Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .5
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA
NGưỜI PHẠM TỘI TRONG TÌNH TRẠNG SAY DO DÙNG
RưỢU HOẶC CHẤT KÍCH THÍCH MẠNH KHÁC.13
1.1. TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ CƠ SỞ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ.13
1.1.1. Trách nhiệm hình sự.13
1.1.2. Cơ sở của trách nhiệm hình sự.15
1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC XÁC ĐỊNH TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
CỦA NGưỜI PHẠM TỘI TRONG TÌNH TRẠNG SAY DO DÙNG
RưỢU HOẶC CHẤT KÍCH THÍCH MẠNH KHÁC.19
1.2.1. Khái niệm rượu và chất kích thích mạnh khác.19
1.2.2. Đặc điểm tình trạng say do dùng rượu hoặc chất kích thích mạnh
1.2.3. Cơ sở xác định trách nhiệm hình sự của người sử dụng rượu hoặc các
chất kích thích mạnh .
1.3. PHÂN BIỆT TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NGưỜI PHẠM TỘI
TRONG TÌNH TRẠNG SAY DO DÙNG RưỢU HOẶC CHẤT
KÍCH THÍCH MẠNH VỚI CÁC TRưỜNG HỢP KHÁ
1.3.1. Với trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự và không có trách nhiệm hình
sự (không có lỗi).
1.3.2. Với trường hợp người phạm tội khi bị ép buộc, cưỡng ép sử dụng rượu
hoặc chất kích thích mạnh.
1.4. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NưỚC VỀ
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NGưỜI PHẠM TỘI TRONG
TÌNH TRẠNG SAY DO DÙNG RưỢU HOẶC CHẤT KÍCH THÍCH
MẠNH KHÁC .
KẾT LUẬN CHưƠNG 1.
28 trang |
Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 1100 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Trách nhiệm hình sự của người phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu hoặc chất kích thích mạnh khác theo pháp luật hình sự Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ƣ tháo gỡ đƣợc những khó khăn, vƣớng mắc trong quá trình áp dụng. Đồng
thời cũng góp phần thực hiện xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền Xã hội chủ
nghĩa nói chung, trong công cuộc cải cách tƣ pháp nói riêng ở nƣớc ta. Với lý
do nêu trên, tôi chọn đề tài “Trách nhiệm hình sự của ngƣời phạm tội trong
tình trạng say do dùng rƣợu hoặc chất kích thích mạnh khác theo pháp luật
hình sự Việt Nam” làm luận văn Thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Do quy định về ngƣời phạm tội trong tình trạng say do dùng rƣợu
hoặc chất kích thích mạnh khác là một chế định quan trọng và cần thiết
trong luật hình sự, khi xác định rõ trƣờng hợp mặc dù về bản chất ngƣời
phạm tội đang ở trong trạng thái mất năng lực TNHS (không làm chủ và
điều khiển đƣợc hành vi của mình) nhƣng do họ đã có lỗi trong việc tự đặt
mình vào trạng thái đó nên vấn đề trách nhiệm hình sự vẫn đƣợc đặt ra trong
trƣờng hợp này. Trên thực tế việc xác định trách nhiệm hình sự ngƣời đang
ở trong tình trạng say do dùng rƣợu hoặc chất kích thích mạnh khác vẫn còn
7
nhiều bất cập, hạn chế nhƣ đã nói ở trên. Do vậy, chế định này hiện nay đã
có một số công trình nghiên cứu khoa học ở những mức độ khác nhau,
những khía cạnh, phƣơng diện khác nhau có liên quan đến chế định này nhƣ
các công trình về trách nhiệm hình sự và hình phạt, miễn trách nhiệm hình
sự, các trƣờng hợp loại trừ tính chất tội phạm của hành vi, hay cả những
công trình nghiên cứu về y học, tâm lý học
Ở góc độ nghiên cứu về trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự,
loại trừ trách nhiệm hình sự mà có liên quan đến chế định ngƣời phạm tội trong
tình trạng say do dùng rƣợu hoặc chất kích thích mạnh khác đã có các công trình
khoa học nhƣ: Công trình “Tội phạm và trách nhiệm hình sự” của Tiến sĩ Trịnh
Tiến Việt – NXB chính trị quốc gia (2013); công trình “Pháp luật hình sự Việt
Nam về miễn trách nhiệm hình sự và thực tiễn áp dụng” của TS. Trịnh Tiến Việt
– NXB đại học Quốc gia Hà Nội (2013) ; công trình “Chế định loại trừ trách
nhiệm hình sự và những yêu cầu đặt ra khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự Việt
Nam” của tác giả TS. Trịnh Tiến Việt - Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học,
Tập 29, số 4 (2013); “Giáo trình luật hình sự - Phần Chung” của tác giả;
Công trình “Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự - Phần chung”
của tác giả TSKH.PGS. Lê Văn Cảm – NXB ĐHQGHN (2005).
