Luận văn Ứng dụng mô hình thủy lực một và hai chiều kết hợp hdm xây dựng bản đồ ngập lụt hạ lưu sông Cái Nha Trang

MỞ ĐẦU Trang

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ XÂY DỰNG BẢN ĐỒ NGẬP LỤT . 9

1.1 KHÁI NIỆM NGẬP LỤT . 9

1.1.1 Khái niềm về ngập lụt . 9

1.1.2 Mục đích xây dựng bản đồ ngập lụt 10

1.1.3 Nguyên nhân và đặc điểm ngập lụt hạ lưu sông Cái Nha Trang 10

1.2 GIỚI THIỆU MỘT SỐ CÔNG CỤ XÂY DỰNG BẢN ĐỒ

NGẬP LỤT

12

1.2.1 Mô hình HDM 12

1.2.2 Phần mềm MIKE FLOOD WATCH . 13

1.2.3 Mô hình MIKE FLOOD . 14

1.2.4 Mô hình NK-GIAS . 16

1.3 LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI 17

CHƯƠNG 2: ĐIỀU KIỆN ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ XÃ

HỘI LƯU VỰC SÔNG CÁI NHA TRANG .

19

2.1 ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN . 19

2.1.1 Vị trí địa lý . 19

2.1.2 Địa hình . 19

2.1.3 Đặc điểm địa chất, thổ nhưỡng, lớp phủ thực vật . 21

2.1.4 Đặc điểm khí hậu, thủy văn . 22

2.2. ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - XÃ HỘI . 25

2.2.1. Tình hình kinh tế . 25

2.2.2. Tình hình xã hội 26

CHƯƠNG 3: CƠ SỞ LÝ THUYẾT MÔ HÌNH HDM 27

3.1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT . 27

3.1.1 Mô hình một chiều trong sông . 28

3.1.2 Mô hình hai chiều trong vùng ngập . 30

3.1.3 Ghép nối mô hình một chiều và hai chiều . 31

pdf80 trang | Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 656 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Ứng dụng mô hình thủy lực một và hai chiều kết hợp hdm xây dựng bản đồ ngập lụt hạ lưu sông Cái Nha Trang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và chế biến thủy sản, sản xuất vật liệu xây dựng [5]. 2.2.2. Tình hình xã hội * Dân số: Theo số liệu niên giám thống kê tỉnh Khánh Hoà năm 2009 dân số trên lưu vực sông Cái Nha Trang là 552060 người (trong đó nam là 271602 người chiếm 49,2%, nữ là 280458 người chiếm 50,8%). Dân số ở thành thị là 317496 người chiếm 57,5%, nông thôn là 234564 người chiếm 42,5%; nơi có mật độ dân số cao nhất là Thành phố Nha Trang với 1540 người/km2. * Giáo dục : Trên lưu vực sông Cái Nha Trang có 82 trường tiểu học, chiếm 25,6% so với toàn tỉnh; 37 trường trung học cơ sở, chiếm 37%; 14 trường trung học phổ thông, chiếm 50%. Giáo viên tiểu học là 2010, chiếm 42,4% so với toàn tỉnh; 1756 giáo viên trung học cơ sở, chiếm 41,8%; 873 giáo viên trung học phổ thông, chiếm 47,9%. Trên lưu vực có 5 trường đại học, 3 trường cao đẳng, tập trung ở thành phố Nha Trang. * Y tế : Tổng số giường bệnh các huyện, thành phố trên lưu vực sông Cái Nha Trang là 1941, chiếm 64,5% so với toàn tỉnh, có 410 bác sĩ (chiếm 68,8%), 399 y sĩ (chiếm 60,1%), 600 y tá (chiếm 64,2%), 20 dược sĩ cao cấp (chiếm 76,9%), 124 dược sĩ trung cấp (chiếm 76%), 39 dược tá (chiếm 52%) [1].  