Luận văn Vai trò đội ngũ trí thức học viện nông nghiệp Việt Nam trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn hiện nay

MỞ ĐẦU .3

CHưƠNG 1. 10

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỘI NGŨ. 10

TRÍ THỨC VÀ VAI TRÕ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC CÁC. 10

TRưỜNG ĐẠI HỌC TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA,

HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN . 10

1.1. Quan niệm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và

Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức và vai trò của đội ngũ trí thức.10

1.1.1 Quan niệm của các nhà kinh điển Mác - Lênin về trí thức và vai trò

của đội ngũ trí thức . 10

1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt

Nam về trí thức và vai trò của đội ngũ trí thức. 12

1.2. Vai trò đội ngũ trí thức và trí thức giảng viên ở Việt Nam hiện nay.18

1.2.1. Vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay. 18

1 2.2. Vai trò của đội ngũ trí thức giảng viên hiện nay . 21

1.3. Các tiêu chí đánh giá đội ngũ trí thức giảng viên .26

1.3.1. Về số lượng. 26

1.3.2. Về cơ cấu. 27

1.3.3. Về chất lượng . 28

1.4. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở

nước ta hiện nay.30

1.4.1. Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa . 30

1.4.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. 36

Tiểu kết chương 1 . 45

CHưƠNG 2. 46

THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP. 46

pdf47 trang | Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 493 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vai trò đội ngũ trí thức học viện nông nghiệp Việt Nam trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hân biệt với các giai cấp và tầng lớp khác trong xã hội. Tuy nhiên lao động trí óc cũng có nhiều dạng khác nhau. Tiêu chí cơ bản để phân biệt là sự hao tổn trí tuệ, hàm lượng chất xám ít hay nhiều trong quá trình lao động. Đối với người lao động trí óc một cách giản đơn, sự hao tổn năng lượng trí tuệ không phải là cơ bản thì họ chưa được gọi là trí thức. Ngay cả những người có trình độ cao, tốt nghiệp đại học nhưng không làm việc đúng chuyên môn, tham gia lao động phổ thông hoặc thất nghiệp thì cũng không được coi là trí thức Như vậy người lao động với sự chi phí hàm lượng chất xám cao, trí tuệ lớn, luôn có sự tìm tòi, nghiên cứu, đặc biệt là có sự sáng tạo, dùng tri thức để tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần mới cho đời sống mới thực sự là trí thức. Thứ hai: Trí thức là người có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định: Lao động của trí thức là lao động trí óc phức tạp, đòi hỏi sự sáng tạo cao nên người trí thức phải có trình độ học vấn. Do đó người trí thức 17 luôn phải trải qua quá trình được giáo dục và đào tạo một chuyên môn nhất định. Để đảm bảo cho hoạt động lao động trí óc phức tạp, sáng tạo người trí thức cần phải có trình độ tối thiểu từ đại học trở lên. Tiêu chí này cũng chỉ mang tính tương đối bởi trong thực tế có những người không hề tốt nghiệp đại học, không có bằng cấp nào tương ứng nhưng những sản phẩm họ tạo ra lại mang một hàm lượng chất xám cao, là một sự sáng tạo đặc biệt, ứng dụng một cách hiệu quả vào thực tiễn Thứ ba: Trí thức tham gia vào các hoạt động lãnh đạo, quản lý xã hội. Hầu hết các xã hội luôn cần đến sự tham gia của trí thức trong hoạt động lãnh đạo cũng như quản lý xã hội. Bởi hoạt động này luôn cần đến một năng lực hơn người, một phẩm chất đặc biệt. Người làm công tác quản lý, lãnh đạo phải là người có tri thức sâu rộng về lĩnh vực mà mình quản lý và lãnh đạo. Không những thế họ còn phải có những năng lực khác như tổ chức, tập hợp, giáo dục, thuyết phục, lôi kéo quần chúng tham gia thực hiện những nhiệm vụ đã vạch ra. Thứ tư: Trí thức không phải là một giai cấp mà là một tầng lớp xã hội đặc biệt, tuy không có hệ tư tưởng độc lập nhưng trí thức lại đại diện cho trí tuệ của thời đại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Khi