Dƣới góc độ pháp luật chuyên ngành nghiên cứu trực tiếp về chế định
ngƣời phạm tội trong tình trạng say do dùng rƣợu hoặc chất kích thích mạnh
khác có các công trình nghiên cứu sau:
Công trình “Phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu – một số vấn
đề lý luận” của tác giả Th.s. Phạm Văn Báu đăng trên tạp chí Luật học số
8/2009; công trình “Xác định lỗi của người phạm tội trong tình trạng say
rượu” của tác giả Nguyễn Văn Trƣợng – Tạp chí tòa án nhân dân số 08/2001;
công trình “Bình luận Bộ luật khoa học Bộ luật hình sự - phần chung” của tác
giả Đinh Văn Quế; bài viết “Say rượu bệnh lý – có thoát tội” của tác giả Đinh
8
Văn Quế đăng trên báo pháp luật thành phố Hồ Chí Minh.
Trên cơ sở các công trình nghiên cứu trên có thể thấy, hiện nay các
chƣa có nhiều các công trình nghiên cứu độc lập, đánh giá lý luận và tổng kết
thực tiễn một cách toàn diện và có hệ thống về chế định ngƣời phạm tội trong
tình trạng say do dùng rƣợu hoặc chất kích thích mạnh khác. Hiện nay, chế
định này chỉ đƣợc nhắc đến hay đƣợc nghiên cứu dƣới một khía cạnh, góc độ
nào đó trong các công trình nghiên cứu về các chế định chung nhƣ Trách
nhiệm hình sự; miễn trách nhiệm hình sự; loại trừ trách nhiệm hình sự, hay
trong các bài bình luận khoa học BLHS
Nhƣ vậy, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép khẳng
định việc nghiên cứu đề tài “Trách nhiệm hình sự của người phạm tội trong
tình trạng say do dùng rượu hoặc chất kích thích mạnh khác theo pháp
luật hình sự Việt Nam” là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận,
vừa có tính thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu về mặt lý luận, lập pháp từ quy
định của pháp luật hình sự, cũng nhƣ quá trình áp dụng thực tiễn chế định
ngƣời phạm tội trong tình trạng say do dùng rƣợu hoặc chất kích thích mạnh
khác. Từ đó luận văn đƣa ra những giải pháp, những đóng góp nhằm hoàn thiện
các quy định về chế định này trong luật hình sự Việt Nam, cũng nhƣ những đề
xuất giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng chế định này trong thực tiễn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ những mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ
chủ yếu sau:
- Từ cơ sở kết quả tổng hợp các quan điểm của các tác giả đã có các
công trình nghiên cứu trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến chế định ngƣời
9
phạm tội trong tình trạng say do dùng rƣợu hoặc chất kích thích mạnh khác,
luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề chung về chế định này nhƣ:
Xác định tình trạng say, khái niệm chất kích thích, rƣợu; đặc điểm của tình
trạng say; phân biệt phạm tội trong tình trạng say do dùng rƣợu hoặc chất
kích thích mạnh khác với trƣờng hợp ngƣời phạm tội không có năng lực
trách nhiệm hình sự, do bị ngƣời khác ép hoặc cƣỡng chế dùng rƣợu hoặc
chất kích thích mạnh khác, chế định lỗi; say rƣợu bệnh lý có đƣợc coi là tình
trạng mất năng lực hành vi để đƣợc loại trừ trách nhiệm hình sự hay không;
những tiêu chí để xác định một ngƣời đang ở trong tình trạng say do dùng
rƣợu hoặc chất kích thích mạnh khác; kiến nghị đƣa tình tiết phạm tội trong
tình trạng say do dùng rƣợu hoặc chất kích thích mạnh khác là tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự;