27 CHƯƠNG 3 CƠ SỞ LÝ THUYẾT MÔ HÌNH HDM 3.1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT Đây là mô hình có nguồn gốc từ Hoa Kỳ, được Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn & Môi trường Hà Nội cải tiến để dễ sử dụng, phù hợp với điều kiện của Việt Nam và tích hợp thêm các công cụ tính toán. Điển hình là đã ứng dụng thành công cho nhiều đề tài như đề tài cấp nhà nước về diễn toán ngập lụt hạ lưu hồ Hòa Bình khi hệ thống hồ Sơn La - Hòa Bình bị vỡ đập, đề tài cấp tỉnh về xây dựng bản đồ nguy cơ ngập lụt sông Cà Ty và sông La Ngà tỉnh Bình Thuận, xây dựng bản đồ nguy cơ ngập lụt tỉnh Bình Định, bổ sung đặc điểm khí tượng thủy văn Phú Yên và xây dựng bản đồ ngập lụt sông Kỳ Lộ, đề tài cấp bộ về nghiên cứu xây dựng hệ thống phân tích, giám sát, cảnh báo và dự báo lũ, ngập lụt và hạn hán cho hệ thống sông Ba, dự án cấp tỉnh: Lập bản đồ ngập lụt lưu vực sông Dinh Ninh Hòa và sông Cái Nha Trang. Mô hình HDM được PSG.TS Lương Tuấn Anh phát triển từ mô hình DHM, mô hình DHM nguyên bản chỉ là mô hình thủy lực một chiều trong kênh hình chữ nhật đã được phát triển thành mô hình HDM là mô hình một chiều trong sông tự nhiên kết hợp với hai chiều trong bãi ngập. Ngoài ra mô hình HDM còn được thêm các công cụ tính toán và xử lý các công trình tác động đến diễn biến ngập lụt. Khi diễn toán trong sông mô hình là một chiều đối với khu vực tràn từ sông vào bãi ngập mô hình tự động chuyển thành hai chiều. Lượng nước tràn qua công trình được tính theo công thực đập tràn đỉnh rộng. Mô hình HDM (Hydro Dynamic Model) được phát triển từ mô hình DHM (Diffusion Hydrodynamic Model), là sự kết hợp giữa mô hình dòng một chiều trong sông và dòng hai chiều trên bãi sông cơ sở: - Thêm 01 thành phần quán tính vào phương trình chuyển động của dòng chảy trong hệ thống sông tạo ra khả năng mô hình có thể mô phỏng dòng chảy trong vùng có ảnh hưởng của thuỷ triều, nước dâng ven biển. - Bổ sung các điều kiện biên trong bao gồm đập tràn, cống có cửa điều khiển vào hệ phương trình 01 chiều và đập tràn, cống đồng thời đê, đường phía trên, cống  28 phía dưới đối với hệ phương trình 02 chiều mô tả chuyển động của dòng ngập lụt trên bãi sông, cho phép mô hình có thể mô phỏng đê, đường, cống qua đê ... - Mô hình có thể ứng dụng cho lòng sông có hình dạng bất kỳ thay thế mặt cắt hình chữ nhật như trong mô hình DHM. Hệ phương trình sóng động lực Saint - Venant được áp dụng trong tính toán truyền lũ một chiều trong hệ thống sông và xấp xỉ sóng khuyếch tán bằng cách bỏ qua các thành phần gia tốc trong phương trình bảo toàn động lượng trong hệ phương trình 02 chiều mô tả quá trình ngập lụt. Mô hình 1 chiều và 2 chiều được kết nối với nhau dựa trên nguyên tắc liên tục và chảy tràn bờ, tràn qua đê, đường và các công trình khác. Hệ phương trình cơ bản của mô hình có dạng như sau. 3.1.1 Mô hình một chiều trong sông Dòng chảy trong hệ thống sông được mô tả bằng phương trình sóng động lực bao gồm: Phương trình liên tục: q t A x Q =∂ ∂+∂ ∂ (3.1) Phương trình động lực: 0)( 2 =+∂ ∂+∂ ∂+∂ ∂ fSx Zg A Q xt Q (3.2) Độ dốc ma sát được xác định theo phương trình Manning: 3/42 2 f RA QQn S = Giải hệ phương trình trên có thể được dựa trên cơ sở quan niệm đoạn sông như một thể tích hữu hạn và xấp xỉ phương trình liên tục, phương trình động lượng bằng các quan hệ: * Quan hệ dạng sông Áp dụng cách xử lý tương tự cách xử lý của GS. Nguyễn Ân Niên trong mô hình KOD bằng việc xấp xỉ phương trình liên tục và động lượng dưới dạng: dt dZFQQ ii .1 =− −  29 ),( 1 iii ZZfQ −= Hình 3. Mô hình 1 chiều trong hệ thống sông Trong phương trình (3.2) gia tốc đối lưu có trị số nhỏ nhất và không đáng kể trong trường hợp dòng chảy trong kênh dẫn hoặc sông tự nhiên có hình dạng mặt cắt