đã gắn bó với một giai cấp nhất định trong xã hội trí thức sẽ phát huy vai trò của mình. Do đặc thù quá trình lao động của mình luôn đòi hỏi tính trí tuệ, tính sáng tạo nên trí thức có khả năng tổng kết, khái quát thực tiễn thành lý luận, xây dựng hệ tư tưởng cho giai cấp thống trị. Trong lịch sử bất cứ giai cấp cầm quyền nào cũng cần đến trí thức. Họ luôn tìm cách thu hút, tập hợp và lôi kéo lực lượng trí thức về phía mình. Thứ năm: Sự ra đời của trí thức là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất của sự phân công lao động. Như sự tổng kết của Ăngghen trong tác phẩm "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và nhà nước" thì lịch sử 18 loài người đã trải qua 3 lần phân công lao động lớn: Lần thứ nhất là sự tách ra giữa chăn nuôi và trồng trọt; Lần thứ hai là thủ công nghiệp tách ra khỏi nông nghiệp; Lần thứ ba là sự tách biệt lao động trí óc ra khỏi lao động chân tay. Có thể nói lao động trí óc không thể thiếu và ngày càng trở nên quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Ở Việt Nam, đội ngũ trí thức hiện đại chủ yếu xuất thân là con em nông dân, công nhân hoặc được hình thành trong quá trình trí thức hóa công nhân và nông dân. Đây là một đặc điểm riêng của đội ngũ trí thức Việt Nam so với giới trí thức của các quốc gia đã trải qua giai đoạn Tư bản Chủ nghĩa. Nhìn chung, chỉ có một số rất ít trong số trí thức Việt Nam hiện nay được thừa hưởng truyền thống của các gia đình trí thức lâu đời. Đặc điểm đó tạo ra cho giới trí thức nước ta một sự gắn bó sâu sắc với nhân dân lao động, với hoàn cảnh nghèo nàn, lạc hậu của đất nước, cùng chung một mong muốn xây dựng đất nước trở thành một quốc gia dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Với những đặc điểm cơ bản như trên, trí thức ngày càng trở nên có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội, đặc biệt trong xu thế chung của thế giới hướng tới xây dựng nền kinh tế tri thức, trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước cũng như trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH hiện nay. 1.2. Vai trò đội ngũ trí thức và trí thức giảng viên ở Việt Nam hiện nay 1.2.1. Vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay Xã hội càng phát triển thì cơ cấu ngành nghề của đội ngũ trí thức ngày càng trở nên đa dạng. Do đó có thể phân loại (một cách tương đối) đội ngũ trí thức ở nước ta hiện nay dựa trên những căn cứ như sau: Thứ nhất: Căn cứ vào nguồn, trình độ đào tạo và dạng thức lao động - Theo nguồn đào tạo: trí thức đào tạo trong nước và ngoài nước 19 - Theo bằng cấp, học vấn: cử nhân, thạc sỹ, tiến sỹ - Theo dạng thức lao động: nghiên cứu, giảng dạy, ứng dụng Thứ hai: Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động - Trí thức khoa học tự nhiên - Trí thức khoa học kỹ thuật và công nghệ - Trí thức khoa học xã hội và nhân văn - Trí thức khoa học giáo dục - Trí thức khoa học nông nghiệp (nông - lâm - ngư nghiệp) Trong mọi lĩnh vực hoạt động nêu trên đội ngũ trí thức Việt Nam đều có vai trò quan trọng. Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã nhấn mạnh: Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững. Do đó có thể nói trí thức là những người không chỉ có trình độ học vấn, chuyên môn cao, mà còn là những người quan tâm và có chính kiến trước những vấn đề chính trị - xã hội nóng bỏng của thời đại. Đặc điểm cơ bản của trí thức là lao động trí óc và sáng tạo. Kiểu lao động trí óc và sáng tạo đó đòi hỏi cao về tính độc lập của người trí thức trong tư duy, vận dụng kiến thức và kinh nghiệm đã tích lũy được cũng như năng lực chuyên môn nghề nghiệp để tìm ra biện pháp tối ưu giải quyết công việc. Từ những đặc điểm cơ bản về cơ cấu nêu trên có thể đi đến 5 vai trò chủ yếu của đội ngũ trí thức như sau: Một là tiếp thu và truyền bá tri thức. Đội ngũ trí thức trước hết là những người được đào tào một cách bài bản, đầy đủ, những người có trình độ học vấn cao, chuyên môn sâu trong lĩnh vực mà họ lao động và làm việc. 