MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN . 2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT . 6
DANH MỤC CÁC BẢNG. 7
MỞ ĐẦU. 8
0.1. Lí do chọn đề tài. 8
0.2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu . 10
0.3. Mục đích nghiên cứu. 12
0.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu . 12
0.5. Phương pháp nghiên cứu . 13
0.6. Những đóng góp của luận văn . 15
0.7. Cấu trúc luận văn . 16
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TỪ VÀ PHƯƠNG NGỮ TIẾNG VIỆT. 17
1.1. TỪ TIẾNG VIỆT . 17
1.1.1. Khái niệm. 17
1.1.2. Cấu tạo . 19
1.1.3. Ngữ âm - ngữ nghĩa. 21
1.2. PHƯƠNG NGỮ TIẾNG VIỆT . 24
1.2.1. Khái niệm . 24
1.2.2. Sự hình thành. 25
1.2.3. Phân vùng . 29
Chương 2. TỪ NGỮ CHỈ THỰC VẬT TRONG CÁC PHƯƠNG NGỮ
TIẾNG VIỆT XÉT VỀ MẶT CẤU TẠO. 32
2.1. TỪ . 32
2.1.1. Phương ngữ Bắc . 32
2.1.2. Phương ngữ Trung. 33
2.1.3. Phương ngữ Nam. 33
116 trang |
Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 757 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Từ ngữ chỉ thực vật trong tiếng Việt (đối chiếu giữa các phương ngữ), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lạc trắng, làng lạc đỏ,
Kiểu thứ tư: (YTPN + YTPN)
G + H GH (YTPN + YTPN)
G: là YTPN
H: là YTPN
GH: là ngữ ghép PN
Thuộc kiểu này có 20/391 từ ngữ, chiếm tỉ lệ 5,1% so với tổng từ ngữ
và chiếm tỉ lệ 7% so với tổng ngữ ghép (20/285 ngữ): bù rợ, cói bép, xích độ,
lài tru, cao lả, cổ nu, độ cu ve, mồng ga,
Xét ở góc độ YT từ loại theo sau danh từ chỉ loại, kết quả cụ thể
như sau:
• Thuộc kiểu danh từ + danh từ: có 186/391 từ ngữ, chiếm tỉ lệ
47,5% và chiếm tỉ lệ 65,3% so với tổng ngữ ghép (186/285 ngữ): loa kèn,
vông đồng, ruột ga, lưỡi mác, dây ba mươi, bách nhật, vương tùng, mãng xà,
móng bò, bù đất, bèo tây, bèo tai chuột,
• Thuộc kiểu danh từ + tính từ: có 76/391 từ ngữ, chiếm tỉ lệ 19,4%
và chiếm tỉ lệ 26,6% so với tổng ngữ ghép (76/285 ngữ): cúc trắng, dưa nứt,
me đỏ, chuối lùn, dứa xanh, gội tím, cao non, cói ngọt, bạch hạc, chua me
tím, làng lạc trắng, làng lạc đỏ,
• Thuộc kiểu danh từ + động từ: có 23/391 từ ngữ, chiếm tỉ lệ 5,9%
và chiếm tỉ lệ 8,1% so với tổng ngữ ghép: (23/285 ngữ): diếp xoắn, cà lùi, chỉ
thiên, chanh leo, độ leo, húng dủi, thầu đông, duốc cá, bò địt,
ghép
41
2.2.3. Phương ngữ Nam
So với từ, tỉ lệ ngữ chỉ thực vật ở PNN khá nhiều, có 313/391 từ ngữ,
chiếm tỉ lệ 80,1%. Kết quả cụ thể như sau:
Ngữ láy có 11/391 từ ngữ, chiếm tỉ lệ 2,8% và chiếm tỉ lệ 3,5% so với
tổng ngữ (11/313 ngữ). Chúng đều là ngữ láy đôi. Trong số 11 ngữ láy đôi
này, láy hoàn toàn có 5 ngữ, chiếm tỉ lệ 45,5% so với tổng ngữ láy (5/11 ngữ):
bòn bon, đủng đỉnh, khúc khắc, bo bo,; láy bộ phận có 6 ngữ, chiếm tỉ lệ
54,5% so với tổng ngữ láy (6/11 ngữ): ngót nghẻo, thao lao, su đủ, nồi côi,
thù lù,...
Trong số 11 ngữ láy đó chỉ 4 ngữ láy là ngữ TD, chiếm tỉ lệ 36,4%
(4/11 ngữ): khúc khắc, su su, bòn bon, ngót nghẻo; 7 ngữ còn lại là ngữ láy
PN, chiếm tỉ lệ 63,6% (7/11 ngữ). Hiện tượng PN được tạo nên do biến thể
ngữ âm so với PNB như su (đủ) − đu (đủ), đùng đình − đủng đỉnh, hoặc do
PNN lưu giữ những ngữ láy đã mờ nghĩa.
Ngữ ghép xuất hiện ở PNN cũng khá cao, có 302/391 từ ngữ, chiếm tỉ
lệ 77,2% và chiếm tỉ lệ 96,5% so với tổng ngữ (302/313 ngữ), trong đó chủ
yếu vẫn là ngữ ghép chính phụ.