ít thay đổi. Đối với các kênh dẫn thành phần này có thể bỏ qua và phương trình động lượng có dạng: 03/42 2 =+∂ ∂+∂ ∂ RA QQn gA x ZgA t Q Áp dụng sơ đồ sai phân hiện tăng cường (enhanced explicit): 0 )1(3/41 121 1 1 1 1 =+∆ −+∆ − ++ ++ − + + + jj jj i J i j ij j i j i RA QQn g x ZZAg t QQ Đặt x ZZGRAD j i j i ∆ −= + − + 1 1 1 ; Ta có: )1/()1(),( )1(3/41 2 11 1 11 ++ ++ − ++ +∆−∆== jj j jj i j i j i j i RA Qn g t GRADAgQ t ZZfQ * Quan hệ dạng đê, đập tràn - Trường hợp chảy tự do: 1 1 1 *3/2 +− + j i j i hh p 1 1 1 1 11 2**35.0),( +− + − ++ == jijijiji ghBZZfQ  30 - Trường hợp chảy ngập: 1 1 1 *3/2 +− + j i j i hh f )(2***91.0),( 111 11 1 11 ++ − ++ − ++ −== jijijijijiji hhgBhZZfQ Trong đó: o j i j i ZZh −= +−+− 1111 và oZ là cao độ ngưỡng tràn * Quan hệ cống có cửa điều khiển - Trường hợp 1 1 1 + − + j i j s hh f và 11 ++ j i j s hh f (chảy kiểu đập tràn): phương pháp tính như trường hợp (b) - Trường hợp 1 1 1 + − + j i j s hh p và 11 ++ j i j s hh p (chảy kiểu cống hoàn toàn): )(**2***7.0 111 11 ++ − ++ −= jijijsji hhghBQ - Trường hợp 1 1 11 + − ++ j i j s j i hhh pp (trường hợp chảy nửa cống): 21 1 QQQ ji +=+ [ ]2/31112/31111 )()(****2*3/2 ++−++− −−−= jsjijiji hhhhBgQ µ )(**2*** 111 1 2 ++ − + −= jijiji hhghBQ µ ; .61.0=µ Ký hiệu h, độ mở của cống. 3.1.2 Mô hình hai chiều trong vùng ngập Dòng chảy hai chiều trong vùng bãi ngập được mô tả bằng phương trình sóng khuyếch tán hai chiều: - Phương trình liên tục: q t h y vh x uh =∂ ∂+∂ ∂+∂ ∂ (3.3) - Phương trình động lượng theo phương x và theo phương y: 0)S x Z(g y uv x uu t u fx =+∂ ∂+∂ ∂+∂ ∂+∂ ∂ (3.4) 0)S x Z(g y vv x vu t v fy =+∂ ∂+∂ ∂+∂ ∂+∂ ∂ (3.5) Khi bỏ qua thành phần gia tốc theo xấp xỉ của sóng khuyếch tán thì phương trình động lượng theo phương Ox và theo phương Oy trở thành:  31 fxx0 SSx h −=∂ ∂ (3.6) fyy0 SSy h −=∂ ∂ (3.7) - Độ dốc ma sát được xác định theo phương trình Manning theo phương Ox và theo phương Oy: 3/42 2 fx RA QQn S = và 3/42 2 fy RA QQn S = (3.8) Trong đó: h = độ sâu. z = cao độ mực nước. vx và vy = các thành phần vận tốc theo phương Ox và Oy. t = thời gian. g = gia tốc trọng trường. Sox và Soy = độ dốc đáy theo phương Ox và Oy. Sfx và Sfy = thành phần độ dốc ma sát theo phương Ox và Oy. nfx và nfy = hệ số Manning theo phương Ox và Oy. 3.1.3 Ghép nối mô hình một chiều và hai chiều Kết nối giữa mô hình dòng chảy một chiều trong hệ thống sông và mô hình dòng chảy hai chiều trong vùng ngập. Mô hình một chiều dòng chảy trong sông và mô hình hai chiều dòng chảy trong vùng ngập được liên kết qua sự trao đổi dòng chảy vùng ngập và dòng chảy Hình 4. Liên kết mô hình 1 chiều và 2 chiều  32 trong sông. Dựa trên cơ sở nguyên tắc liên tục và trao đổi dòng chảy trong sông và vùng ngập lụt thông qua điều kiện biên trong dưới dạng công trình như bờ sông, đê bao, đập tràn trên cơ sở lý thuyết được thể hiện trong công trình nghiên cứu. Mô hình 1 chiều dòng chảy trong sông và mô hình chảy tràn được kết nối dựa trên phương trình trao đổi nước giữa sông và ô lưới. tOIVV tttl t l ∆−+= +++ )( 111 Trong đó: Vl: thể tích nước trong ô tại thời điểm t+1 hoặc t, phụ thuộc vào mực nước. I: dòng chảy từ đoạn sông vào ô lưới gần kề. O: dòng chảy từ ô lưới ra đoạn sông gần kề. Dựa theo công thức đập tràn đỉnh rộng, dòng