- Khái quát sự phát triển của chế định ngƣời phạm tội trong tình trạng
say do dùng rƣợu hoặc chất kích thích mạnh khác trong lịch sử pháp luật hình
sự ở nƣớc ta từ năm 1945 đến nay để rút ra những nhận xét, đánh giá;
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về chế định này,
đồng thời phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế xung quanh việc áp dụng và
những nguyên nhân của nó;
- Nghiên cứu, đánh giá quy định của pháp luật nƣớc ngoài có liên quan
đến chế định này, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm;
- Từ đó đề xuất những định hƣớng và giải pháp hoàn thiện các quy định
về chế định ngƣời phạm tội trong tình trạng say do dùng rƣợu hoặc chất kích
thích mạnh khác trong BLHSViệt Nam hiện hành và nâng cao hiệu quả của
việc áp dụng chế định này trong thực tiễn.
3.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh chế
định ngƣời phạm tội trong tình trạng say do dùng rƣợu hoặc các chất kích
10
thích mạnh khác theo pháp luật hình sự Việt Nam, kết hợp với việc nghiên
cứu đánh giá tình hình áp dụng chế định này trong thực tiễn xét xử của Tòa
án các cấp và những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị
những giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả áp dụng
chế định này trong thực tiễn.
Luận văn cũng có tham khảo những bài học kinh nghiệm lập pháp của
một số nƣớc trong khi nghiên cứu chế định này.
Về thời gian: luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng chế định này trong
10 năm (2005-2015).
4. Cơ sở lý luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận
Đề tài đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác – xít, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về
Nhà nƣớc và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về xây dựng Nhà
nƣớc pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tƣ pháp đƣợc thể
hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số
08/NQ-TW ngày 2/01/2002, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 26/5/2005 về
Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
- Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phƣơng pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự nhƣ: phƣơng pháp
phân tích và tổng hợp; phƣơng pháp so sánh, đối chiếu; phƣơng pháp diễn
dịch; phƣơng pháp quy nạp; phƣơng pháp thống kê, điều tra xã hội học để
tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề tƣơng ứng đƣợc
nghiên cứu trong luận văn.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
11
Việc nghiên cứu luận văn là kết quả nghiên cứu một cách tổng thể, hệ
thống và toàn diện những vấn đề lý luận, thực tiễn về trách nhiệm hình sự
trong trƣờng hợp ngƣời phạm tội trong tình trạng say do dùng rƣợu hoặc chất
kích thích mạnh khác. Luận văn cũng đƣa ra các ý kiến nhằm hoàn thiện các
quy định của pháp luật hình sự hiện hành có liên quan đến chế định này.
Luận văn nghiên cứu một số trƣờng hợp xác định trách nhiệm hình sự,
xác định tình tiết định khung tăng nặng hình phạt đối với ngƣời phạm tội
trong tình trạng say do dùng rƣợu hoặc chất kích thích khác để đƣa ra kết
luận, có ý nghĩa đối với việc khắc phục những thiếu sót, hạn chế của chế định
này trong luật hình sự Việt Nam hiện hành.
6. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phƣơng diện
lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình đầu tiên nghiên cứu ở cấp độ luận
văn Thạc sĩ luật học về trách nhiệm hình sự của ngƣời phạm tội trong tình
trạng say do dùng rƣợu hoặc các chất kích thích mạnh khác theo pháp luật
hình sự Việt Nam, mà trong đó đã giải quyết đƣợc nhiều vấn đề quan trọng về
lý luận và thực tiễn liên quan tới chế định ngƣời phạm tội trong tình trạng say
do dùng rƣợu hoặc chất kích thích mạnh khác. Những điểm mới cơ bản của
luận văn là:
- Xây dựng nên khái niệm ngƣời phạm tội trong tình trạng say do
dùng rƣợu hoặc chất kích thích mạnh khác, đảm bảo tính chính xác, khoa
học, đồng thời chỉ ra các đặc điểm cơ bản của chế định này trong mối tƣơng
quan với một số chế định khác; những tiêu chí xác định tình trạng say; tình
trạng say rƣợu bệnh lý
- Nghiên cứu chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của quá trình hình thành
và phát triển của chế định ngƣời phạm tội trong tình trạng say do dùng rƣợu
hoặc chất kích thích mạnh khác trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm
12
1945 đến nay;
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn áp dụng, luận văn
đã đề xuất các định hƣớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và
nâng cao hiệu quả áp dụng chế định ngƣời phạm tội trong tình trạng say do
dùng rƣợu hoặc chất kích thích mạnh khác trong giai đoạn xây dựng Nhà
nƣớc pháp quyền và cải cách tƣ pháp hiện nay ở Việt Nam.
Nhƣ đã trình bày ở trên do hiện nay vấn đề này chƣa có công trình khoa
học nào nghiên cứu một cách sâu rộng và toàn diện nên luận văn sẽ là một tài
liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành cho không chỉ các nhà lập pháp mà còn
cho các nhà nghiên cứu, các sinh viên thuộc chuyên ngành Tƣ pháp hình sự tại
các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu và những đề xuất của luận văn còn
là tài liệu tham khảo để các cơ quan tƣ pháp, các nhà lập pháp trong quá trình
giải quyết vụ án và kiến nghị sửa đổi, bổ sung trong quá trình lập pháp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 03 chƣơng:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về trách nhiệm hình sự của ngƣời phạm
tội trong tình trạng say do dùng rƣợu hoặc chất kích thích mạnh khác.
Chương 2: Quy định pháp luật Việt Nam về TNHS của ngƣời phạm tội
trong tình trạng say do dùng rƣợu hoặc chất kích thích mạnh khác.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả
áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về trách nhiệm hình sự
của ngƣời phạm tội trong tình trạng say do dùng rƣợu hoặc chất kích thích
mạnh khác.
13
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA
NGƢỜI PHẠM TỘI TRONG TÌNH TRẠNG SAY DO DÙNG RƢỢU
HOẶC CHẤT KÍCH THÍCH MẠNH KHÁC
1.1. TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ CƠ SỞ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
1.1.1. Trách nhiệm hình sự
Trách nhiệm hình sự (TNHS) là biện pháp cƣỡng chế nghiêm khắc nhất
của Nhà nƣớc đƣợc áp dụng đối với ngƣời nào đã thực hiện hành vi phạm tội
do pháp luật hình sự (PLHS) quy định, đồng thời là một trong những chế định
cơ bản và quan trọng nhất của Luật hình sự Việt Nam và đƣợc ghi nhận tại
các Điều 2, 8-16 BLHS năm 1999.
Có thể khẳng định rằng cùng với ba chế định khác – tội phạm, hình
phạt, đạo luật hình sự, thì TNHS là một chế định trung tâm và chủ yếu, đồng
thời là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt toàn bộ các quy phạm của phần chung và phần
các tội phạm của luật hình sự. Mặt khác, tính chất và mức độ thể hiện của các
nguyên tắc pháp lý tiến bộ đƣợc thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại
và của luật hình sự Việt Nam nhƣ: pháp chế, nhân đạo, tôn trọng và bảo vệ
các quyền con ngƣời, v.v phụ thuộc rất lớn vào việc giải quyết vấn đề
TNHS của ngƣời phạm tội [32, tr.1].
