Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU .1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU
ĐỐI TƯỢNG.15
1.1. Tự truyện, hồi kí - tự truyện như là những loại hình diễn ngôn .15
1.1.1. Khái niệm hồi kí; tự truyện ; hồi kí - tự truyện .15
1.1.2. Phương pháp nghiên cứu loại hình và việc phân xuất các loại hình diễn
ngôn nghệ thuật.24
1.2. Diễn ngôn nghệ thuật và diễn ngôn tự truyện, diễn ngôn hồi kí - tự truyện .26
1.2.1. Một số hướng tiếp cận diễn ngôn và hướng tiếp cận của tác giả luận văn .27
1.2.2. Sự hội tụ cái tôi tác giả, chủ thể viết, chủ thể kể trong diễn ngôn tự truyện,
hồi kí - tự truyện .33
1.2.3. Đặc điểm nội dung, cảm hứng, thế giới nghệ thuật của tự truyện, hồi kí - tự
truyện từ góc nhìn diễn ngôn .38
1.2.4. Đặc điểm ngôn từ và phương thức thể hiện nội dung, cảm hứng của tự
truyện, hồi kí - tự truyện từ góc nhìn diễn ngôn.41
1.2.5. Sự chi phối của thời - không gian trong tự truyện, hồi kí - tự truyện đối với
văn bản nghệ thuật: nét đặc trưng thi pháp thể loại nổi bật.45
1.3. Tự truyện, hồi kí - tự truyện trong sáng tác của Nguyên Hồng, Hồ Dzếnh, TôHoài.47
1.3.1. Tự truyện, hồi kí - tự truyện của Nguyên Hồng.47
1.3.2. Tự truyện của Hồ Dzếnh .48
1.3.3. Tự truyện, hồi kí - tự truyện của Tô Hoài .50
Tiểu kết chương 1 .52Chương 2. MÃ NỘI DUNG DIỄN NGÔN TRONG TỰ TRUYỆN, HỒI KÍ - TỰ
TRUYỆN CỦA NGUYÊN HỒNG, HỒ DZẾNH, TÔ HOÀI .53
2.1. Diễn ngôn tự truyện, hồi kí - tự truyện – diễn ngôn về “sự thật” nhằm thỏa mãn
nhu cầu nhận thức về cá nhân.54
2.1.1. Suy ngẫm, đánh giá lại chính mình .54
2.1.2. Giải thích trình trạng hiện tồn của chủ thể kể .62
2.2. Diễn ngôn tự truyện, hồi kí - tự truyện như là diễn ngôn về “sự thật” nhằm thể
hiện cái nhìn hồi quang về thế giới dĩ vãng.67
2.2.1. Bức tranh thiên nhiên, bức tranh sinh hoạt, đời sống xã hội.68
2.2.2. Sự xuất hiện của con người như là tâm điểm của hoạt động hồi tưởng.75
2.3. Các yếu tố chi phối diễn ngôn về “sự thật” trong tự truyện, hồi kí - tự truyện của
Nguyên Hồng, Hồ Dzếnh, Tô Hoài .82
2.3.1. Hoàn cảnh lịch sử, xã hội chi phối hệ tư tưởng.82
2.3.2. Cái nhìn sắc tộc, ý thức cội nguồn .86
2.3.3. Dấu ấn của đức tin, tôn giáo.89
2.3.4. Cái nhìn nữ quyền .91
2.3.5. Thời điểm sáng tác .94
2.3.6. Tự tạo cơ hội đối thoại trực tiếp với bạn đọc .95
Tiểu kết chương 2 .97
Chương 3. MÃ NGHỆ THUẬT DIỄN NGÔN TRONG TỰ TRUYỆN, HỒI KÍ -
TỰ TRUYỆN CỦA NGUYÊN HỒNG, HỒ DZẾNH, TÔ HOÀI.98
3.1. Cấu trúc diễn ngôn của ý thức hồi tưởng .98
3.1.1. Kết hợp linh hoạt các phương thức trần thuật .98
3.1.2. Sự hòa phối điểm nhìn trong kiến tạo diễn ngôn .102
3.1.3. Kĩ thuật tăng tốc, giảm tốc, đảo thuật, dự thuật .106
3.2. Kĩ thuật tạo tác diễn ngôn trần thuật .112
3.2.1. Diễn ngôn của người kể chuyện.1123.2.2. Diễn ngôn nhân vật.116
3.2.3. Vị thế tiếng nói của cái tôi tự truyện và sự đan bện, hòa phối các lớp diễn
ngôn trong tự truyện, hồi kí - tự truyện của ba nhà văn .121
3.3. Xu hướng liên kết, tổng hợp và lấn át trong tương tác thể loại.126
3.3.1. Xu hướng tổng hợp hình thức tự sự cỡ nhỏ với tự sự cỡ lớn .126
3.3.2. Xu hướng liên kết, tổng hợp tự truyện với tiểu thuyết.128
3.3.3. Xu hướng tổng hợp và lấn át giữa tự truyện và hồi kí .131
3.3.4. Xu hướng xâm lấn, mở rộng của chất thơ .135
Tiểu kết chương 3 .138
KẾT LUẬN .139
TÀI LIỆU THAM KHẢO.142
157 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 602 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tự truyện, hồi kí - Tự truyện của Nguyên Hồng, Hồ Dzếnh, Tô Hoài từ góc nhìn diễn ngôn nghệ thuật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giới xung quanh. Chính vì lẽ đó, thế giới dĩ vãng được tái hiện luôn thấm đẫm những
cảm xúc chủ quan của chủ thể kể, những tình cảm, những yếu tố nội lực ấy đã chi phối
không nhỏ đến quá trình kiến tạo diễn ngôn của các nhà văn.