chảy vào hoặc ra ô lưới được tính theo công thức sau: LhhscI wrbf ∆−= 2/3)( nếu wr hh > và fpr hh > LhhscO wfpbf ∆−= 2/3)( nếu wfp hh > và rfp hh > Trong đó: cf: hệ số lưu lượng. hfp: mực nước trong khu ngập. ∆L: chiều dài đoạn sông. hr: mực nước trong sông. hw: cao trình bờ. sb: hệ số dòng chảy ngập. 3.2 YÊU CẦU CỦA MÔ HÌNH 3.2.1 Yêu cầu về mô phỏng Miền tính được mô phỏng là các ô lưới hình vuông có kích thước như nhau, mỗi ô lưới được đánh số thứ tự từ trái sang phải, từ trên xuống dưới. Ô lưới chia càng nhỏ thì độ phân giải càng cao, mô phỏng càng sát với thực tế. Tuy nhiên ô lưới càng nhỏ thì sô lượng ô lưới càng lớn khi đó số lượng phép tính quá lớn dẫn đến tình trạng tràn bộ nhớ trong quá trình tính toán.  33 Các công trình được mô phỏng theo biên của các ô, sông suối được mô phỏng theo các đường gấp khúc đi qua trung tâm của các ô. Vì vậy ô lưới càng nhỏ thì mô phỏng công trình và sông suối càng chính xác. Chiều rộng của sông lớn nhất không được lớn hơn kích thước của ô nên cần xác định kích thước ô lưới phù hợp để đảm bảo số lượng ô lưới không quá nhiều, sông suối nằm trọn trong ô lưới và có độ phân giải phù hợp để đảm bảo độ chính xác cho mô phỏng công trình, mô phỏng sông. Hệ thống ô lưới được bao hết cả vùng có khả năng ngập dùng để diễn toán ngập lụt. Các ô lưới được tạo liên kết hệ thống với các ô lưới xung quanh thông qua số thứ tự của ô lưới đã được đánh dấu. Các công trình như đường giao thông, đê được tạo liên kết công trình để xác định lượng nước tràn bờ giữa các ô lưới, đánh giá tác động của công trình đến diễn toán ngập lụt. Cao độ ô lưới được tính toán từ bản đồ địa hình, mỗi ô lưới được xác định một trị số cao độ nền của ô được tính từ cao độ nền địa hình. Hệ số nhám ô lưới được xác định vào điều kiện lớp phủ và thổ nhưỡng bề mặt của vùng diễn toán ngập lụt. Ngoài tạo liên kết hệ thống ô lưới còn phải tạo liên kết sông với ô lưới mà sông chảy qua, đối với các ô lưới này hệ số nhám được xác định là hệ số nhám trung bình của lòng sông và địa hình được xác định trên cơ sở số liệu mặt cắt ngang. Tổng cao trình đáy sông và độ sâu bằng cao trình nền của ô lưới có sông chảy qua nên sau sau khi tính toán các đặc trưng của mặt cắt thì cần phải kiểm tra lại. 3.2.2 Yêu cầu về số liệu Địa hình nền ảnh hưởng rất lớn đến diễn toán ngập lụt nên số liệu địa hình sử dụng trong mô hình càng chi tiết càng tốt. Bản đồ địa hình có thể sử dụng là bản đồ giấy, tuy nhiên loại bản đồ này rất bất tiện khi sử dụng. Để thuận tiện tính toán số liệu địa hình thì bản đồ địa hình cần được số hóa và có thuộc tính cao độ của đường bình đồ và điểm cao độ. Tạo thêm các lớp về lưới tính và số ô lưới trên bản đồ số để dễ dàng biên tập, xử lý và tính toán. Mỗi ô lưới nên có ít nhất một điểm cao độ và giá trị cao độ nền ô lưới được tính trung bình của các điểm trong ô, các ô lưới không có điểm cao độ thì được nội suy từ các ô lưới lân cận.  34 Số liệu mặt cắt đo đạc được dẫn cao độ với hệ cao độ và tọa độ thống nhất với bản đồ địa hình nền. Số liệu mặt cắt sông càng nhiều thì càng tốt, tuy nhiên vì điều kiện kinh tế không thể đo mặt cắt ngang nhiều vì vậy để đảm bảo độ chính xác của trong quá trình diễn toán ngập lụt thì cần đo mặt cắt tại những vị sông cong, sông co thắt hoặc mở rộng