Xét ở góc độ YT tạo ngữ của ngữ ghép, nhìn chung PNN được
cấu tạo theo các kiểu sau:
Kiểu thứ nhất: (YTTD + YTTD)
Thuộc kiểu này có 178/391 từ ngữ, chiếm tỉ lệ 45,5% và chiếm tỉ lệ
58,9% so với tổng ngữ ghép (178/302 ngữ): ba kích, bạc đầu, bách bộ, tùng
bách tán, cúc trắng, kiến cò, móng bò, bàng nhớt, bầu nậm, bầu sao, bèo
cám, bèo ong, bình bát, móng tay,
Kiểu thứ hai: (YTTD + YTPN)
42
Thuộc kiểu này có 45 ngữ, chiếm tỉ lệ 11,5% so với tổng từ ngữ và
chiếm tỉ lệ 14,9% so với tổng ngữ ghép (45/302 ngữ): bá bịnh, bướm hường,
bí rợ, chà là kiểng, tầm duột, chuối kiểng, chuối cao, lông heo, miệng chén,
củ nừn, dứa kiểng,
Kiểu thứ ba: (YTPN + YTTD)
Thuộc kiểu này có 69/391 từ ngữ, chiếm tỉ lệ 18,1% và chiếm tỉ lệ 23%
so với tổng ngữ ghép (69/302 ngữ): bông tỏi, lài dưa, lục bình, cờm thảo, mấn
trắng, mấn đỏ, cao bụng, cao lửa, cao ớt, kè chỉ, bụp dấm, dấp cá, mồng
gà,
Kiểu thứ 4: (YTPN + YTPN)
Thuộc kiểu này có 10/391 từ ngữ, chiếm tỉ lệ 2,6% và chiếm tỉ lệ 3,2%
so với tổng ngữ ghép (10/302 ngữ): cứt heo, cao kiểng, mồng gà nỷ, mồng gà
tụa, thúi địt, ngò rí, ngò om, dâm bụp, lác u du,
Xét ở góc độ YT từ loại theo sau danh từ chỉ loại, kết quả cụ thể
như sau
• Thuộc kiểu danh từ + danh từ: có 195/391 từ ngữ, chiếm tỉ lệ
49,9% và chiếm tỉ lệ 64,6% so với tổng ngữ ghép (195/302 ngữ): bông tỏi, bã
đậu, ba kích, bách bộ, tùng bách tán, kiến cò, lài dưa, móng bò, bầu nậm, bầu
sao, bèo cái, lục bình, bèo cám, bí đao,
• Thuộc kiểu danh từ + tính từ: có 84/391 từ ngữ, chiếm tỉ lệ 21,5%
và chiếm tỉ lệ 27,8% so với tổng ngữ ghép (84/302 ngữ): cúc trắng, mấn
trắng, mấn đỏ, me đỏ, bướm bạc, bướm hường, cà dẹt, cải ngọt, cải trường,
dây bông xanh, chuối già hương,
• Thuộc kiểu danh từ + động từ: có 23/391 từ ngữ, chiếm tỉ lệ 5,9%
và chiếm tỉ lệ 7,6% so với tổng ngữ ghép (23/302 ngữ): nở ngày, chó đẻ, dưa
43
leo, đắng cay leo, húng lủi, khoai mài, thuộc bài, ngọa tùng, sầu đông, sống
đời, thúi địt, trường sinh lá rách,
Số lượng ngữ chỉ thực vật cũng tương đối đồng đều giữa ba PN trong
tiếng Việt. So với từ tỉ lệ ngữ khá nhiều. Cụ thể, xem bảng sau:
Từ ngữ
PN
Bắc Trung Nam
Số
lượng
Tỉ lệ (%)
Số
lượng
Tỉ lệ (%)
Số
lượng
Tỉ lệ (%)
Từ 85 21,7 87 22,3 78 19,9
Ngữ 306 78,3 304 77,7 313 80,1
Tổng
cộng
391 100 391 100 391 100
Bảng 2.3: Số lượng và tỉ lệ từ và ngữ giữa các PN
Số lượng ngữ ở PNN là nhiều nhất, kế đến là PNB và cuối cùng là PNT.
Cũng như từ, số lượng ngữ giữa ba PN chênh lệch không đáng kể, nhiều gấp
hơn ba lần so với từ. Vấn đề cần chú ý ở đây là tỉ lệ các tiểu loại ngữ giữa ba
PN. Chúng ta xem bảng so sánh sau:
Ngữ
PN
Bắc Trung Nam
Số lượng Tỉ lệ (%) Số lượng Tỉ lệ (%) Số lượng Tỉ lệ (%)
Ngữ
ghép
299 97,7 285 93,7 302 96,5
Ngữ láy 7 2,3 19 6,3 11 3,5
44
Tổng
cộng
306 100 304 100 313 100
Bảng 2.4: Số lượng và tỉ lệ các tiểu loại ngữ giữa các PN
Xét trên tổng thể, tỉ lệ ngữ ghép gấp trên 15 lần so với ngữ láy. Như
vậy, phương thức ghép được cả ba PN ưu tiên lựa chọn để định danh thực vật.