Trong tác phẩm của mình, Hồ Dzếnh không tái hiện quá khứ một cách khách
quan như nó vốn có. Thế giới dĩ vãng ấy đã được khúc xạ qua cái nhìn, cách cảm nhận
riêng và được lắng nghe bằng một trái tim đa cảm. Có thể nói, ông đã chiếm lĩnh hiện
thực thông qua cảm xúc chủ quan và được lọc qua trái tim nhân hậu giàu cảm xúc của
mình. Và, diễn ngôn hướng về thế giới dĩ vãng của Hồ Dzếnh luôn gắn với nỗi niềm
68
tiếc hận khôn khuây về một thế giới đã sụp đổ, một hiện thực đã đổi đời. Có thể nói,
cái nhìn thời gian đã chi phối mạnh mẽ nhất đối với diễn ngôn về quá khứ trong tự
truyện của Hồ Dzếnh. Đối diện với hiện tại đã thay đổi quá nhiều ấy, ngòi bút của ông
hướng về quá khứ với một sự tiếc nuối vô bờ bến.
Với Tô Hoài, Phong Lê từng nhận xét: “ông mở rộng tầm mắt cho tất cả sự thật
ùa vào, kể cả những sự thật tưởng chỉ có thể “đào sâu chôn chặt... Sự thật đó Tô Hoài
trang trải như một món nợ đời, nợ lòng; ông không đành và chúng ta càng không
muốn “sống để dạ chết mang theo”. Sự thật đó cần cho chúng ta, càng cần cho hậu
thế” [49, tr.179]. Thế giới dĩ vãng của Tô Hoài là thế giới của những sự thật, bên cạnh
những câu chuyện đời thường còn là những kỉ niệm ghi dấu, chôn chặt trong lòng nhà
văn mà chỉ bằng cách viết tự truyện, hồi kí - tự truyện, ông mới có thể sẻ chia với
người đọc, coi như khỏa lấp những chỗ còn thiếu trong hiểu biết của họ, đồng thời để
trải lòng mình tìm về chút thanh thản, tin yêu.
Với Nguyên Hồng, trên một “mảnh ruộng” hồi ức sẵn có ấy, ông đã “canh tác”
nó theo cách của mình. Nhà văn không hề tái hiện lại quá khứ ấy một cách biên niên
các sự kiện đã diễn ra mà chỉ lẩy ra trong đó những điểm chính yếu, sinh động nhất để
dựng lại linh khí thời quá vãng. Chính bản thân nhà văn cũng đã chủ định : “Viết để tự
giải thoát mình ra khỏi tất cả những ám ảnh nặng nề, những oán hờn cay đắng và cả
những âu yếm xót thương quằn quại đang cứa vào lòng mình như bấy nhiêu mũi dao
sắc nhọn” [56, tr.43].
Mỗi người, với một cuộc đời riêng, một cách viết riêng, ắt hẳn sẽ cho ra những
tác phẩm tự truyện, hồi kí - tự truyện khác nhau.
2.2.1. Bức tranh thiên nhiên, bức tranh sinh hoạt, đời sống xã hội
Hồi tưởng để được sống lại những năm tháng tuổi thơ
Thế giới tuổi thơ trong trẻo, hồn nhiên, vô âu vô lo luôn là một nơi mà sau những
mệt mỏi, chán chường, hay thậm chí sau những trải nghiệm của tuổi tác, con người ta
có xu hướng muốn quay về. Tuổi thơ ấy dù có đi liền với những đau thương, mất mát
nhưng luôn chứa đựng những khoảnh khắc thần tiên kì diệu của tuổi nhỏ. Cái nhìn
69
cùng với những cảm xúc của trẻ thơ là những cái mà người ta sẽ không bao giờ có lại
được.