đột ngột, những đoạn sông có thay đổi nhiều về các yếu tố thủy lực. Mỗi ô lưới có sông chảy qua đều phải tính toán mặt cắt, tuy nhiên không phải ô lưới nào cũng có mặt cắt được đo vì vậy các ô lưới không được đo mặt cắt thì được nội suy và ngoại suy từ số liệu mặt cắt thực đo. Các số liệu mặt cắt nội suy và ngoại suy sau khi tính toán thì được kiểm tra tính hợp lý với cao độ của bản đồ địa hình nền. Số liệu Khí tượng Thủy văn dùng để kiểm định mô hình là số liệu của một trận mưa lũ quan trắc đồng bộ. Để mô phỏng đúng với thực tế, ngoài các trạm Thủy văn đang sử dụng cần phải bổ sung thêm các trạm mới, khống chế tất cả các nhánh sông gây ngập lụt cho hạ lưu. Các số liệu quan trắc đều được chỉnh biên tại Đài Khí tượng Thủy văn khu vực Nam Trung Bộ, đảm bảo số liệu sử dụng là chính xác, theo đúng quy trình quy phạm của ngành Khí tượng Thủy văn. Các số liệu đo đồng bộ trên lưu vực sông Cái Nha Trang gồm lưu lượng của sông Thác Ngựa, sông Chò, sông Suối Dầu, số liệu thủy triều tại cầu Bình Tân, cầu Trần Phú, số liệu mực nước kiểm tra tại 5 trạm mực nước từ biên trên xuống biên dưới. Các trạm mực nước kiểm tra được bố trí trên, dưới Quốc lộ 1 và đường sắt, bên trái và phải đường 23/10 vì đây là các công trình ảnh hưởng nhiều đến diễn toán ngập lụt ở hạ lưu. Số liệu khí tượng, thủy văn, hải văn dùng để chạy cho các kịch bản ngập được thống kê và tính theo các tần suất thiết kế là 1%, 3%, 5%, 10%. Các số liệu thống kê để tính tần suất càng dài thì càng tốt, đối với lưu vực sông Cái Nha Trang sử dụng số liệu thống kê của trạm Khí tượng Nha Trang, trạm Thủy văn Đồng Trăng và điểm đo mưa Khánh Vĩnh. Vì sông đổ ra biển nên biên dưới của mô hình cần phải tính toán số liệu mực nước triều ứng với các kịch bản ngập. Số liệu triều của các mô hình dự báo đều tính theo “0” Hải đồ nên phải chuyển cao độ số liệu mực nước triều cùng hệ cao độ với bản đồ địa hình nền.  35 CHƯƠNG 4 ỨNG DỤNG MÔ HÌNH HDM XÂY DỰNG BẢN ĐỒ NGẬP LỤT HẠ LƯU SÔNG CÁI NHA TRANG 4.1 TÍNH TOÁN SỐ LIỆU ĐẦU VÀO 4.1.1 Tính toán số liệu địa hình * Địa hình Dữ liệu địa hình là dữ liệu rất quan trọng của mô hình thủy lực, số lượng tính toán rất lớn, đòi hỏi độ chính xác cao. Dữ liệu địa hình của lưu vực sông Cái Nha Trang được tính toán từ bản đồ tỷ lệ 1/10.000 hệ tọa độ VN 2000 do Bộ Tài nguyên Môi trường xây dựng năm 2006 bằng công nghệ hàng không và được lưu ở dạng Microstation. Trên lưu vực sông Cái Nha Trang thu thập bản đồ dùng để tính số liệu địa hình gồm có 46 xã, phường, thị trấn, tập trung ở huyện Diên Khánh, Cam Lâm và thành phố Nha Trang. Bản đồ được lưu thành các mảnh theo các xã riêng biệt, xã ít nhất có 1 mảnh bản đồ, xã nhiều nhất có 12 mảnh bản đồ. Để có dữ liệu địa hình cho lưu vực sông Cái Nha Trang thì cần phải chuyển đổi và ghép các mảnh bản đồ thành bản đồ lưu vực hoàn chỉnh bao gồm các lớp thông tin là đường bình đồ, giao thông, sông suối, điểm cao độ và tên địa danh. Đã dùng phần mềm MapInfo 11.0 để chuyển đổi bản đồ từ Microstation sang MapInfo, hệ quy chiếu và hệ tọa độ VN 2000 - Khánh Hòa múi 3. Cao độ địa hình đầu vào của mô hình là cao độ của các ô lưới, các cao độ này được tính từ bản đồ địa hình trên. Từ các đường bình đồ và các điểm cao độ trên bản đồ tính toán được cao độ của các ô lưới. Các