Trong đó, PNN là có ngữ ghép cao nhất, kế đến là PNB, thấp nhất là PNT. Tỉ
lệ ngữ láy ở PNT nhiều gấp 2,7 lần so với PNB và gấp 1,8 lần so với PNN.
Và trong từng tiểu loại mức độ chênh lệch giữa các PN cũng khá cao. Cụ thể,
xem bảng đối chiếu sau:
Ngữ láy
PN
Bắc Trung Nam
Số
lượng
Tỉ lệ (%)
Số
lượng
Tỉ lệ
(%)
Số lượng
Tỉ lệ
(%)
Ngữ láy
hoàn toàn
5 71,4 4 21,1 5 45,5
Ngữ láy bộ
phận
2 22,6 15 78,9 6 54,5
Tổng cộng 7 100 19 100 11 100
Bảng 2.5: Số lượng và tỉ lệ các tiểu loại ngữ láy giữa các PN
Dựa vào bảng trên, chúng tôi nhận thấy tỉ lệ ngữ láy hoàn toàn ở PNB
cao gấp 3,4 lần so với PNT và cao gấp 1,6 lần so với PNN. Ngược lại tỉ lệ
ngữ láy bộ phận ở PNT cao gấp 3,5 lần so với PNB và gấp 1,4 lần so với
PNN. Ở PNN, số lượng ngữ láy hoàn toàn và bộ phận chênh lệch nhau không
đáng kể.
45
Nếu nhìn ngữ láy ở góc độ TD hay ĐP thì tỉ lệ giữa các PN cũng có sự
khác nhau đáng kể. Cụ thể xem bảng sau:
Ngữ láy
PN
Bắc Trung Nam
Số
lượng
Tỉ lệ (%)
Số
lượng
Tỉ lệ (%)
Số
lượng
Tỉ lệ (%)
TD 7 100 3 15,8 4 36,4
ĐP 0 0 16 84,2 7 63,6
Tổng cộng 7 100 19 100 11 100
Bảng 2.6: Số lượng và tỉ lệ ngữ láy TD và ĐP giữa các PN
Dựa vào bảng trên, PNB có tỉ lệ ngữ láy TD gấp 6,3 lần so với PNT và
gấp 2,7 lần so với PNN. Ngược lại, PNT sử dụng rất nhiều ngữ láy ĐP. Số
lượng ngữ láy ĐP ở PNT gấp 16 lần so với PNB và gấp 2,3 lần so với PNN.
YT được dùng phổ biến nhất trong các loại ngữ láy ĐP ở PNT và PNN một
mặt do biến thể ngữ âm tạo nên, mặt khác do hai PN này lưu giữ ngữ láy đã
mờ nghĩa.
Nếu xét ở góc độ YT tạo ngữ của ngữ ghép thì PNB có số lượng ngữ
ghép TD nhiều nhất, kế đến và PNN và cuối cùng là PNT. Để có cái nhìn toàn
diện, chính xác, chúng ta xem bảng đối chiếu sau:
YT tạo ngữ
ghép
PN
Bắc Trung Nam
Số
lượng
Tỉ lệ
(%)
Số
lượng
Tỉ lệ
(%)
Số
lượng
Tỉ lệ
(%)
46
YTTD + YTTD 283 94,6 147 51,6 178 58,9
YTTD + YTPN 3 1 48 16,8 45 14,9
YTPN + YTTD 13 4,4 70 24,6 69 23
YTPN + YTPN 0 0 20 7 10 3,2
Tổng cộng 299 100 285 100 302 100
Bảng 2.7: Số lượng và tỉ lệ YT tạo ngữ ghép giữa các PN
Từ bảng 2.7, chúng tôi thấy YT tạo ngữ ghép kiểu thứ 1 ở PNB gấp gần
2 lần so với PNT và PNN. Ngược lại, YT tạo ngữ kiểu thứ 2 ở PNT và PNN
nhiều gấp 15 lần so với PNB. YT tạo ngữ kiểu thứ 3 ở PNT và PNN nhiều
gấp 5 lần so với PNB. YT tạo ngữ kiểu thứ 4 ở PNT nhiều gấp đôi PNN và
gấp 20 lần so với PNB. Như vậy, PNB có YT tạo ngữ TD nhiều, còn PNN và
PNT có YT tạo ngữ ĐP nhiều, đặc biệt là PNT có rất nhiều YT tạo ngữ ghép
đã mất nghĩa.