Cu Bưởi trong tác phẩm Cỏ dại từ nhỏ đã phải lang thang một mình, cuộc sống
gắn kết với tuổi thơ của cậu nhiều nhất là cảnh vật trong khu vườn ông bà ngoại. Khi
miêu tả khu vườn này, tác giả đã dùng lối trần thuật từ quan điểm trẻ thơ – một trong
những sở tài của Tô Hoài – để cảm nhận: “cây na, cây lựu, một cây cam sành, cây
hồng quả, cây ổi lớn chi chít cành. Giữa có cây ngọc lanvườn sau cũng rất nhiều
cây. Khế, bưởi. Thêm một bụi chuối tây, một khóm táo xanh phủ kín cả một phía ao
trước – một chuôm nước nhỏ xíu. Ông tôi bảo, nếu lấp cái ao nước ấy, cả xóm sẽ bị
độngVà hết thảy một khoảng vườn sau đó, tôi đặt tên là Sơ Bách Thú. Sở Bách Thú
của tôi” [34, tr.5]. Với Tô Hoài, thiên nhiên – cụ thể là khung cảnh của làng Nghĩa Đô
hiện ra thật đẹp và sinh động, cái nhìn của nhà văn về bức tranh ấy cũng thấm đẫm
những cảm xúc tuổi thơ: “Hương sen thơm suốt quãng đường hai bên hồ. Những chiếc
lá sen tròn đồng tiền, mơn mởn nghển lên khỏi mặt nước. Chúng tôi lội xuống hái
những nụ mới nhú bằng ngón tay. Nụ sen ăn ngòn ngọt. Rồi trải lá sen lên bờ cỏ,
chúng tôi nằm ngủ dưới gốc đa trong gió hồ buổi trưa hây hẩy bát ngát” [34].
Hồi tưởng để thể hiện lòng biết ơn sâu sắc
Trong dòng hồi tưởng về quá khứ, Hồ Dzếnh dành không nhiều dung lượng diễn
ngôn dành cho thiên nhiên. Thiên nhiên chỉ xuất hiện vài lần trong tác phẩm, gắn với
một nhân vật nào đó nhưng mỗi lần xuất hiện nó đều gắn với một ấn tượng độc đáo.
Bức tranh ấy có khi trong sáng tươi vui, nhưng cũng không hiếm khi buồn hiu hắt.
Nhưng dù vui hay buồn, ông đều viết về quê hương với tất cả lòng yêu thương và biết
ơn sâu sắc đối với mảnh đất đã cưu mang, đùm bọc mình. Chính tình cảm chân thành
ấy đã trở thành nguồn cội cho cảm hứng nghệ thuật của nhà văn, ông đã say sưa viết
về quê hương, chân thành bày tỏ tấm lòng với mảnh đất nghĩa tình.
Đó là mảnh đất quê Ngoại - Thanh Hóa – mảnh đất chôn nhau cắt rốn và gắn liền
với những kỉ niệm tuổi thơ ông: “ Một cánh đồng cỏ xanh mượt nằm ngủ dưới chân
đồi, mới ba giờ chiều đã mờ, vì bóng núi che khuất mặt trời đổ lên đó. Chúng tôi thả
trâu cho tự do ăn cỏ, lòng thanh thản dưới một bầu trời sáng đẹp Chúng tôi đánh
70
trâu bò lên đồi vào lúc mờ sáng, và trở về nhà khi nắng vàng chỉ còn nửa đốt ngón tay
trên đầu bụi trúc” [13, tr.77].
Với Nguyên Hồng, hồi tưởng về Hải Phòng - mảnh đất cần lao mình đã sống và
trưởng thành, ông cũng viết với một niềm biết ơn vô bờ bến. Trong hồi kí - tự truyện
Những nhân vật ấy đã sống với tôi, ông đã thốt ra những lời hào sảng đầy thương yêu
và biết ơn: “Yêu thương bao nhiêu Hải Phòng ngàn xưa và ngàn sau. Hải Phòng thân
thiết cật ruột vô cùng của cuộc đời tôi, của ngòi bút tôi” [37, tr.272]. Ông còn thể hiện
niềm biết ơn sâu sắc đối với Gorky vì những điều mà ông làm cho chúng ta: “Xin biết
ơn Gorky! Biết ơn và quý trọng và yêu thương vô cùng những dòng chữ với một nốt
nhạc tuyệt vời của Gorky Gorky, đã đỡ đẻ cho một cuộc sống. Và Gorky đã rửa tội
Tổ tông truyền cho một cuộc sống” [37, tr.27], hay đó là niềm biết ơn sâu sắc với bạn
đọc đã nhắc nhở và truyền ngọn lửa yêu nghề cho ông: “Xin biết ơn cả con gái và cháu
gái bạn đọc, đã đòi hỏi tôi một tinh thần trách nhiệm nghiêm khắc trong sự sáng
tác” [37, tr.148].
Hồi tưởng để tìm điểm tựa tinh thần, bày tỏ những luyến tiếc về những thanh
âm “hồn Việt” còn sót lại
Xu hướng tìm về thiên nhiên như một điểm tựa tinh thần không có gì xa lạ trong
văn học Việt Nam, đặc biệt là vào thời kì đêm đen của xã hội trước cách mạng tháng
Tám. Hồ Dzếnh và Tô Hoài cũng vậy, trong diễn ngôn tự truyện, hồi kí - tự truyện của
hai tác giả này luôn có những câu văn phảng phất một hồn quê, một tình quê Việt. Từ
tên đất, tên làng, từ những cảnh vật quen thuộc của quê hương, tất cả như lắng đọng
trong tâm hồn của họ, sâu sắc đến nỗi chỉ cần hồi tưởng lại, những cảnh vật ấy nhanh
chóng hiện lên sinh động, gợi cảm, thấm đượm tình cảm của chủ thể hồi tưởng: “Trời
thôn quê xanh ra, cao lên, soạn sửa đón ba ngày của mọt mùa thái bình, thịnh vượng.