20 Cũng chính trong quá trình lao động và làm việc đội ngũ này đã truyền bá những tri thức vào đời sống xã hội, góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội. Hai là sáng tạo ra các giá trị mới của tri thức. Trong quá trình hoạt động thực tiễn, đứng trước những đòi hỏi của thực tiễn lao động sản xuất và phát triển trình độ nhận thức của xã hội, đội ngũ trí thức đã không ngừng sáng tạo ra những giá trị mới của tri thức, làm giàu thêm cho khoa học - kỹ thuật. Ba là đề xuất, phản biện một cách độc lập các chủ trương, chính sách và biện pháp giải quyết các vấn đề xã hội. Đội ngũ trí thức là những đại biểu cho trí tuệ của thời đại, họ có thể nhìn nhận, đánh giá một cách chính xác những vấn đề xã hội đang đặt ra, do đó hơn bất cứ một giai cấp tầng lớp nào trong xã hội, đội ngũ này có thể đề xuất, phản biện một cách độc lập các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đưa ra các giải pháp tốt nhất để giải quyết các vấn đề xã hội đã, đang và sẽ xảy ra. Bốn là dự báo phát triển và định hướng dư luận xã hội. Trong quá trình hoạt động của mình đội ngũ trí thức không những chỉ ra những vấn đề đang tồn tại mà họ còn có thể vạch ra, dự báo các xu hướng phát triển trong tương lai của đời sống xã hội trên mọi lĩnh vực. Đặc biệt, với trình độ và uy tín của mình đội ngũ trí thức còn tạo nên niềm tin vào tri thức, khoa học đối với các giai cấp và tầng lớp khác của xã hội từ đó định hướng dư luận xã hội. Năm là trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội. Vai trò này chính là điều kiện cơ bản để đội ngũ trí thức có thể phát huy tốt nhất địa vị của mình trong hệ thống sản xuất xã hội. Đặc biệt trong bối cảnh thế giới đang tiến rất gần tới nền kinh tế tri thức thì đội ngũ trí thức càng có cơ hội để phát huy hơn nữa vai trò của mình. Chính quá trình hoạt động thực tiễn, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất ra của cải cải vật chất, là điều kiện thuận lợi, là mảnh đất màu mỡ để đội ngũ này có thể mang những giá trị tri thức mà họ đã tích lũy được đóng góp cho xã hội. 21 1 2.2. Vai trò của đội ngũ trí thức giảng viên trong các trường đại học, cao đẳng hiện nay Việt Nam bắt đầu triển khai mạnh mẽ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập sâu rộng với quốc tế ngay từ những năm đầu thế kỷ XXI - thế kỷ của khoa học và công nghệ, của nền kinh tế tri thức mà ở đó nhân tố con người được đặt lên hàng đầu. Để đảm bảo cho sự thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước, của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá chúng ta phải có một nguồn nhân lực dồi dào, sâu về chuyên môn, năng động nhiệt tình và sáng tạo; có ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm cao Việc tạo ra được một nguồn nhân lực như vậy đòi hỏi rất nhiều ở xã hội nói chung và cụ thể là ở đội ngũ trí thức - những người thầy, những nhà khoa học trong các cơ sở đào tạo nói riêng. Các trường đại học và cao đẳng là nơi trực tiếp đào tạo các thế hệ sinh viên - nguồn nhân lực đảm bảo về chuyên môn tốt nhất hiện nay cho lao động xã hội. Đội ngũ trí thức trong các trường đại học và cao đẳng chính là những người thầy, những nhà khoa học trực tiếp truyền thụ kiến thức chuyên môn cho các thế hệ sinh viên. Do đó vai trò của họ là vô cùng to lớn. Nếu khoa học và công nghệ là động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì đội ngũ trí thức là động lực của sự phát triển khoa học và công nghệ. Đội ngũ trí thức trong các trường đại học và cao đẳng tham gia trực tiếp vào việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, giáo dục thế giới quan khoa học, phát triển trí tuệ cũng như năng lực sáng tạo cho người học. Chính vì vậy giáo dục và đào tạo đã được Đảng và Nhà nước ta coi là quốc sách hàng đầu. Giáo dục và đào tạo là nhân tố hàng đầu, mang tính chất quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Theo những vai trò chủ yếu của đội ngũ trí thức nói chung như trên thì đội ngũ trí thức trong các trường đại học, cao đẳng ở