Nếu xét ở góc độ YT từ loại theo sau danh từ chỉ loại, nhìn chung ba
PN không có sự biến động nhiều như ở YT tạo ngữ ghép. Để làm sáng tỏ vấn
đề này chúng ta xem bảng sau:
YT từ loại theo
sau DT
PN
Bắc Trung Nam
Số
lượng
Tỉ lệ
(%)
Số
lượng
Tỉ lệ
(%)
Số
lượng
Tỉ lệ
(%)
DT 185 61,9 186 65,3 195 64,6
TT 90 30,1 76 26,6 84 27,8
ĐT 24 8 23 8,1 23 7,6
47
Tổng cộng 299 100 285 100 302 100
Bảng 2.8: Số lượng và tỉ lệ các YT từ loại theo sau danh từ chỉ loại
trong các PN
Qua bảng trên, xét ở YT từ loại danh từ, PNN là cao nhất kế đến là
PNB và PNT là thấp nhất. Xét ở YT từ loại tính từ thì ngược lại, PNB cao
nhất kế đến là PNN và cuối cùng vẫn là PNT. Ở YT từ loại động từ, PNB là
cao nhất, PNT và PNN bằng nhau và chỉ thấp hơn PNB một từ. Tuy vậy, sự
chênh lệch này không quá lớn, nhìn chung YT từ loại danh từ được cả cả ba
PN ưu tiên lựa chọn để định danh. Nó nhiều gấp 2 lần so với từ loại tính từ và
nhiều gấp gần 8 lần so với từ loại động từ. Như vậy, khi định danh thực vật,
người Việt Nam ưu tiên quan tâm đến ý nghĩa sự vật của thực vật, kế đến là
quan tâm đến ý nghĩa tính chất thuộc tính của thực vật, và cuối cùng thì mới
quan tâm đến hành động, trạng thái hay quá trình của thực vật.
Tiểu kết
Như vậy, qua những phân tích, đối chiếu khái quát như trên, ta thấy cả
ba: PNB, PNT và PNN đều sử dụng từ và ngữ để cấu tạo từ ngữ tiếng Việt,
trong đó số lượng ngữ gấp hơn 3 lần so với từ và trong ngữ thì phương thức
ghép chính phụ được cả ba PN ưu tiên lựa chọn để gọi tên thực vật. Từ ngữ ở
PNT, PNN, trước hết có một bộ phận đã được tạo ra theo phương thức biến
đổi ngữ âm của tiếng Việt, bộ phận khác lại được tạo nên do PN lưu giữ YT
mất nghĩa, mờ nghĩa. Nếu xét ở khía cạnh YT tạo ngữ, PNB có nhiều ngữ TD
nhất, kế đến là PNN, cuối cùng là PNT. Khi sử dụng ngữ ghép để định danh
thực vật cả ba PN ưu tiên quan tâm đến ý nghĩa sự vật, kế đến là tính chất của
sự vật và cuối cùng thì mới quan tâm đến hành động, trạng thái của thực vật.
48
Chương 3
TỪ NGỮ CHỈ THỰC VẬT TRONG CÁC PHƯƠNG NGỮ TIẾNG VIỆT
XÉT VỀ MẶT NGỮ ÂM - NGỮ NGHĨA
Ở chương này, từ ngữ chỉ thực vật được chúng tôi xem xét dưới góc độ
ngữ âm – ngữ nghĩa trong sự đối chiếu giữa các PN với nhau. Từ đó, chỉ ra
quy luật tri nhận mang đậm đặc điểm tâm lý của người dân từng vùng.
Trên cơ sở kết hợp hai bình diện ngữ âm và ngữ nghĩa, chúng tôi tiến
hành miêu tả, đối chiếu từ ngữ chỉ thực vật trong ba PN tiếng Việt theo 5 kiểu
loại cơ bản.
3.1. TỪ NGỮ VỪA CÓ SỰ BIẾN THỂ VỀ NGỮ ÂM VỪA CÓ SỰ
TƯƠNG ĐỒNG VỀ NGHĨA
Đây là các tên gọi của cùng một thực vật do quá trình biến đổi ngữ âm
mà có sự khác biệt giữa ba PN. Các biến đổi ngữ âm này có thể do hệ thống
ngữ âm của từng PN tạo nên hoặc do biến đổi lịch sử của từng vùng, sự khác
biệt về nghĩa giữa từ ngữ ĐP với từ ngữ TD có sự biến thể ngữ âm với nó là
không đáng kể. Về cơ bản chúng có sự đồng nhất về nghĩa với nhau. Theo số
liệu thống kê, có 80/391 từ ngữ vừa có sự biến thể về mặt âm vừa có sự tương
đồng về nghĩa, chiếm tỉ lệ 20,5%. Trong đó, có những từ ngữ chỉ khác nhau ở:
phụ âm đầu, ở phần vần hay ở thanh điệu. Bởi vì một từ ngữ biến đổi về ngữ
âm không phải biến đổi tất các bộ phận cùng một lúc, mà phần lớn chỉ biến
đổi một trong những bộ phận này thôi, nên căn cứ vào nghĩa của chúng sẽ
nhận dạng được. Những từ ngữ kiểu này đã được các nhà nghiên cứu sử dụng
làm tư liệu nghiên cứu ngữ âm lịch sử tiếng Việt.