Gió trong ruộng đã thoáng lẫn hương xuân, và trong khi tắm biếc thêm lũy tre mườn
mượt nhung, đã làm rớm chảy sự tươi thơm trong những tấm lòng trai trẻ. Trăm nghìn
lần dò hỏi nỗi thanh tịnh của dòng sông, điệu hiền hòa của chim gió, tôi cảm nghĩ đến
những tiếng pháo sắp sửa cười vang để rồi, bất thần, ngừng bước chân, tôi đưa tay
viết lên không gian cái chữ con con, xinh xinh, mà tâm hồn tôi đã nhiều lần nhắc đến:
71
Tết!” [13, tr.172] Thiên nhiên tạo vật dưới con mắt của Hồ Dzếnh không chỉ thấm
đượm hồn quê, tình quê mà còn thơ mộng như chính tâm hồn của tác giả, chúng được
vẽ bằng những nét chấm phá giàu sức gợi, sức liên tưởng, và dường như “ông đã đem
tâm hồn ướt như sương sớm khoác lên cảnh vật quê hương. Vì thế mà dưới trang viết
của ông, hình như đất cũng mờ ảo hơn, cỏ vì thế xanh hơn, hoa thắm hơn và gió
hình như cũng mát mẻ hơn” [58, tr.137]. Mảnh đất Thanh Hóa gắn bó sâu sắc với tuổi
thơ ông hiện lên một vẻ đẹp thơ mộng, nơi đó cất giấu bao nỗi niềm chung riêng của
tác giả và nơi đó cũng điển hình cho vẻ đẹp quê hương Việt Nam với những “lũy tre
xanh vây kín xã Hòa Trường êm ái”, với “mảnh vườn đầy nắng gió thứ gió hiền hòa
nhẹ nhàng như phe phẩy ngọn cau, giậu hoa râm bụt”, trong cái “ánh nắng chiều
nghiêng xế và những bóng lá lung linh”, với cảnh hoàng hôn quen thuộc “nắng tắt dần
dần chỉ còn ánh vàng pha sắc tím”,
Cái hồn quê, tình quê tha thiết, vương vấn với mảnh đất ruột thịt của mình cũng
được thể hiện qua cái nhìn hồi cố tinh tế và tỉ mỉ của Tô Hoài trong Cỏ dại: “Tôi đã
ngửi được mùi đất quen thuộc. Quen thuộc lắm, chỉ thoáng qua là biết sắp về tới quê.
Ờ, mà lạ. Không bao giờ tôi biết phân biệt được rõ ràng cái hương vị phảng phất kì dị
ấy. Nó thoang thoảng trong cánh đồng hoặc vẩn vơ trong rặng ô rô xanh rì. Tưởng
như đấy là mùi cỏ khô, mùi đất ải, mùi khói rơm bếp. Không phải. Đích thị nó là mùi
lá muỗm nấu lẫn với lá vối, mùi rau nhày mùi lá trang, mùi lá cải, mùi có bồ mùng,
mùi mái rạ chuồng bò. Cơ chừng chẳng rõ ràng mùi gì. Nó là tất cả, từ mùi tóc hôi
trên đầu đứa trẻ cho tới mùi nõn cỏ gấu đắng mới nở hương đồng cỏ nội hòa vào
nhau, bốc trên một miền quê. Cái mùi quê đặc biệt, mỗi khi về gần đến làng, là
thoảng biết” [35, tr.33]. Ở đây, Tô Hoài đã bộc lộ tài năng đặc biệt không chỉ ở việc
miêu tả những hình ảnh thị giác mà còn ở việc diễn tả những cảm giác mơ hồ, trừu
tượng của khướu giác, cảm giác. Đây cũng chính là đặc sắc trong nghệ thuật của ông.
Cái hồn quê, tình quê như thấm đượm trong con mắt quan sát của Tô Hoài, điều này đã
chi phối diễn ngôn hồi tưởng của ông về hình ảnh sinh hoạt của một người nông dân
thôn quê Việt Nam trong Chiều chiều: “Ông Ngãi đã chùi tay vào mỏm cọc cầu ao rồi
lên tựa lưng vào bụi tre. Quanh đấy, lỉnh kỉnh đống điếu cày, ấm nước, mấy mẩu gốc
cây làm ghế cạnh cái bát đàn, như bàn uống nước ngồi chơi ngay bờ ao” [36, tr. 42].
72
Nỗi luyến tiếc của Tô Hoài còn được thể hiện qua bức tranh sinh hoạt làng quê
mang đậm chất truyền thống với hình ảnh của mẹ: “U tôi đi chân đất, thắt lưng nhiễu
tam giang ra ngài. Trên đầu kềnh càng chiếc nón kẻ Chuông tròn vành. Nách u tôi cắp
thúng” [34, tr.15], hay sự xuất hiện của những nghề quen thuộc trong đời sống bình
dân xưa: người bán kẹo xóc, người thu mua sách cũ, Chất phong tục dày đặc trong
tác phẩm, phảng phất vào những bức tranh thiên nhiên, sinh hoạt là một nét đặc sắc
trong sáng tác của Tô Hoài. Đồng thời, việc hồi tưởng và tái hiện lại những bức tranh
phong tục đậm đà ấy vừa thể hiện lòng yêu quê hương, vừa là một sự luyến tiếc đối
với những giá trị cũ đã trôi qua không bao giờ trở lại.