nước ta hiện nay chính là đội ngũ giảng viên 22 với những nhiệm vụ, công tác chuyên môn mà họ thực hiện như công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học và đội ngũ cán bộ chuyên trách đảm nhiệm các công tác khác trong một trường đại học hoặc cao đẳng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành TW Đảng khoá VIII đã xác định giảng viên chính là nhân tố quyết định đến chất lượng giáo dục và cần được xã hội quan tâm, tôn vinh. Chăm lo xây dựng đội ngũ giảng viên sẽ tạo được sự chuyển biến về chất lượng giáo dục, đáp ứng được yêu cầu đổi mới của đất nước. Giảng viên (theo Quyết định số 202/TCCP - VC ngày 08/06/1994 của Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ) là viên chức chuyên môn đảm nhiệm việc giảng dạy và đào tạo ở bậc đại học, cao đẳng thuộc một chuyên ngành đào tạo của trường đại học hoặc cao đẳng. Một giảng viên đại học không chỉ đơn thuần là một nhà sư phạm mà họ còn là một nhà khoa học do chỗ lao động sư phạm của một giảng viên đại học là loại lao động góp phần “sáng tạo ra con người” – một người lao động có khả năng làm việc với trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có đầy đủ các kỹ năng và phẩm chất nghề nghiệp của ngành nghề mà họ đã lựa chọn. Do đó, người giảng viên trước hết phải là một nhà sư phạm có năng lực truyền thụ kiến thức, có những hiểu biết sâu sắc, đầy đủ và chính xác về chuyên môn mà mình phụ trách, có những hiểu biết về thực tiễn đời sống kinh tế - chính trị - xã hội, có nhân cách, phẩm chất đạo đức và lòng yêu nghề. Bên cạnh đó để trở thành một nhà khoa học trong một trường Đại học thì người giảng viên phải thường xuyên trau dồi, nghiên cứu và phát huy sự sáng tạo của mình, phát hiện ra những cái mới, mở rộng và làm phong phú thêm những tri thức khoa học trong chuyên môn giảng dạy của mình. Hơn thế nữa, người giảng viên còn có thể tạo ra những sản phẩm khoa học, các công trình nghiên cứu, các dịch vụ khoa học và ứng dụng những thành tựu đó vào thực tiễn lao động sản xuất. 23 Đề tài sẽ sử dụng khái niệm và cách tiếp cận này để xem xét đội ngũ giảng viên của Học viện Nông nghiệp Việt Nam cũng như vai trò của họ trong việc đào tạo nguồn nhân lực, nghiên cứu và ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật và cung cấp các sản phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn hiện nay. Như vậy đội ngũ trí thức giảng viên của Học viện Nông nghiệp Việt Nam chính là lực lượng cán bộ đang làm việc tại Học viện với chức danh là giảng viên, cán bộ quản lý, cán bộ nghiên cứu hay các cán bộ chuyên trách làm việc tại các phòng ban, viện hay các trung tâm khoa học - kỹ thuật của Học viện. Trong giới hạn phạm vi nghiên cứu, đề tài chủ yếu đi sâu vào làm rõ vai trò của đội ngũ giảng viên trực tiếp giảng dạy của Học viện. Từ cách tiếp cận trên cho thấy người giảng viên luôn phải thực hiện tốt 3 vai trò chính: Một là vai trò của một nhà giáo: Đây là vai trò mang tính truyền thống và tiên quyết đối với một giảng viên. Để thực hiện sứ mệnh này giảng viên phải là một người thầy giỏi. Muốn vậy đòi hỏi người giảng viên phải có chuyên môn sâu về nội dung, chương trình đào tạo; có đầy đủ kiến thức và kỹ năng dạy học; có kiến thức về môi trường giáo dục và mục tiêu giáo dục. Hai là vai trò của một nhà khoa học: Giảng viên cần phải làm tốt công tác nghiên cứu khoa học, đặc biệt là những nghiên cứu mang tính thực tiễn hoặc những nghiên cứu mang tính đa - liên ngành nhằm giúp cho quá trình giảng dạy chuyên môn được phong phú sinh động và sâu sắc hơn. Ba là vai trò của một nhà cung cấp dịch vụ: Đây là vai trò đang được xã hội ngày càng kỳ vọng và đánh giá cao. Giảng viên là người có chuyên môn rất sâu về lĩnh vức khoa học mà họ đang nghiên cứu và giảng dạy, do đó hơn ai hết nếu họ tham gia vào công tác quản lý, công tác tư vấn, liên hệ việc 24 làm hoặc tham gia vào các tổ chức kinh tế, các đoàn thể của trường... thì họ sẽ phát huy được tối đa vai trò như một nhà cung ứng dịch vụ. Từ vai trò của đội