3.3.1. Biến thể phụ âm đầu
49
Theo số liệu thống kê, có 27/391 từ ngữ có sự biến thể phụ âm đầu ở ba
PN, chiếm tỉ lệ 6,9% và chiếm tỉ lệ 33,7% so với tổng từ ngữ vừa có sự biến
thể về âm vừa có sự tương đồng về nghĩa (27/80 từ ngữ). Cụ thể như sau:
• Tương ứng /k/ ở PNB, PNT ta có biến thể /n/ ở PNN
− cúc (áo) − cúc (áo) − nút (áo)
• Tương ứng /z/ trong PNB và PNN ta có biến thể /c/ ở PNT
− diếp (cá)/dấp (cá) − chấp (cá)
− dền/dền − chên
• Tương ứng /d/z/ trong PNB ta có biến thể /z/ ở PNT và PNN
− đa − da/da
− giấy/giấy − dí
− giằng (xay) − dằng (xay) /dằng (xay)
• Tương ứng /d/ trong PNB ta có biến thể /ť/ ở PNT và /
− đu (đủ) − thu (đủ) − su (đủ)
• Tương ứng /γ/k/x/ trong PNB và PNN ta có biến thể /k/ ở PNT
− gạo/gạo − cáo
− gấc/gấc − cấc
− kinh (giới)/kinh (giới) − canh (giới)
− khúc khắc/khúc khắc − cúc cắc
• Tương ứng /γ/ trong PNB ta có biến thể /k/ ở PNT và PNN
− gấu/ − cú/cú
• Tương ứng /k/ trong PNB ta có biến thể /c/ ở PNT và PNN
− kim (quýt) − chim (quýt)/chim (quýt)
• Tương ứng / ɲ/ trong PNB ta có biến thể /l/ ở PNT và PN
50
− nhài/ − lài/lài
− nhót − lót/lót
− (thị) nhọ (nồi) − (thị) lọ (nồi)/(thị) lọ (nồi)
• Tương ứng / ʐ/ trong PNB ta có biến thể / ɲ/z/ ở PNT và PN
− rút − nhút/nhút
− râm (bụt) − dâm (bụp) /dâm (bụp)
− (chùm) ruột − (chùm) duột/(tầm) duột
• Tương ứng / ʂ/ trong PNB v ta có biến thể / ʈ/ť/ ở PNT
− (cam) sành/(cam) sành − (cam) trành
− so (đũa)/so (đũa) − tho (đũa)
− sòi/sòi − tròi
• Tương ứng / ʈ/ trong PNB ta có biến thể /c/ ở PNT và P N
− trâm (bầu) − chưn (bầu) /chưn (bầu)
• Tương ứng / ʈ/ trong PNT và ta có biến thể /z/ ở PNB
− tranh/tranh − gianh
− trầu/trù − giầu
• Tương ứng /ť/ trong PNB ta có biến thể / ʈ/ ở PNT và PNN
− thài (lài trắng) −(rau) trai/(rau) trai
• Tương ứng /v/ trong PNB ta có biến thể / ɲ/ ở PNT và PNN
− vạn (thọ) − nhạn (thọ) /nhạn (thọ)
Qua kết quả trên, phụ âm đầu ở PNT và PNN so với PNB có sự biến thể
phức tạp, trong đó phức tạp nhất là PNT. Tập trung chú ý loại này theo vị trí
cấu âm thì lớp âm lưỡi có nhiều đơn vị tham gia biến thể hơn lớp âm môi và
có cấu trúc phức tạp hơn, có hiện tượng từ gốc lưỡi ở PNB chuyển sang đầu
51
lưỡi ở PNT và PNN như : cúc (áo)/cúc (áo) - nút (áo); hay từ đầu lưỡi ở PNB
và PNN chuyển sang mặt lưỡi ở PNT như dền/dền – chên, Mặc dù vậy, đa
số các từ ngữ vẫn chuyển trong phạm vi lớp âm lưỡi. Chỉ duy nhất một trường
hợp, âm môi ở PNB chuyển thành âm mặt lưỡi ở PNT và PNN : vạn (thọ) −
nhạn (thọ) /nhạn (thọ).
3.3.2. Biến thể phần vần
Theo số liệu thống kê, có 45/391 từ ngữ có biến thể phần vần ở ba PN,
chiếm tỉ lệ 11,5% và chiếm tỉ lệ 56,3 % so với tổng từ ngữ vừa có sự biến thể
về âm vừa có sự tương đồng về nghĩa (45/80 từ ngữ). Cụ thể như sau:
• Tương ứng vần khép ở PNB ta có biến thể vần khép ở PNT và PNN
− /et – ep/ep/: (bồ) kết − (bồ) kếp/(bồ) kếp
• Tương ứng vần nửa khép ở PNB ta có biến thể vần nửa khép ở PNT
và PNN
− /eŋ − iŋ/iŋ/: (bách) bệnh − (bá) bịnh/ (bá) bịnh
− /ɤ �m − om/om/: trâm − trôm/trôm
− /ɤ �n − ɯn/ɯn/: (củ) nần − (cổ) nưn/(củ) nừn
− /am − ɤ m/ɤ m/: cam (thảo) − cờm (thảo)/cờm (thảo)
− /oŋ − uŋ/uŋ /: mồng (tơi) − mùng (tơi)/mùng (tơi); (tầm)
vông/(tầm) vông −(tầm) vung.
• Tương ứng vần nửa khép ở PNB và PNN ta có biến thể vần nửa
khép ở PNT
− /uŋ/uŋ – iŋ/: đùng (đình)/đủng (đỉnh) − đình (đình).
Nhìn vào sự liệt kê ở trên, ta thấy sự biến thể giữa vần khép và nửa
khép ở PNB so với PNT và PNN khá phong phú và có quy luật chặt chẽ.
52
Xét từ phía đỉnh vần: các nguyên âm làm đỉnh vần phải cùng vị trí cấu
âm (nghĩa là cùng dòng: trước/sau; tròn môi/ không tròn môi). Sự thay đổi tạo
ra sự biến thể ở đỉnh vần khép là nó được tự do chuyển dịch độ nâng của lưỡi
(cao, vừa hay thấp) trong cùng một vị trí cấu âm.