Hồi tưởng để xót xa cho một thời kì ảm đạm, đối diện với những sự thật lịch sử
Thế giới dĩ vãng ngoài những tươi vui, trong trẻo, ngoài những ký ức đẹp còn có
những mảng tối, những nốt trầm ảm đạm, những sự thật đau lòng mà khi nhớ lại, các
nhà văn thường không khỏi xót xa.
Trong cái nhìn điềm tính chân thực của Tô Hoài, vùng quê ngoại ô Hà Nội của
ông hiện ra lầm lụi, buồn tủi. Một Hà Nội nhếch nhác với những chân dung lam lũ,
nhàu nhĩ. Nhớ lại quá khứ với những mảng ghép buồn, trong cái cũ kỹ, lạc hậu, buồn
tẻ, nghèo nàn, tù túng của làng quê Việt Nam những năm trước cách mạng, Tô Hoài đã
không thôi xót xa “Cuộc sống còm cõi của làng ngoại tôi chỉ loanh quanh cả đời trong
làng. Đàn bà, trẻ con đưa võng kẽo kẹt bên khung cửi mọt. Không mấy ai đi ra ngoài”
[33]. Bức tranh ấy nhuốm màu buồn thương, xót xa bởi cái nhìn của chủ thể kể, cảnh
sống cùng quẩn của con người được ví với “cuộc sống trong ao mà những con chẫu
chàng thỉnh thoảng ngoi lên mặt nước, đờ đẫn nhìn theo mấy cái bọt mà mình vừa
thở” [33]. Hồi tưởng lại cảnh tượng đau lòng ấy, Tô Hoài vừa chia sẻ với bạn đọc về
một trong những năm tháng đen tối nhất của xã hội Việt Nam vừa thể hiện một tấm
lòng thương xót, một nỗi ám ảnh không thể nào quên.
Với hồi kí - tự truyện Chiều chiều, Tô Hoài đã cho người đọc thấy được những
mảng tối sau những sự kiện cải cách ruộng đất của nhà nước và cả những chuyến đi
thực tế của văn nghệ sĩ thời bấy giờ. Về sự kiện cải cách ruộng đất, Tô Hoài thẳng thắn
chỉ ra đó là một “sự bắt chước kì quặc”, để rồi đứng trước những báo cáo nặng về hình
73
thức, những người tham gia vào phong trào này đôi lúc đã phải “trí trá, nói dối mới
sản ra các báo cáo kịp được” [36, tr.34]. Với kế hoạch xây dựng hợp tác xã, nhiều nơi
đã chạy đua tranh giành thành tích, khi không thể tranh giành bằng thực lực thì vội
vàng “thổi lên những cái bong bóng hợp tác xã điển hình”, dẫn đến việc “cảnh báo
cáo phấn khởi ăn gian nói dối tràn lan” [36, tr.168]. Nhưng đến khi được tuyên
dương, được tiếng tăm, các nơi, các đoàn kéo nhau về tham quan học tập kinh nghiệm
thì họ lại phải nghĩ ra trò mẹo để trốn thành tích, để che giấu đi cái “ruột rỗng” thật sự
bên trong. Chiêu trò của họ là “theo nhau báo cáo năng suất đuối, không đạt mức thi
đua... Các anh điển hình cũng co lại. Chẳng biết đâu thật, đâu vờ...” [36, tr.168]. Đó
còn là sự thật về những lỗi lầm trong sự kiện cải cách ruộng đất 1953-1956 với những
sai lầm đáng tiếc một thời: “Người chỉ có miếng ruộng loại riêng ra mà chẳng có
ruộng đất nhưng bị tố là có tội ác với nông dân thì gọi là tên cường hào cá biệt”
[36, tr. 36].
Không khí ảm đạm ấy còn thể hiện ở sự hồi tưởng của tác giả về cảnh sống của
người dân Việt Nam trong thời kỳ khó khăn khắc nghiệt, trong bầu không khí ngột
ngạt của chiến tranh những năm chống chiến tranh phá hoại ở miền Bắc trong Cát bụi
chân ai: “Các cửa hàng, phiếu thịt chỉ bán mỡ - mà họa hoằn mới có. Người đổ ra
đường, suốt ngày nháo nhác sắp hàng, xếp hàng mua từ mớ rau đay. Bom đánh trên
đầu, dưới đất thì kéo hàng dài người mua bán thế này, biết sẽ ra sao” [35, tr.264].