Trách nhiệm hình sự là một thuật ngữ của khoa học luật hình sự thể hiện
hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm. Theo Đại từ điển tiếng việt, thuật
ngữ “trách nhiệm” đƣợc hiểu là “điều phải làm, phải gánh vác hoặc phải nhận
lấy về mình”. Trách nhiệm ở đây đƣợc hiểu là những hậu quả bất lợi đối với
ngƣời đã cố ý hoặc vô ý thực hiện một trong các hành vi vi phạm bổn phận,
trách nhiệm hay nghĩa vụ mà pháp luật đã quy định, nay phải chịu những hậu
quả bất lợi trƣớc ngƣời khác, trƣớc Nhà nƣớc hay cộng đồng xã hội.
14
Hiện nay, trong khoa học luật hình sự thì trách nhiệm hình sự với tƣ
cách là một dạng của trách nhiệm pháp lý chứa đựng tính nghiêm khắc nhất,
do đó khái niệm trách nhiệm hình sự còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau.
Theo tác giả GS.TSKH. Lê Cảm thì:
Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội
phạm và đƣợc thể hiện bằng việc áp dụng đối với ngƣời phạm tội
một hoặc nhiều biện pháp cƣỡng chế của Nhà nƣớc do luật hình sự
quy định [12, tr.122].
Đồng quan điểm trên, có tác giả nêu:
Trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý và là
hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm và đƣợc thể hiện
bằng việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cƣỡng chế của Nhà nƣớc
do BLHS quy định đối với ngƣời phạm tội [56, tr.106].
Hay tác giả khác định nghĩa:
Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý, là trách
nhiệm của ngƣời khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc
quy định trong pháp luật hình sự bằng một hậu quả bất lợi do Tòa án
áp dụng tùy thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi
mà ngƣời đó đã thực hiện [50, tr.14].
Có tác giả lại quan niệm:
Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc phạm tội, thể
hiện ở chỗ ngƣời đã gây ra tội phải chịu trách nhiệm về hành vi của
mình trƣớc Nhà nƣớc [53, tr.41].
Có tác giả cho rằng:
Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lí của việc thực hiện tội
phạm mà ngƣời phạm tội phải chịu trƣớc Nhà nƣớc, thể hiện ở bản
án kết tội của tòa án, cũng nhƣ hình phạt mà tòa án quyết định đối
với ngƣời bị kết án và dấu hiệu án tích của ngƣời đó [27, tr.27-28].
15
Trách nhiệm hình sự đƣợc đặt ra khi ngƣời nào đó đã đáp ứng đủ các
căn cứ của cơ sở trách nhiệm hình sự, và đƣợc xem là hậu quả pháp lý của
việc phạm tội đƣợc áp dụng đối với ngƣời thực hiện hành vi phạm tội. Thuật
ngữ “Trách nhiệm” thƣờng đƣợc hiểu theo hai nghĩa. Thứ nhất, trách nhiệm
có thể đƣợc hiểu là nghĩa vụ, bổn phận của một ngƣời trƣớc ngƣời khác, trƣớc
xã hội hoặc Nhà nƣớc. Ví dụ, trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái trong
việc chăm sóc, nuôi dƣỡng, giáo dục; hay trách nhiệm bảo vệ chủ quyền lãnh
thổ đất nƣớc của công dân v.v Thứ hai, trách nhiệm còn đƣợc hiểu là hậu
quả bất lợi mà một ngƣời phải gánh chịu trƣớc ngƣời khác, trƣớc xã hội hoặc
Nhà nƣớc do họ đã có hành vi vi phạm những nghĩa vụ, bổn phận nào đó. Ví
dụ: trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng khi có thiệt hại về ngƣời,
về tài sản. Trách nhiệm khắc phục/bồi thƣờng khi có hành vi hủy hoại tài sản
của ngƣời khác v.v Có tác giả cho rằng trách nhiệm hình sự theo nghĩa tổng
thể phải bao gồm hai mặt: Thực hiện trách nhiệm hình sự từ phía Nhà nƣớc và
chịu trách nhiệm hình sự của ngƣời phạm tội Ở đây có thể hiểu rằng chỉ khi
nào có việc thực hiện truy cứu trách nhiệm hình sự từ phía Nhà nƣớc thì mới
đƣa đến kết quả phải chịu trách nhiệm hình sự của ngƣời phạm tội. Về bản
chất thì trách nhiệm hình sự là nội dung của mối quan hệ giữ Nhà nƣớc và
ngƣời phạm tội và chỉ phát sinh từ thời điểm tội phạm đƣợc thực hiện.