điểm cao độ và các đường bình đồ đều chưa được cấy các giá trị, sau khi chuyển đổi từ bản đồ gốc ở dạng Microstation bản đồ mới chỉ ở dạng số, chưa có thuộc tính về cao độ. Để tính toán cao độ ô lưới được dễ dàng và xử lý kết quả chạy mô hình sau này thì cần phải gán cao độ cho các đường bình đồ và điểm cao độ. Các đường bình đồ sau khi gán cao độ dược chuyển thành các điểm bằng phần mềm Vertical Maper 3.0 dùng để tính toán số liệu đầu vào và xử lý kết quả đầu ra của mô hình. Các điểm cao độ được cập nhật tọa độ tự động bằng phần mềm MapInfo 11.0.  36 Ngoài ra do bản đồ địa hình được xây dựng từ năm 2006, sau 7 năm đã có sự thay đổi ở một số vùng phía tây thành phố Nha Trang do xây dựng các công trình. Việc đô thị hóa của thành phố đã xây dựng nhiều khu đô thị, kéo theo đó là việc san lấp mặt bằng để xây dựng công trình đã ảnh hưởng đến ngập cục bộ của các vùng này. Các khu đô thị được cập nhật thay đổi cao độ nền so với trước đây là khu đô thị Phước Long, Mỹ Gia, Vĩnh Điềm Trung, Nam Sông Cái, tăng cao độ nền thêm từ 1,5 - 2,0m. Những thay đổi cao độ địa hình tại các khu đô thị được cập nhật bổ sung trên nền bản đồ địa hình và sử dụng để tính toán số liệu đầu vào cho mô hình. Hình 5. Miền tính mô hình HDM * Mặt cắt Các mặt cắt được đo tại vị trí sông cong, lòng sông bị biến đổi nhiều, có sự thay đổi về thủy lực. Trên lưu vực sông Cái Nha Trang được bố trí 32 mặt cắt ngang, trong đó 3 mặt cắt trùng với trạm đo lưu lượng, 4 mặt cắt trùng với trạm đo  37 mực nước kiểm tra và 2 mặt cắt tại cửa ra trùng với trạm đo thủy triều. Mặt cắt được dẫn cao độ Quốc gia, đã được kiểm tra thẩm định và kế thừa từ dự án “Lập bản đồ lưu vực sông Dinh Ninh Hòa và sông Cái Nha Trang” do Đài Khí tượng Thủy văn khu vực Nam Trung Bộ thực hiện năm 2010. Các mặt cắt ngang sông được bố trí trên sông Thác Ngựa, sông Chò, sông Cái, sông Suối Dầu và sông Quán Trường trên lưu vực sông Cái Nha Trang. Ngoài ra còn xác định thêm các mặt cắt ở mương Bầu Sấu, sông Tháo và sông Tắc để mô phỏng phù hợp với thực tế. Ngập lụt ở vùng hạ lưu do sông Cái Nha Trang và sông Suối Dầu gây ra vì vậy mặt cắt của trên các sông này có vai trò rất quan trọng trong mô hình, đối với mương Bầu Sấu, sông Tháo và sông Tắc không gây ngập lụt nhưng lại ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình thoát lũ. Hình 6. Sơ đồ thủy lực mô hình HDM Các số liệu mặt cắt đo từ năm 2010, đến nay tại một số đoạn sông đã có sự thay đổi của việc xây dựng các công trình thủy lợi. Xác định vị trí thay đổi do xây dựng kè ở khu vực thị trấn Diên Khánh và thành phố Nha Trang để đo lại mặt cắt ngang. Vùng hạ lưu sông Cái Nha Trang có 03 mặt cắt được đo lại và đo thêm 02 mặt cắt vào giữa năm 2013 để kịp thời cập nhật sự thay đổi. Ngoài ra do dự án chỉnh trị sông Tắc và sông Quán Trường đã xây dựng kè 2 bờ bằng đá hộc với mặt  38 cắt được mở rộng gấp khoảng 3 lần trước đây và cao trình bờ sông được nâng cao gấp khoảng 2 lần. Sông được chỉnh trị ngắn và thẳng hơn trước đã tăng khả năng thoát lũ cho phía tây thành phố Nha Trang. Những thay đổi do chỉnh trị sông Tắc và sông Quán Trường được cập nhật dựa trên hồ sơ thiết kế thi công và bản đồ quy hoạch của dự án này (hình 42 - phụ lục). Hình 7. Tính toán các yếu tố mặt cắt ngang Hình 