Cái nhìn chân thực, khách quan đã khiến Tô Hoài nói lên sự thật về sự kiện Nhân
văn Giai phẩm: “ Báo Nhân văn chỉ là một phần bề ngoài và là một thủ thuật chính
trị dựa vào “trăm hoa đua nở” Chiến thuật thâm hiểm ấy đã gây nên cách nhìn lẫn
lộn số đông tác giả với lòng chân thành ở mỗi người và ở tổ chức” [35, tr.66]. Lý
Hoài Thu đã nhận xét về tác giả Tô Hoài “ với một cái nhìn tỉnh táo điềm đạm – đã
nhìn nhận lại “Nhân văn – Giai phẩm” và những vấn đề văn chương phức tạp một
thời với tất cả tính thời sự và cả tính bi kịch của nó. Bằng sức mạnh của hồi tưởng,
nhà văn đã mạnh dạn, thẳng thắn nói ra những “chuyện buồn quá khứ”, những “ấu
trĩ trong quan niệm văn học và chính trị một thời”, giúp người đọc có được một hình
74
dung và nhận thức “tường minh hơn về lịch sử văn học nước nhà những năm tháng
đầy biến động”3F4
Không khí ảm đạm còn xuất hiện trong đời sống văn học như cuộc chỉnh huấn
1958. Hồi tưởng lại sự kiện nhạy cảm này, Tô Hoài vừa cho người đọc hình dung về
một giai đoạn lịch sử hiện lên đầy những ấu trĩ vừa thể hiện cái nhìn xót xa: “Đến lượt
ai cũng cứ phải suốt cả buổi ngồi nghe chịu trận nghe nói xa xả, vi vút... Khổ một nỗi,
có người nghe phê bình, cứ tiếp tục thút thít, còn minh họa cho lỗi mình cho to ra thêm
nữa. Thế mà cũng không được tin, lại bị tố cáo là hời hợt, trốn đấu tranh. Có người
bỗng thật thấy mình sai, nhận ngay cũng bị cho là nông cạn, con vẹt, thiếu đào sâu suy
nghĩ Tôi dự các cuộc chỉnh huấn đã nhiều, có người lo quá cả tháng không chợp
mắt, như ở báo Cứu quốc có cậu còn trẻ đã vào rừng thắt cổ” [35, tr.114-115].
Trong tự truyện, hồi kí - tự truyện của mình, dù không nhiều như Tô Hoài nhưng
Nguyên Hồng cũng đã thể hiện nỗi xót xa cho một quá khứ ảm đạm. Nói đến Nguyên
Hồng là người ta nhớ đến vùng đất cảng Hải Phòng. Đây không phải là nơi tác giả sinh
ra nhưng là nơi tác giả trưởng thành và sinh sống trong nhiều năm, là nơi tác giả chứng
kiến những mảnh đời bất hạnh của tầng lớp công nhân của những xí nghiệp ở một
trong những thành phố công nghiệp sầm uất nhất Việt Nam bấy giờ. Hồi tưởng lại
không khí, cảnh sống của Hải Phòng trong những năm tháng trước cách mạng tháng
Tám, khi thực dân Pháp thua trận, phát xít Nhật tràn vào, Nguyên Hồng không thôi ám
ảnh về một Hải Phòng “thối nát, đen tối, ngang ngược, hung bạo”. Đó là thời kì mà
thành phố ấy bỗng chốc trở nên lặng lẽ, bến tàu sầm uất ngày nào giờ đây “mỗi phiên
chỉ còn một hai chiếc chạy ọp à ọp ẹp”, “khách đi cũng ít”, “các khu nhà máy dường
như bỏ hoang”, “những phố buôn bán đông nhất tối đến cũng vắng tanh”, “đèn
phòng thủ xanh mờ, đèn các cửa hàng không có hàng và không có người mua lại càng
trơ trụi, vàng vọt” [37, tr.154-155], các vườn hoa, quãng đường tối tăm,... Thợ thuyền
thì thất nghiệp, nghèo túng cùng kiệt, dân ở nhà quê thì càng đói rách kiệt cùng. Tất cả
đều gợi nhớ đến một thời kì đen tối, u ám của xã hội Việt Nam nói chung và Hải
Phòng nói riêng trong những năm trước cách mạng tháng Tám.
4 Xem thêm, Lý Hoài Thu (2008), “Hồi kí và bút kí thời kì đổi mới”, Tạp chí nghiên cứu lý luận, phê bình và
lịch sử văn học, số 10, tr. 80.
75
2.2.2. Sự xuất hiện của con người như là tâm điểm của hoạt động hồi tưởng
Ở đây, chúng tôi không đi tìm hiểu hình ảnh những người thân, người bạn,
trong sáng tác của ba nhà văn đã xuất hiện như thế nào, mang dáng vẻ, tính cách gì
như nhiều công trình nghiên cứu đã làm mà đi tìm hiểu cái nhìn của chủ thể kể khi hồi
tưởng về họ đã mang những đặc điểm gì chi phối đến diễn ngôn. Tự truyện, hồi kí - tự
truyện yêu cầu nhà văn phải luôn giữ con mắt trung thực, viết không phải là để tô hồng
kỉ niệm, không phải để khoe mình, để nịnh người hay để báo công mà là viết để chia
sẻ, để giãi bày.
