về bảo hiểm TNBTTH do ÔNMT của daonh nghiệp Việt Nam, 2019 44 giới WTO, bên cạnh những lợi ích là doanh nghiệp Việt Nam được tiếp cận và sử dụng những công nghệ sản xuất hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, vẫn còn tồn tại hiện tượng nhiều doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt là ở các nước phát triển coi Việt Nam là một “bãi rác thải” để lắp đặt những dây chuyền sản xuất lạc hậu, có uy cơ gây ô nhiễm môi trường rất cao. Tuy nhiên, cần lưu ý một số trường hợp thiệt hại đối với môi trường có thể là do sự cố và hành vi bất cẩn trong sử dụng các phương tiện nguy hiểm cao độ thì không được coi là hành vi vi phạm pháp luật môi trường. Chỉ khi hậu quả của hành vi biểu hiện trên thực tế, gây hại đến hệ sinh thái, yếu tố môi trường và chủ thể khác thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại mới phát sinh. 2.1.2.2. Có thiệt hại cho môi trường xảy ra Xác định các loại thiệt hại doanh nghiệp sản xuất gây ra cho môi trường là yếu tố quan trọng nhất, là tiền đề cấu thành TNBTTHDONMT.Thiệt hại không chỉ được quy định trong BLDS 2015 về TNBTTH nói chung mà còn được quy định tại luật chuyên ngành. Điều 163 Luật BVMT năm 2014 quy định thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra bao gồm hai loại thiệt hại chính sau đây: (i) Thiệt hại do suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường (ii) Thiệt hại về sức khoẻ, tính mạng của con người, tài sản và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân do sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường gây ra. Đó không chỉ bao gồm thiệt hại về tính mạng, sức khỏe và tài sản của con người mà còn bao gồm những tổn hại đặc thù về thiên nhiên, môi trường14. Cụ thể như: - Thiệt hại đối với môi trường tự nhiên hay thiệt hại đối với các giá trị sinh thái như: nguồn nước ô nhiễm các chất thải độc hại, số lượng động thực vật suy giảm, diện tích rừng bị thu hẹp 14Môi trường đất bị ô nhiễm vượt quá quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường đối với đất phục vụ cho các mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và mục đích khác; môi trường nước bị ô nhiễm vượt quá quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường đối với nước mặt, nước dưới đất phục vụ mục đích cấp nước uống, sinh hoạt, công nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, tưới tiêu nông nghiệp và mục đích khác; hệ sinh thái tự nhiên bị suy thoái về số lượng, chất lượng, các loài hoang dã bị chết, bị thương 45 - Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm như là tài sản bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng do ô nhiễm môi trường gây ra, thiệt hại gắn liền với việc thu hẹp hoặc mất những lợi ích gắn liền với việc không sử dụng, không khai thác hoặc bị hạn chế trong việc sử dụng, khai thác công dụng của tài sản; những chi phí để ngăn chặn và khắc phục thiệt hại. - Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm chi phí hợp lí cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút; thu nhập thực tế của người bị thiệt hại do khi nằm trong vùng ô nhiễm và người chăm sóc người bị thiệt hại bị mất, bị giảm sút. - Thiệt hại do tính mạng bị xâm hại bao gồm chi phí cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết; chi phí mai táng, tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng. Thiệt hại do tính mạng bị xâm hại có thể xảy ra khi có các sự cố môi trường như tràn dầu, nổ xăng dầu, cháy rừng - Thiệt hại về kinh tế hay thiệt hại về các lợi ích thương mại như doanh thu, lợi nhuận của doanh nghiệp sụt giảm khi nằm trong vùng ô nhiễm BLDS năm 2015 không quy định vấn đề thiệt hại do suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường, chỉ quy định vấn đề thiệt hại bao gồm thiệt hại do tài sản bị xâm hại, thiệt hại do sức khỏe bị xâm hại, thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm, thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. Cụ thể15: - Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm bao gồm: Tài sản bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng; Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản bị mất, bị giảm sút; Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại; thiệt hại khác do luật quy định. - Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm: Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại; Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu 15 Điều 589, điều 590, điều 591, điều 592 Bộ luật dân sự năm 2015 46 nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại; Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại; Thiệt hại khác do luật quy định thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm: Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm; chi phí hợp lý cho việc mai táng; tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng; - Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm bao gồm: chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại; thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút; thiệt hại khác do luật quy định. Bên cạnh còn phải bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định. Cơ sở của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do pháp luật quy định xuất phát từ nguyên tắc chung của Hiến pháp (các quy định từ Điều 14 đến Điều 21 Hiến pháp năm 2013) và các nguyên tắc được quy định trong BLDS năm 2015 (Điều 3). Khoản 4 Điều 3 BLDS năm 2015 quy định: “Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”. Nguyên tắc được quy định trong điều luật này buộc các chủ thể “không được xâm phạm”, bởi vậy nếu “xâm phạm” sẽ bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế với mục đích khắc phục những hậu quả về tài sản cũng như nhân thân do hành vi thiệt hại tạo ra. Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời đã trở thành nguyên tắc luật định, song trong lĩnh vực môi trường, do giá trị của các thiệt hại về môi trường thường rất lớn và khó xác định nên trong tuyệt đại đa số các trường hợp việc áp dụng trách nhiệm bồi thường toàn bộ và kịp thời các thiệt hại là điều khó có thể thực hiện được. 47 Pháp luật cần có các quy định mang tính linh hoạt hơn trong lĩnh vực này. Chẳng hạn như người gây thiệt hại đối với môi trường có thể bồi thường một lần hoặc nhiều lần trong khoảng thời gian tối đa một số năm nhất định nào đó kể từ ngày áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại. 2.1.2.3. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật bảo vệ môi trường và thiệt hại xảy ra Thiệt hại thực tế xảy ra là kết quả của hành vi vi phạm pháp luật hay nói một cách khác, hành vi vi phạm pháp luật là nguyên nhân của thiệt hại xảy ra. Nhưng đối với các vụ việc bồi thường thiệt hại về môi trường thì việc xác định mối quan hệ trên không hề đơn giản. Một thiệt hại về môi trường có thể do hành vi gây ô nhiễm, suy thoái hoặc do yếu tố thiên nhiên. Nếu hai yếu tố này xảy ra đồng thời thì rất khó để xác định thiệt hại nào là do hành vi gây tổn hại đến môi trường. Hoặc trường hợp các hành vi gây thiệt hại tới môi trường đã xảy ra từ rất lâu, đến thời điểm thu thập chứng cứ thì thiệt hại không còn nghiêm trọng như mức độ ban đầu nên việc xác định nguyên nhân trực tiếp hoặc có tính quyết định nhất đối với thiệt hại cũng gần như không được doanh nghiệp sản xuất chấp nhận. Vì vậy, trong xác định thiệt hại và mối quan hệ nhân quả, các quy định của pháp luật môi trường phải được kết hợp tính chất pháp lí và tính chất kĩ thuật chuyên ngành. 2.1.3. Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại Theo quy định của Điều 588 BLDS 2015: “Thời hiệu khởi kiện yêu cầu Bồi thường thiệt hại là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”. Như vậy, thời hiệu khởi kiện yêu cầu BTTH ở BLDS 2015 được kéo dài hơn 01 năm so với BLDS 2005, và thời điểm được dùng để tính thời hiệu này sẽ được tính từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Có thể thấy, mốc thời gian để tính thời hiệu khởi kiện được xác định “biết hoặc phải biết” hợp lý hơn cũng như bảo vệ tốt hơn quyền lợi cho bên bị thiệt hại so với quy định của BLDS 2005. Quy định này cũng phù hợp với Bộ luật Dân sự các nước khi họ cũng thường quy 48 định thời điểm này tính từ ngày bên có quyền biết hoặc phải biết có sự vi phạm nghĩa vụ. Theo BLDS 2015, thì thời hạn này là ba năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm. Song cũng cần tính đến trong lĩnh vực môi trường, ngày quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại không hoàn toàn trùng khít với ngày phát sinh thiệt hại trên thực tế. Thiệt hại đối với người bị nhiễm chất phóng xạ, nhiễm hóa chất độc hại là những ví dụ điển hình. Nên chăng pháp luật môi trường cần hướng tới việc quy định thời hiệu khởi kiện gắn với ngày mà thiệt hại thực tế xảy ra và cần có khoảng thời gian dài hơn 3 năm. Mặt khác, thiệt hại do ÔNMT gây ra không giống những thiệt hại khác có thể nhận biết ngay được, ÔNMT gây ra không chỉ gây thiệt hại trước mắt, mà còn gây ra thiệt hại lâu dài, phải có khoảng thời gian thì mới phát sinh thiệt hại: ví dụ như doanh nghiệp gây ô nhiễm nguồn nước, nhưng thiệt hại trước mắt không nhìn thấy được, có thể chỉ cảm nhận bằng mắt và khứu giác tình trạng nước ô nhiễm, nhưng thiệt hại về sức khở, tính mạng thì không phát sinh ngay, phỉa mất vài ba năm, người bị thiệt hại mới bị bệnh. Do vậy việc quy định thời hiệu khởi kiện về BTTH do ÔNMT cũng giống với thời hiệu khởi kiện yêu cầu BTTH như BLDS năm 2015 hiện nay là không phù hợp. 2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường của doanh nghiệp tại Việt Nam 2.2.1. Thực trạng áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường của doanh nghiệp tại Việt Nam Trong những năm gần đây, số lượng các vụ ÔNMT do doanh nghiệp gây ra có chiều hướng gia tăng. Nguyên nhân là do sự thiếu trách nhiệm của các doanh nghiệp. Do đặt nặng mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, không ít doanh nghiệp đã vi phạm quy trình khai thác, góp phần gây ô nhiễm môi trường đáng kể. Mặt khác, hệ thống xử lý nước thải tại một số khu công nghiệp chưa hoạt động hiệu quả, nước thải sinh hoạt bị ô nhiễm được thải liên tục ra sông, hồ gây nhiễm độc nguồn nước tự nhiên. Bên cạnh 49 đó, chính sự quan liêu, thiếu chặt chẽ trong công tác quản lý bảo vệ môi trường của nhà nước cũng đang tiếp tay cho hành vi phá hoại môi trường. Ô nhiễm môi trường đã làm cho nhiều người trở thành nạn nhân bất đắc dĩ. Điển hình như “làng ung thư” ở Thạch Sơn - Phú Thọ, hàng trăm ng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_trach_nhiem_boi_thuong_thiet_hai_do_gay_o_nhiem_moi.pdf
Tài liệu liên quan