Nhƣ vậy, có thể thấy rằng trách nhiệm hình sự đã đƣợc nhiều nhà khoa
học, chuyên gia pháp lý đƣa ra khái niệm. Theo quan điểm của tác giả, thì
trách nhiệm hình sự chính là hậu quả pháp lý của việc một hay nhiều ngƣời
thực hiện tội phạm. Và nó đƣợc thể hiện thông qua việc Nhà nƣớc áp dụng
một hay nhiều các biện pháp cƣỡng chế theo quy định pháp luật hình sự tới
ngƣời phạm tội.
1.1.2. Cơ sở của trách nhiệm hình sự
Trách nhiệm hình sự có mối quan hệ trực tiếp tới các quyền và nghĩa vụ
của công dân trong xã hội. Do đó, cần đảm bảo việc giải quyết một cách rõ
16
ràng, dứt khoát và chính xác trách nhiệm hình sự của ngƣời phạm tội. Điều
này sẽ không chỉ giúp nâng cao hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng ngừa
và chống tội phạm và song song với đó còn góp phần tôn trọng và bảo vệ các
lợi ích của Nhà nƣớc, của xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức
và công dân cũng nhƣ tránh tình trạng án oan, án sai. Để làm tốt điều này
trƣớc hết cần làm rõ nội dung của trách nhiệm hình sự, và cơ sở trách nhiệm
hình sự chính là nội dung cốt lõi của trách nhiệm hình sự. Bởi lẽ, cơ sở trách
nhiệm hình sự chính là căn cứ pháp lý chung quan trọng, mà dựa vào đó, các
cơ quan, chủ thể có thẩm quyền của Nhà nƣớc mới đặt ra vấn đề trách nhiệm
hình sự của một ngƣời nào đó trên thực tế vì đã thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm.
Vấn đề cơ sở của trách nhiệm hình sự là một trong những vấn đề trọng
tâm của luật hình sự và là nội dung của trách nhiệm hình sự, nó là những căn
cứ chung mà dựa vào đó Nhà nƣớc thông qua các cơ quan đại diện (các cơ
quan tiến hành tố tụng, mà cụ thể là cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án)
để xác định một ngƣời nào đó có phải chịu trách nhiệm hình sự vì đã thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm.. Do đó,
khi quy định và giải quyết đƣợc một cách đúng đắn và nhận thức chính xác cơ
sở của trách nhiệm hình sự sẽ góp phần triển khai tốt đƣợc chính sách hình sự
và các nguyên tắc của luật hình sự Việt Nam. Bên cạnh đó việc xác định rõ
vấn đề cơ sở trách nhiệm hình sự không chỉ có ý nghĩa về mặt pháp lý mà còn
nhằm thực hiện các nguyên tắc của Luật hình sự nhƣ nguyên tắc nhân đạo,
nguyên tắc công bằng (công minh), nguyên tắc nhân đạo. Hiện nay, có nhiều
các quan điểm khách nhau về cơ sở của trách nhiệm hình sự, theo đó các tác
giả dựa trên lỗi, những đặc điểm riêng biệt, cấu thành tội phạm hay căn cứ
vào việc thực hiện tội phạm. Theo đó, trong khoa học Luật hình sự Liên Xô
trƣớc đây và Cộng hòa Liên bang Nga hiện nay có các quan điểm khác nhau
về cơ sở của trách nhiệm hình sự, cụ thể:
17
Quan điểm 1: Lỗi của ngƣời phạm tội là cơ sở trách nhiệm
hình sự
Quan điểm 2: Trong một số trƣờng hợp, những đặc điểm
riêng biệt của ngƣời phạm tội cũng là cơ sở trách nhiệm hình sự
Quan điểm 3: Cơ sở của trách nhiệm hình sự là cấu thành tội
phạm hay hành vi có các dấu hiệu của trách nhiệm hình sự.