8. Phân bố các mặt cắt ngang trên hệ thống sông Cái Nha Trang Mỗi mặt cắt ngang được tính toán các yếu tố về độ sâu, cao trình đáy sông, chiều ngang sông ứng với các mức độ sâu khác nhau, hệ số nhám lòng sông. Mặt  39 cắt ngang tính cho từng ô lưới có sông chảy qua, đối với ô lưới không được đo mặt cắt thì nội suy và ngoại suy từ các ô lưới có số liệu đo. * Số liệu công trình Các công trình giao thông thủy lợi ảnh hưởng đến diễn biến ngập lụt ở hạ lưu vì vậy cần phải nhập dữ liệu công trình vào mô phỏng ngập lụt. Dữ liệu công trình bao gồm cao độ của đường giao thông, đập tràn, thông số của cống ngầm. Các dữ liệu này được đo đạc ở ngoài thực địa, hồ sơ kỹ thuật các công trình và trên bản đồ số hóa. Các công trình được mô phỏng theo đường biên của các ô lưới, cao độ công trình sẽ quyết định đến việc lượng nước tràn từ ô này sang ô khác. Cao độ của một đường giao thông trên thực tế ở các đoạn đường khác nhau không cùng một trị số, số điểm cao độ của đường giao thông trên bản đồ là không nhiều, chính vì vậy cần phải bổ sung thêm cao độ từ các hồ sơ kỹ thuật xây dựng và điều tra khảo sát thực địa. Các công trình ảnh hưởng đến quá trình ngập lụt hạ lưu sông Cái Nha Trang bao gồm đường Quốc lộ 1A, đường sắt, đường 23 tháng 10. Các đường liên huyện, liên xã và đường làng ít ảnh hưởng, có những đoạn đường không ảnh hưởng đến quá trình ngập lụt. Những đường và đoạn đường không ảnh hưởng đến ngập lụt là những đường và đoạn đường có cao trình thấp hơn cao độ vùng đất hai bên đường. Các con đường ảnh hưởng nhiều đến ngập lụt hạ lưu sông Cái Nha Trang có cao trình từ 4,5 đến 5,0 m và cao hơn vùng đất hai bên đường từ 0,5 đến 2,5 m. Đường Quốc lộ 1A và đường sắt chạy theo hướng bắc - nam nên ảnh hưởng rất nhiều đến thoát lũ hạ lưu, gây ngập lụt sâu về phía thượng lưu các con đường này. Đối với đường 23 tháng 10 ảnh hưởng đến việc trao đổi nước giữa sông Cái Nha Trang và sông Quán Trường. Trên các con đường này có nhiều cầu cống bắc qua các kênh, mương và sông nhỏ, đáng chú nhất là cầu Lùng trên Quốc lộ 1A không bắc qua sông mà qua một cái hồ nhỏ và có ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình thoát lũ hạ lưu sông Cái Nha Trang. Khi lũ trên sông Cái lớn hơn sông Suối Dầu thì lượng nước trên sông Cái tràn chảy ngược vào sông Suối Dầu khiến mực nước phía tây nam thị trấn Diên Khánh dâng cao lúc đó sẽ có lượng nước đáng kể qua cầu Lùng xuống phía hạ lưu đường Quốc lộ 1A và nhập vào sông Quán Trường. Các cầu lớn khác ít  40 ảnh hưởng đến quá trình ngập lụt hạ lưu sông Cái Nha Trang như cầu Phú Cốc, cầu Sông Cái, cầu Suối Cát, cầu Hà Dừa, cầu Vĩnh Phương, cầu Bình Tân và cầu Trần Phú vì các cầu này có các mố cầu nằm trên hai bờ, các yếu tố thủy lực ảnh hưởng không đáng kể đến lưu lượng chảy qua chân cầu. Ngoài cầu Lùng còn có cầu khác ảnh hưởng nhiều đến ngập lụt hạ lưu sông Cái Nha Trang đó là cầu tràn sông Cái, làm cản trở dòng chảy. Hạ lưu sông Cái Nha Trang có hai công trình thủy lợi ảnh hưởng đến ngập lụt đó là đập ngăn mặn Vĩnh Phương và đập Suối Cát, đây là hai đập tràn. Đập Suối Cát nằm trên sông Suối Dầu ảnh hưởng đến phân phối lưu lượng giữa sông Suối Dầu và sông Quán Trường, đập ngăn mặn Vĩnh Phương làm chậm quá trình thoát lũ trên sông Cái. Tuy nhiên trong