Xét từ phía cuối vần: chúng cùng phương thức kết thúc như nhau, đồng
thời phụ âm kết thúc hai vần đều cùng phương thức cấu âm (/t/ -/p/p/: (bồ) kết
− (bồ) kếp/(bồ) kếp - âm ồn). Những hiện tượng mũi hóa (của vần nửa khép)
các phụ âm kết thúc đều giống nhau.
• Tương ứng vần nửa khép ở PNB và PNT ta có biến thể vần nửa
khép ở PNN
− /oŋ/oŋ – /��ɤ ŋ /: hồng/hồng − hường; (mẫu đơn) hồng/(mẫu
đơn) hồng - (trang) hường.
− /��ŋ/��ŋ – i�eŋ/: (cau) cảnh/(cao) cảnh/ − (cao) kiểng;
(chà là) cảnh/(chà là) cảnh/ − (chà là) kiểng; (chuối) cảnh/(chuối) cảnh/ −
(chuối) kiểng; (dứa) cảnh/(dứa)cảnh/ − (dứa) kiểng; (khế) cảnh/(khía) cảnh/
− (khế) kiểng.
Hai trường hợp này không giống những trường hợp biến thể ngữ âm như
trên. Các vần biến trại đi do kị húy (trùng với tên phải cữ trong hoàng tộc
triều Nguyễn). PNB và PNT ít chịu áp lực này, chẳng hạn trường hợp cảnh
đổi thành kiểng (tên Hoàng Tử Cảnh). (theo lí giải của Trần Thị Ngọc Lang
[35; 61]).
• Tương ứng vần mở ở PNB ta có biến thể vần mở ở PNT và PNN
− /u − ɔ/ɔ /: gụ − gõ/gõ
− /���/��� – a/: (cau) lửa/ (cao) lửa/ − (cao) lả; / nứa/nứa −
ná
− /ɤ /−a/a/: sơ (ri)− sa (ri)/sa (ri)
53
− /o − u/u/: ô (môi) − u (môi)/ u (môi); (đỗ) cô (ve)/(đậu) cô (ve)
− (độ) cu (ve).
− /i�e – a − ɯ/: tía (tô) − tá (tô) − tử (tô)
− /i�e – a − i/: thìa (là) − thà (là) − thì (là)
Sự đối ứng như trên có thể hình dung qua sơ đồ bảng sau:
Dòng/môi
Độ nâng
Dòng trước,
không tròn môi
Dòng sau
Không tròn môi Tròn môi
Cao i�e i ɯ ��� U
Vừa O
Thấp a ɔ
Bảng 3.1: Sơ đồ sự đối ứng các từ ngữ vần mở
Dựa vào sơ đồ trên, ta thấy 4/6 trường hợp có sự biến thể xảy ra trong
cùng dòng môi. Chỉ có 2/6 trường hợp (/i�e – a – ɯ/) có sự biến thể khác
dòng môi. Xét về độ nâng của lưỡi, ta thấy có 3/6 trường hợp có sự chuyển
dịch độ nâng của lưỡi từ cao xuống thấp (/i�e – a/, /��� – a/, /u – ɔ/, ). Đ ộ
nâng của lưỡi có sự tự do hơn trong chuyển dịch từ cao xuống thấp, từ vừa lên
cao. Như vậy, sự biến thể giữa vần mở ở PNB so với PNT và PNN xảy ra khi
từ ngữ ĐP có đỉnh vần cùng một dòng môi.
• Tương ứng vần nửa mở ở PNB ta có biến thể vần nửa mở ở PNT và
PNN
− /ɯj – ɤ j/ɤ j/: (tầm) gửi − (chùm) gởi/(chùm) gởi
− /aṷ – i�eṷ /i�eṷ /: đào − điều/điều
− /aṷ – aṷ /aṷ /: nhàu − nhào/nhào ; cau − cao/cao
− /eṷ – iṷ /iṷ /: (rau) dệu − (rau) dịu/(rau) dịu
54
− /oj/oj – uj/: (bình) vôi/(bình) vôi −( bình) vui
Sự đối ứng ở vần nửa mở như trên, tình hình xảy ra và các quy luật biến
thể giống như vần khép và nửa khép. Chẳng hạn, (tầm) gửi − (chùm)
gởi/(chùm) gởi: /ɯj – ɤ j/ɤ j/.
Phía đỉnh vần: các nguyên âm làm đỉnh vần đa số đều cùng vị trí cấu
âm, chỉ duy nhất trường hợp /aṷ – i�eṷ /: đào − điều/điều là từ dòng sau
chuyển sang dòng trước. Phía cuối vần: đồng nhất bán nguyên âm kết thúc
vần.
• Tương ứng vần nửa mở ở PNB và PNN ta có biến thể vần mở ở
PNT
− /ɤ �ṷ /ɤ �ṷ – u/: bầu/bầu − bù; (bèo hoa) dâu/(bèo huê)
dâu − (bèo huê) du; (củ) nâu/(củ) nâu − (củ) nu; dâu/dâu − du; (mướp)
trâu/(mướp) trâu − (mướp) tru; sấu/sấu − sú.