Quan điểm 4: Cơ sở của trách nhiệm hình sự là việc thực
hiện tội phạm [25, tr.16].
Về vấn đề cơ sở của trách nhiệm hình sự trong khoa học luật hình sự
Việt Nam cũng có những quan điểm khác nhau, có thể dẫn chứng một số quan
điểm nhƣ:
+ Cấu thành tội phạm là cơ sở của trách nhiệm hình sự
+ Cơ sở của trách nhiệm hình sự là cấu thành tội phạm của một loại tội
đƣợc quy định trong luật hình sự
+ Những dấu hiệu cấu thành tội phạm là cơ sở của trách nhiệm hình sự
và chỉ những dấu hiệu đó mới là cơ sở của trách nhiệm hình sự Phải khẳng
định rằng cơ sở của trách nhiệm hình sự là sự hiện diện của tất cả những dấu
hiệu do luật định về tội phạm chứ không thể thiếu một yếu tố nào.
Ngoài ra, cũng có tác giả phân chia cơ sở của trách nhiệm hình sự thành
hai dạng là cơ sở (hình thức) của trách nhiệm hình sự và cơ sở (pháp lý) của
trách nhiệm hình sự. Trong cuốn sách chuyên khảo những vấn đề cơ bản
trong khoa học luật hình sự của TSKH.PGS Lê Văn Cảm có nêu cơ sở (hình
thức) của TNHS đƣợc hiểu là “căn cứ chung, có tính chất bắt buộc và do luật
hình sự quy định mà chỉ có và phải dựa vào đó các cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền mới có thể đặt ra vấn đề TNHS của người đã thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm” [13, tr.632]. Còn cơ sở (pháp lý)
của TNHS là hành vi nguy hiểm cho xã hội có đầy đủ các dấu hiệu của CTTP
18
cụ thể tƣơng ứng đƣợc ghi nhận trong PLHS. Tựu chung lại thì có thể thấy
rằng cơ sở của trách nhiệm hình sự chính là việc đáp ứng đầy đủ các dấu hiệu
của cấu thành tội phạm đã đƣợc quy định trong các điều luật trong phần các tội
phạm của BLHS. Cấu thành tội phạm có thể hiểu là “tổng hợp các dấu hiệu
pháp lí (khách quan và chủ quan) do luật hình sự quy định thể hiện một hành vi
nguy hiểm cho xã hội cụ thể là tội phạm, tức là căn cứ vào các dấu hiệu đó một
hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm” [10, tr.18]. Hay nói cách, một
CTTP cụ thể là tổng hợp các dấu hiệu khách quan và chủ quan bắt buộc, mà
bằng các dấu hiệu đó nhà làm luật quy định tại quy phạm của Phần các tội
phạm BLHS tính chất tội phạm và tính chất bị xử phạt của hành vi nguy hiểm
cho xã hội tƣơng ứng bị luật hình sự cấm đồng thời chỉ ra loại hình phạt nào
và trong giới hạn nào nó có thể đƣợc tòa án áp dụng đối với ngƣời có lỗi trong
việc thực hiện tội phạm ấy.