quá trình khảo sát đã đặt mặt cắt tại vị trí các tuyến đập nên mức độ ảnh hưởng của các đập cũng đã có trong tài liệu mặt cắt ngang, mặt khác trên đập Suối Cát có nhiều cửa mở khi lũ về và đập Vĩnh Phương được làm bằng đá xếp, nước chảy được qua thân đập. + Mô phỏng công trình hiện trạng Hình 9. Mô phỏng sông suối và công trình trên miền tính Để xây dựng dữ liệu công trình cần phải xác định cao độ của từng đoạn đường giao thông và mô phỏng trên hệ thống lưới tính. Các công trình được mô Mô phỏng sông suối Mô phỏng công trình giao thông  41 phỏng theo biên của các ô lưới, liên kết công trình được xác định giữa các ô lưới liền kề nhau theo quy luật ô lưới đó với ô lưới phía trước, phía phải, phía sau và phía trái. Quá trình liên kết công trình được thực hiên ở tất cả các ô lưới, nếu giữa các ô không có liên kết công trình thì cao độ công trình được xác định là “0”, nếu có liên kết công trình thì cao độ được xác định bằng cao độ của đoạn công trình đó. Tất cả các cao độ này được quy đổi thống nhất sang cao độ Quốc gia. Giữa hai ô lưới vừa có liên kết công trình, vừa có sông chảy qua thì cần phải xác định đặc điểm của công trình bắc qua sông. Nếu đó là cống hoặc cầu làm ảnh hưởng đến mặt cắt ngang sông thì sẽ gây ảnh hưởng nhiều đến diễn biến dòng chảy trong sông, nếu là cầu không ảnh hưởng đến mặt cắt ngang sông thì không mô phỏng, lúc đó dòng chảy qua cầu như dòng chảy trong sông tự nhiên. Khác với mô phỏng công trình, sông được mô phỏng theo trung tâm các ô lưới, các nhánh sông cách nhau ít nhất một ô lưới, trừ các ô lưới chéo nhau. + Chia lưới ô vuông Sau khi chuyển đổi định dạng bản đồ và hệ tọa độ, tiến hành chia lưới ô vuông. Đối với sông Cái Nha Trang đã chia lưới với kích thước 300 x 300m khống chế toàn bộ vùng có khả năng ngập bao gồm 2250 ô lưới. Việc chia ô lưới được căn cứ trên cơ sở xác định sơ bộ vùng có khả năng ngập để xác định phạm vi vùng chia ô lưới. Ngoài ra việc chia ô lưới còn căn cứ vào yêu cầu mô phỏng của mô hình để xác định kích thước ô lưới cho phù hợp. Sử dụng bản đồ địa hình để tính toán cao độ các ô lưới, đánh số ô lưới, cập nhật số ô và kinh vĩ độ của trọng tâm các ô. Các ô liên kết với nhau theo một trật tự nhất định, để tạo dữ liệu đầu vào cho mô hình cần phải tạo liên kết hệ thống. Việc tạo liên kết hệ thống theo cách thủ công mất rất nhiều thời gian và dễ bị nhầm lẫn, để khắc phục dự án đã mô phỏng lưới ô vuông theo ma trận hai chiều và lập chương trình để tạo liên kết bằng ngôn ngữ lập trình Fortran. Mỗi ô lưới được tạo liên kết với ô lưới phía trước, phía phải, phía sau và phía trái, đối với các ô ở biên thì phía nào giáp biên thì được liên kết với ô số “0”. Việc đánh số các ô theo một quy luật nhất định, các số sử dụng là số tự nhiên được bắt đầu bằng 1. Chia ô lưới là bước  42 đầu tiên của việc tạo số liệu địa hình cho mô hình, ảnh hưởng tới tất cả các quá trình tính toán sau này. Các thông tin cần xác định với một ô lưới bao gồm: liên kết hệ thống, liên kết công trình, cao độ ô lưới, cao độ mốc so với mặt chuẩn, kinh độ, vĩ độ và hệ số nhám. Để xác định các thông tin này cần đến sự hỗ trợ của phần mềm MapInfo 11.0 và ng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluanvan_buivanchanh_2013_4236_1869408.pdf
Tài liệu liên quan