• Tương ứng vần nửa mở ở PNN ta có biến thể vần mở ở PNB và
PNT
− /ɤ �ṷ – o/o/: đậu − đỗ/độ
Với những cặp biến thể này, chúng ta thấy các nguyên âm đều là dòng
sau và đều có bán nguyên âm /ṷ / kết thúc phần vần. Chúng ta có thể khái
quát sự biến thể đó như sau: /ɤ �ṷ /ɤ �ṷ – u/ ; /ɤ �ṷ – o/o/.
• Tương ứng vần mở ở PNB ta có biến thể vần nửa khép ở PNT và
PNN
− /i/i – im/: bí/bí − bim
− / ɛ/ɛ / – n/: ké/ké − kén
Với hai cặp biến thể này, chúng ta thấy các nguyên âm đều là dòng
trước và đều có phụ âm vang mũi kết thúc phần vần. Chúng ta có thể khái
quát sự biến thể như sau: /i/i – im/; / ɛ/ɛ – n/.
55
• Tương ứng vần mở ở PNB và PNT ta có biến thể vần nửa mở ở
PNN
− /e/e – ɤ j/: (nguyệt) quế/(nguyệt) quế − (nguyệt) quới
• Tương ứng vần nửa khép ở PNB và PNN ta có biến thể vần mở ở
PNT
− /ɯŋ/ɯŋ/ – i/: (chuối) rừng/(chuối) rừng − (chuối) ri
• Tương ứng vần mở ở PNB và PNT ta có biến thể vần khép PNN
− /a/a/ – ak/: a (ti sô)/a (ti sô) – ạc (ti sô)
• Tương ứng vần nửa mở ở PNB ta có biến thể vần nửa khép ở PNT
và PNN
− /aṷ – oŋ/oŋ/: mào (gà) − mồng (gà)/mồng (gà)
• Tương ứng vần nửa mở ở PNB và PNT ta có biến thể vần nửa khép
ở PNN
− /aṷ /aṷ – uŋ/: (mía) lau/(mía) lau − (mía) lung
Đối với 4 trường hợp biến thể như đã nêu ở trên, quy luật biến thể cũng
giống như các trường hợp trên.
• Tương ứng âm đệm + nguyên âm + (phụ âm cuối) ở PNB ta có biến
thể nguyên âm + (phụ âm cuối) ở PNT và PNN
− /wǎk − ǎk/ǎk/: hoắc (hương) − hắc (hương)/hắc (hương)
− /wa − a/a/: (đỗ) Hòa (Lan) − (độ) Hà (Lan)/ (đậu) Hà (Lan)
Từ hai cặp biến thể này, chúng ta nhận thấy PNT và PNN có xu hướng
nhược hóa âm đệm so với PNB.
3.3.3. Biến thể thanh điệu
56
Theo số liệu thống kế, có 8/391 từ ngữ có biến thể thanh điệu ở ba PN,
chiếm tỉ lệ 2% và chiếm tỉ lệ 10% so với tổng từ ngữ vừa có sự biến thể về âm
vừa có sự tương đồng về nghĩa (8/80 từ). Cụ thể như sau:
• Tương ứng thanh huyền (\) ở PNB và PNN ta có biến thể thanh ngang
ở PNT
− gà/gà − ga
− gừng/gừng − gưng
• Tương ứng thanh sắc (/) và thanh ngã (~) ở PNB và PNN ta có biến
thể thanh nặng (.) ở PNT
− ngót (nghẻo)/ngót (nghẻo) − ngọt (nghẻo)
− nhãn/nhãn − nhạn
− (rau) ngót/(bù) ngót − (bù) ngọt
• Tương ứng thanh ngang ở PNB và PNT ta có biến thể thanh nặng (.) ở
PNN
− (mào gà) tua/(mồng gà) tua − (mồng gà) tụa
• Tương ứng thanh nặng (.) và thanh hỏi (?) ở PNB và PNN ta có biến
thể thanh sắc (/) ở PNT
− mạ/mạ − má
− vả/vả − vá
Vấn đề thanh điệu cũng diễn ra khá phức tạp ở PNT, nó diễn ra hầu như
có sự biến đổi ở tất cả các thanh điệu. Hoàng Thị Châu [12; 216] cho rằng hệ
thanh điệu PNT thuộc loại trầm. Như thế, ta có thể nghĩ rằng, do sự đối lập về
âm vực mờ đi, sự đối lập các thanh về đường nét trong nhóm thanh (gãy và
không gãy) càng bị nhòe đi, tính khu biệt các thanh vì thế mà không rõ ràng.
57
Qua miêu tả, so sánh mặt ngữ âm của từ ngữ như trên, có thể thấy, sự
biến thể giữa từ ngữ trong ba PN về mặt ngữ âm là phong phú song cũng hết
sức phức tạp. Sự biến thể ngữ âm ấy diễn ra ở phụ âm đầu, phần vần và cả
thanh điệu nhưng không theo một tỉ lệ đều khắp giữa các bộ phận ngữ âm đó
cũng như trong từng bộ phận. Riêng đối với từng bộ phận thì bộ phận biến thể
phần vần chiếm tỉ lệ cao nhất và cũng phức tạp nhất. Tuy thế, nhìn chung, sự
biến thể về ngữ âm là có quy luật.