Có thể thấy rằng sự thể hiện cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự
dƣợc cụ thể hóa trong BLHS. Bộ luật hình sự Việt Nam cũng nhƣ Bộ luật
hình sự đa số các nƣớc trên thế giới đều lấy hành vi làm trọng tâm để đặt ra
vấn đề truy cứu hay không truy cứu trách nhiệm hình sự. Nói một cách khác,
trách nhiệm hình sự chỉ đƣợc đặt ra đối với hành vi của con ngƣời. Bên cạnh
đó tác giả cũng cho rằng tại Điều 2 BLHS đƣợc xem là “Cơ sở của trách
nhiệm hình sự”. Từ nội dung điều luật tác giả đã rút ra bốn đặc điểm cơ bản
của cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự, bao gồm:
Một là, chỉ ngƣời nào phạm một tội đã đƣợc Bộ luật hình sự quy định
mới phải chịu trách nhiệm hình sự “ngƣời nào” – chủ thể đó là con ngƣời cụ
thể, có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Tuy
nhiên, hiện nay theo quy định BLHS 2015 đã đƣợc Quốc Hội khóa 13 kỳ họp
thứ 10 thông qua ngày 27/11/2015 đã có quy định về việc xác định chủ thể
của tội phạm không chỉ là con ngƣời (cá nhân) mà còn bao gồm cả pháp nhân
19
thƣơng mại. Mặc dù theo đúng dự kiến thì BLHS 2015 sẽ có hiệu lực thi hành
vào ngày 1/7/2015, tuy nhiên vì có một vài thiếu sót trong quá trình soạn thảo
nên Quốc Hội đã họp thống nhất tạm hoãn việc thi hành BLHS 2015.
Hai là, tội phạm duy nhất chỉ đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự,
không quy định trong văn bản pháp luật nào khác.
Ba là, trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam là trách nhiệm cá
nhân và chỉ đƣợc áp dụng đối với bản thân một ngƣời đã thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm, pháp nhân không phải
chịu trách nhiệm hình sự và chịu trách nhiệm hình sự tập thể.
Bốn là, đề cập việc thực hiện hành vi phạm tội của một ngƣời nào đó
đƣợc mô tả trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm.
Nhƣ vậy, bất kỳ ngƣời nào phạm tội nếu đáp ứng đầy đủ cơ cơ và
những điều kiện của trách nhiệm hình sự thì đều phải chịu trách nhiệm hình
sự trên những cơ sở chung. Tác giả hoàn toàn đồng ý với khái niệm về cơ sở
trách nhiệm hình sự đƣợc viện dẫn nhƣ sau: “Cơ sở của trách nhiệm hình sự
là việc thực hiện hành vi có đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ
thể được quy định tại điều tương ứng trong phần các tội phạm” [13, tr.663]
1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC XÁC ĐỊNH TRÁCH NHIỆM HÌNH
SỰ CỦA NGƢỜI PHẠM TỘI TRONG TÌNH TRẠNG SAY DO DÙNG
RƢỢU HOẶC CHẤT KÍCH THÍCH MẠNH KHÁC
1.2.1. Khái niệm rƣợu và chất kích thích mạnh khác
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị định số 94/2012/NĐ-CP ngày
12/11/2012 nghị định về sản xuất, kinh doanh rƣợu có quy định về sản phẩm
rƣợu, theo đó “sản phẩm rượu được hiểu là đồ uống có cồn thực phẩm. Sản
phẩm rượu được sản xuất từ quá trình lên men (có hoặc không chưng cất) từ
tinh bột của các loại ngũ cốc, dịch đường của cây và hoa quả hoặc được pha
chế từ cồn thực phẩm (Ethanol)” [18, Điều 3]. Theo giải thích trên thì rƣợu
20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
II. Tài liệu tiếng Việt
1. Phạm Văn Báu (2009), “Phạm tội trong tình trạng say do dùng rƣợu –
một số vấn đề lý luận”, Tạp chí Luật học, (8), tr.11-19.
2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24 tháng 5 năm
2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 00050007895_5244_2003044.pdf