ngũ trí thức giảng viên tại các trường đại học cao đẳng nói chung đề tài đi đến phân tích vai trò cụ thể của đội ngũ trí thức giảng viên của Học viện Nông nghiệp Việt Nam như sau: Một là: Đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao cho lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn. Đội ngũ giảng viên của Học viện trước hết phải thực hiện tốt vai trò là một nhà giáo dục, cùng nhà trường đào tạo các thế hệ sinh viên - những người lao động trực tiếp trong lĩnh vực nông nghiệp, quản lý kinh tế nông nghiệp và xây dựng xã hội nông thôn. Nước ta là một nước nông nghiệp do đó nhu cầu về nguồn nhân lực cho nông nghiệp luôn rất lớn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy trình độ của người lao động trong lĩnh vực nông nghiệp của nước ta còn rất thấp. Trình độ học vấn, tay nghề còn hạn chế, tính kỷ luật chưa cao Đứng trước yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn hiện nay, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực đủ về số lượng và đảm bảo về chất lượng đang là một đòi hỏi cấp thiết. Ở khía cạnh đào tạo nguồn nhân lực, vai trò đội ngũ giảng viên của Học viện hiện nay được thể hiện ở một số nội dung sau: - Đào tạo đối tượng chiếm đa số hiện nay là lực lượng sinh viên nông nghiệp, giúp cho lực lượng này nắm vững kiến thức chuyên môn cũng như các kỹ năng thực hành theo yêu cầu của ngành nghề mà họ được đào tạo. Số lượng sinh viên tốt nghiệp hàng năm của Học viện là nguồn bổ sung chủ yếu vào đội ngũ lao động trình độ cao trong lĩnh vực nông nghiệp của cả nước. - Đào tạo những chuyên gia có trình độ cao, chuyên sâu về lĩnh vực nông nghiệp, quản lý nông nghiệp, đó là những học viên cao học, nghiên cứu sinh. Đối tượng đào tạo này giữ vai trò rất lớn trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn ở nước ta hiện nay. Họ là những chuyên gia, 25 có trình độ cao về cả lý thuyết và thực hành, có khả năng nghiên cứu độc lập. Họ là những cán bộ quản lý đang làm việc tại các cơ quan hành chính, các tổ chức chính trị - xã hội ở khu vực nông thôn, các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh các sản phẩm, dịch vụ nông nghiệp. Họ còn là những cán bộ, viên chức công tác tại các trường, trung tâm, viện nghiên cứu trong lĩnh vực nông nghiệp Với những vị trí đó lực lượng này đã, đang và sẽ đóng góp rất lớn vào hoạt động sản xuất nông nghiệp cũng như đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay. Hai là: Nghiên cứu, ứng dụng khoa học - kỹ thuật và công nghệ vào quá trình sản xuất nông nghiệp, xây dựng và phát triển nông thôn. Đội ngũ giảng viên của Học viện ngoài vai trò đào tạo nguồn nhân lực họ còn là những nhà nghiên cứu có khả năng tạo ra những giống mới, những kỹ thuật chăn nuôi hiệu quả, những quy trình bảo quản sau thu hoạch, cải tiến và thiết kế mới các loại máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp, ứng dụng công nghệ sinh học trong trồng trọt, tạo ra các loại thuốc trừ sâu bệnh sinh học, chế biến các thức ăn chăn nuôi Trên cơ sở những thành tựu khoa học đội ngũ giảng viên của Học viện còn là những người trực tiếp chỉ đạo, quản lý và giám sát việc thử nghiệm, ứng dụng và chuyển giao kết quả nghiên cứu đó tới bà con nông dân. Ba là: Cung cấp các sản phẩm và dịch vụ nông nghiệp, đáp ứng nhu cầu của bà con nông dân, của các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp. Đội ngũ trí thức giảng viên của Học viện là những chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực mà họ giảng dạy và nghiên cứu do đó họ sẽ thực hiện rất tốt vai trò cung cấp dịch vụ cho nông nghiệp. Học viện có thể cung cấp các dịch vụ về quản lý, tư vấn cho các cơ sở sản xuất nông nghiệp, các trang trại; dịch vụ vật tư, cây con giống, các chế phẩm vi sinh, phân bón 26 Nhìn chung, đội ngũ giảng viên trong các trường đại học và cao đẳng không những là một nguồn lực quan trọng trong giáo dục và đào tạo, góp phần to lớn vào công cuộc đổi mới giáo dục, hướng tới một nền giáo dục hiện đại ngang tầm với