Như đã nói ở trên, sự khác nhau về nghĩa giữa các từ ngữ trong ba PN
là không đáng kể, chủ yếu là khác nhau ở các phong cách ngôn ngữ. Các từ
ngữ ĐP dĩ nhiên khả năng hoạt động của chúng sẽ hạn chế hơn, phạm vi sử
dụng hẹp hơn, chủ yếu dùng trong ngôn ngữ sinh hoạt thường ngày. Có thể
nhận thấy PNB là có hiện tượng biến thể ngữ âm ít nhất, nó gần với ngôn ngữ
TD nhất và phạm vi sử dụng của nó cũng rộng nhất. Phức tạp nhất vẫn là
PNT. Hiện tượng biến thể xảy ra rộng khắp, và có một số trường hợp không
theo quy luật chung của ngôn ngữ Việt. Từ sự phân tích đó, chúng ta càng
thấy được vai trò to lớn của từ ngữ toàn dân, của chuẩn ngôn ngữ đối với các
PN và xu hướng mở rộng từ ngữ TD, hạn chế dùng PN đang diễn ra một cách
tự nhiên trong xã hội.
3.2. TỪ NGỮ CÓ SỰ BIẾN THỂ VỀ MẶT NGỮ ÂM VÀ CÓ
BIẾN ĐỔI ÍT NHIỀU VỀ NGHĨA
Đây là kiểu loại các từ ngữ dùng trong PN biến thể với nhau về ngữ âm,
cùng biểu thị một loại thực vật nào đó và có những khác biệt trên những
nghĩa, nét nghĩa cụ thể. Sự phân li về nghĩa giữa các từ ngữ ĐP kiểu này khá
rõ. Nói cụ thể hơn, về hình thức, các từ ngữ này vốn là biến thể ngữ âm của
nhau: ở phụ âm đầu, phần vần, thanh điệu, nên bên cạnh sự khác nhau về một
trong các bộ phận đó, giữa các từ ngữ ĐP phải giống nhau ở bộ phận ngữ âm
còn lại, kiểu như: bòng − bòng − bung, cải − cói − cải; cây − cơn − cây; chè
58
− chè − trà; khế − khía − khế; lúa − ló − lúa. Đây cũng là số lượng từ mà
chúng tôi thống kê được thuộc lớp từ này (6 từ). Nếu so với từ ngữ vừa có sự
biến đổi về ngữ âm vừa tương đồng về nghĩa thì loại này chiếm tỉ lệ 7,7%
(6/80 từ ngữ), nếu so với tổng từ ngữ thống kê được thì số lượng từ kiểu này
quá ít, nó chỉ chiếm tỉ lệ 1,5% (6/391 từ ngữ).
Ta thấy bòng − bòng − bung là những biến thể ngữ âm của nhau (theo
quy lu ật chung bi ). T eo Từ điển
Tiếng Việt [45; 74], bòng ở PNB có 1 nghĩa duy nhất: “cây cùng họ với bưởi,
quả to cùi dày”. Theo Từ điển Tiếng Nghệ [58; 28], bòng có 3 nghĩa: 1. bòng
2. bưởi; 3. cây bòng bòng, cây giây leo. Rối như mớ bòng bong. Còn bung ở
PNN là biến thể ngữ âm của từ bòng ở PNB. Như vậy, cả ba PN giống nhau ở
nghĩa cùng chỉ loại cây cùng họ với bưởi, quả to cùi dày. Ở đây, PNT có
nghĩa rộng lơn, phong phú hơn PNB và PNN.
Trường hợp cải − cói − cải cũng là những biến thể ngữ âm của nhau
(theo quy lu ật chung bi bòng
− bòng − bung). Cả ba từ này giống nhau ở nghĩa: “cây có hoa gồm bốn cánh
xếp thành hình chữ thập, có nhiều loài, thường được trồng làm rau ăn” [45;
104]. Ngoài nghĩa này, từ cói ở PNT còn chỉ lá dệt chiếu, đan võng [58; 46].
Trường hợp cây − cơn − cây cũng là biến thể ngữ âm của nhau. Ở đây
là biến thể phần vần: /ɤ �j/−/ɤ n/. Cả ba từ này giống nhau ở nghĩa: “thực vật
có rễ, thân, lá rõ rệt, hoặc vật có hình thù giống những thực vật có thân lá.
Cây tre. Cây nấm. [45; 28]. Ngoài ra, từ cây ở PNN còn chỉ “gỗ, phần thân
cây được dùng làm vật liệu. Mấy cái tủ cây này cũng mấy mươi năm rồi chớ ít
gì nữa, vậy mà cũng còn tốt. [62; 280].
Trường hợp lúa − ló − lúa cũng là biến thể ngữ âm của nhau - biến thể
phần vần. Cả ba từ này giống nhau ở nghĩa: “cây lương thực, thân cỏ rỗng,
hoa lưỡng tính, không có bao hoa, quả có vỏ trấu bao ngoài gọi là hạt thóc.
59
Ruộng lúa. Lúa mùa.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tvefile_2013_01_21_8110123554_2198_1869297.pdf