2.2.2.1. Về những người thân
Hồi tưởng để luyến tiếc về khoảng thời gian đã mất
Có thể nói, tập Chân trời cũ là một tập truyện mà ở đó, tầng tầng lớp lớp dĩ vãng
cứ chồng chất lên nhau. Tác giả khi kiến tạo diễn ngôn tự truyện là đang hồi tưởng về
quá khứ - khoảng thời gian mà tác giả từng sống và chứng kiến để tái hiện lại cho
người đọc. Đến đó, chủ thể kể cùng với nhân vật lại tiếp tục hồi tưởng về dĩ vãng mà
họ đã trải qua, trong đó có những quá khứ của những nhân vật khác mà chủ thể kể chỉ
nghe kể lại chứ không hề trực tiếp chứng kiến và trải qua. Cứ như thế, tiếp xúc với tác
phẩm, người đọc có cảm tưởng bản thân cứ chìm mãi vào quá khứ vô tận của người kể
và các nhân vật. Nhưng chung quy lại, quá khứ ấy ngập tràn những day dứt, nuối tiếc,
xót xa “Ngày xưa không bao giờ về. Vì hỡi ơi! Ngày xưa đi là mất!” [13, tr.174]
Khung cảnh thường gặp trong Chân trời cũ là một thế giới tiêu điều, suy vi sau
một thời vàng son ngắn ngủi. Một gia đình lưu lạc đã bị thổi bay tan tác, li tán trong
cơn lốc phũ phàng của số phận. Tất cả những người tác giả yêu thương, người thì đã
qua đời, kẻ thì tha phương cầu thực không biết ở phương trời nào. Có thể nói, thế giới
dĩ vãng mà tác giả muốn tái hiện lại nhuốm màu ly tan, đổ nát. Có ly tan, đổ nát thì
trước đó phải là những khoảng lặng bình yên, những khoảnh khắc hạnh phúc, đáng
nhớ cùng người thân, gia đình. Hồi tưởng lại cũng là một hành động để tưởng nhớ về
những phút giây hiếm hoi ấy. Đó là kí ức thân thương về một người mẹ đã hết lòng
chăm lo cho con, chấp nhận mọi thị phi để mang đến cho con mình sự yêu thương tròn
đầy nhất. Đó là kí ức về một người chị dâu, người chị nuôi hiền hoà, chịu đựng, luôn
76
dành những gì tốt đẹp nhất cho em mình và chấp nhận mất mát, đau thương. Đó còn là
kí ức về những tình cảm ruột thịt, ấm áp với người anh hai, một người rất yêu em dù
hoàn cảnh sống gặp nhiều ngang trái,... Nhớ về họ, Hồ Dzếnh như muốn sống lại - một
lần nữa - trong cái khoảnh khắc yêu thương diệu vợi mà những người thân đã dành cho
mình.
Những năm tháng sống trong tình thương yêu của gia đình cũng là một ngọn
nguồn cảm hứng vô tận để Tô Hoài và Nguyên Hồng hồi tưởng lại. Với Tô Hoài đó là
để được sống lại một lần nữa trong tình yêu thương của bà, của mẹ, của các dì; được
một lần nữa được nắm tay mẹ đi dọc các con đường ruộng về thăm quê cha; được một
lần nữa bà ngoại dắt tay đi học và ngồi chờ trong những ngày đầu xa lạ;... Đối với
Nguyên Hồng, hồi tưởng lại là để một lần nữa được ấp mình trong lòng mẹ, để tận
hưởng sự ấm áp từ mẹ, để được sung sướng vỡ oà sau những ngày thiếu vắng tình
thương của mẹ,... Có thể nói, dĩ vãng ngập tràn tình thương yêu đẹp đẽ ấy vừa đè nặng
lên hiện tại phũ phàng tủi cực như một phản đề xót xa, lại vừa có tác dụng soi sáng lên
hiện tại như một điểm tựa tâm hồn để họ cố gắng sống, cố gắng chịu đựng và nhen
nhóm hy vọng về tương lai.
Hồi tưởng để thể hiện sự thương xót, lòng biết ơn của mình
Thế giới nhân vật trong hồi tưởng của tác giả được nhìn từ hai phía: một phía là
chân dung cùng với kiếp đời thật của họ, như họ đã và đang sống ngoài đời, còn một
phía là chân dung của họ được khúc xạ qua cảm xúc và trí nhớ của chủ thể kể.
Ấn tượng mạnh mẽ nhất của con người khi nhớ về quá khứ với những người thân
yêu có lẽ là ấn tượng về mẹ. Giống như trẻ con khi khóc vì đau thường kêu mẹ, người
lớn, khi lâm vào những hoàn cảnh khó khăn buộc phải tìm kiếm một điểm tựa tâm
hồn, người ta cũng thường tìm đến mẹ. Thoát ly hiện tại, tìm về quá khứ xa xưa, hình
ảnh người mẹ càng trở nên gần gũi. Người mẹ nào trong tâm tưởng của những đứa con
đều mang vẻ đẹp của sự đảm đang, chu đáo, vun vén cho gia đình, và đặc biệt hết lòng
hy sinh vì con cái. Sự hy sinh ấy đã khiến cho hình tượng người mẹ hầu hết trong các
sáng tác đều đi liền với nỗi khổ đau. Chính vì lẽ đó, hồi tưởng về mẹ, các nhà văn
thường mang một cái nhìn thương xót. Điều này cũng chi phối không nhỏ đến sự kiến
77
tạo diễn ngôn về mẹ. Chẳng hạn khi Tô Hoài viết về mẹ :“Cái bóng lầm lũi, hòa với
bóng tối, vẽ nên một khuôn mặt trăng trắng với đôi mắt nhỏ lòng đen nhuộm một màu
nâu đồng. Cái bóng mơ hồ bên cạnh lớp lớp những ngậm ngùi, những thắc thỏm đợi
chờ dài dặc trong ngấn nước mắt và tiếng thở dài” [40]. Lúc này, ngoại hình của
mẹ được tác giả miêu tả không chỉ là đường nét mà còn là thần thái, không còn là một
dáng vẻ khách quan mà đã được nhìn bởi cái nhìn thương xót của người con trong hiện
tại khi nhớ về những khổ đau mà mẹ đã trải qua. “Cái bóng lầm lũi” ấy là gì nếu
không phải là những lam lũ, vất vả của mẹ đã oằn lên dáng vẻ? “Đôi mắt màu nâu
đồng” ấy là gì nếu không phải là những tháng ngày khắc khoải, ngóng vọng, chờ mong
đã nhuốm màu?
Đối với Nguyên Hồng, ngay từ buổi đầu cầm bút ông đã xác định: “Tôi sễ viết về
những cảnh đói khổ, về những áp bức, về những trái ngược bất công. Tôi sẽ đứng về
phía những con người bị lầm lạc, bị đày đọa, bị lăng nhục” [28, tr.231]. Cảm quan xót
thương đã chi phối cái nhìn của Nguyên Hồng về những người thân. Họ, được ông tái
hiện lại với những nỗi đau khổ, bất hạnh. Chính vì lẽ đó, trong diễn ngôn tự truyện, hồi
kí - tự truyện của mình, Nguyên Hồng đã sử dụng ở mức độ cao những từ ngữ, câu văn
giàu sắc thái biểu cảm, bộc lộ trực tiếp nỗi xót xa đau đớn trước những cảnh ngộ đáng
thương. Chẳng hạn những từ: xót thương, đau xót, xót xa, chua xót, đau đớn, đau tủi,
tiếc thương, có mặt ở nhiều trang viết về chính mình và về cả những người thương
yêu.
Diễn ngôn về người thân – những người mà tác giả thương yêu còn được tạo nên
bởi cái nhìn biết ơn sâu sắc. Người bà, đối với Tô Hoài, là một kí ức dịu dàng và thân
thương. Nhớ tới bà, ông nhớ ngay đến một kỉ niệm mà ông không thể nào quên: kỉ
niệm bà đưa đi học. Người bà ấy đã kiễn nhẫn đưa cháu đi học, ngồi cạnh cháu cho
đến giờ ra về suốt nửa tháng để cháu quen trường, quen lớp. Bằng kiểu câu nhắc đi
nhắc lại thời gian “Buổi học chiềuHôm sau lại những hôm sau nữa, sau nữa Mỗi
sáng Cái lệ ấy kéo dài đến nửa tháng” [33], Tô Hoài đã cho người đọc cảm nhận
thấy sự trân trọng, biết ơn sâu sắc của ông đối với bà.
78
Sự biết ơn đó còn bắt gặp trong diễn ngôn về người thân của Hồ Dzếnh. Với cảm
quan của người chịu ơn, ông luôn cảm thấy mọi người đã đau đớn, hy sinh vì mình.
Đó là ký ức về mẹ, vì phải kiếm tiền cho con nộp học, đã chấp nhận những lời lẽ xỉa
xói của em dâu, kí ức ấy dù gắn liền với bao cảm xúc hỗn mang nhưng tha thiết nhất
đó là sự thương xót và lòng biết ơn thành kính nhất. Đó còn là hồi ức về người chị dâu
mà tác giả đã thể hiện lòng biết ơn ấy một cách trực tiếp: “chị đã biếu em một thứ quà
quý nhất, một tấm lòng thương người, một chân tình xúng đáng” [13, tr.41].
Hồi tưởng để thông cảm, tha thứ
Trong cái nhìn của người viết tự truyện, hồi kí - tự truyện, con người trưởng
thành – con người tạm tách mình khỏi dĩ vãng xưa, với bao năm tháng buồn vui sướng
khổ ở đời – chắc hẳn luôn ẩn chứa vẻ điềm tĩnh và thông cảm, vị tha. Tuổi tác cùng
với những trải nghiệm sẽ khiến con người ta có một cái nhìn bao dung hơn về quá khứ.
Hồ Dzếnh cũng vậy, ở tuổi 20, khi nhìn lại quá khứ, ông đã hiểu “thế nào là tha thứ”
[13, tr.124]. Ông đã đủ hiểu biết để thông cảm cho hành động của mẹ: “Mẹ tôi, nói
đúng ra không phải là người ác. Sự cần cù có từ khi lấy ba tôi và cái thành kiến xấu xa
về mẹ chồng nàng dâu nuôi ngấm ngầm trong nhữn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tvefile_2015_02_03_3776791707_0435_1872776.pdf