khu vực và thế giới mà còn là chiếc nôi sản sinh ra nguồn nhân lực trình độ cao, cung cấp cho xã hội, cho nền kinh tế những người lao động có đầy đủ phẩm chất, năng lực nhằm thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu chiến lược mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra. Chính vì vậy xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức giảng viên tại các trường đại học, cao đẳng đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có lương tâm và trách nhiệm để họ phát huy hết vai trò của mình là một việc làm cấp thiết hiện nay. 1.3. Các tiêu chí đánh giá đội ngũ trí thức giảng viên 1.3.1. Về số lượng Hiện nay đứng trước nhu cầu rất lớn của người học và thị trường giáo dục, các trường đại học và cao đẳng đã có sự tăng lên một cách nhanh chóng về số lượng và quy mô đào tạo. Cùng với đó là sự tăng lên một cách nhanh chóng về số lượng đội ngũ trí thức giảng viên. Hiện nay cả nước có trên 500 trường Đại học cùng với gần 10.000 giảng viên. Với chủ trương phát triển giáo dục như một chiến lược phát triển mang tính lâu dài và bền vững, Đảng và Nhà nước ta và trực tiếp là Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong những năm qua đã tăng cường tuyển cán bộ công chức ngạch giảng viên vào các trường đại học. Số lượng đội ngũ trí thức giảng viên thể hiện ở quy mô lao động, số người trong độ tuổi lao động đang tham gia giảng dạy và nghiên cứu khoa học ở các cơ sở đào tạo đại học, cao đẳng. Số lượng này phụ thuộc vào quy mô đào tạo của các trường và học viện, phụ thuộc vào nhu cầu của người học cũng như nhu cầu của thị trường lao động và sự phát triển của kinh tế- xã hội. 27 1.3.2. Về cơ cấu - Theo bằng cấp chuyên môn (cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ, phó giáo sư, giáo sư) chính là sự phân chia về mặt trình độ chuyên môn theo bằng cấp mà người giảng viên đạt được trong quá trình lao động và học tập nâng cao trình độ của mình. Trình độ chuyên môn theo bằng cấp không chỉ thể hiện năng lực, uy tín khoa học của chính người giảng viên mà còn quyết định đến chất lượng đào tạo cũng như nghiên cứu khoa học của cơ sở giáo dục mà họ công tác. - Theo mức thu nhập: thể hiện sự cao thấp khác nhau trong mức thu nhập của giảng viên. Thu nhập của giảng viên chủ yếu phụ thuộc vào thời gian công tác, tuổi đời, tuổi nghề, lĩnh vực chuyên môn mà họ tham gia lao động, làm việc; đặc thù, tính chất của công việc, vị trí, vai trò cũng như đóng góp của người giảng viên đối cơ sở giáo dục của họ. - Theo giới tính: là sự phân chia đội ngũ cán bộ giảng viên của một cơ sở giáo dục theo tỷ lệ giới tính nam và giới tính nữ trên tổng số giảng viên. Sự cân bằng về giới tính sẽ giúp đội ngũ giảng viên phát huy được hết vai trò của họ trong hoạt động chuyên môn cũng như trong các hoạt động khác của một cơ sở giáo dục. - Theo lứa tuổi: Ở đội ngũ giảng viên yếu tố trí lực đóng vai trò vô cùng quan trọng. Để hoàn thiện và nâng cao trình độ chuyên môn, kinh nghiệm giảng dạy cũng như nghiên cứu, giảng viên cần phải có một khoảng thời gian tích lũy. Do đó tuổi đời, tuổi nghề của đội ngũ giảng viên cũng có những đặc thù riêng so với đội ngũ trí thức lao động trong những lĩnh vực khác. Theo lứa tuổi là sự phân chia đội ngũ giảng viên trong một cơ sở giáo dục thành các nhóm tuổi khác nhau từ trẻ đến già để từ đó đánh giá về sự hợp lý trong cơ cấu tuổi của đội ngũ này. - Theo khu vực (địa phương): Các khu vực đồng bằng, trung tâm đô thị, trung tâm văn hóa, chính trị hay các thành phố lớn thường là nơi tập trung dân 28 cư do đó cũng là nơi có nhiều các cơ sở giáo dục đại học với số lượng lớn giảng viên làm việc tại đây. Thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh hiện nay là hai trung tâm giáo dục đại học của cả nước. Đội ngũ trí thức giảng viên tại hai địa phương này rất đông đảo. Trong khi đó tại các tỉnh, thành ở khu vực miền núi phía Bắc, Duyên hải miền Trung và Tây nguyên số lượng giảng viên ít hơn rất nhiều. - Theo lĩnh vực chuyên môn giảng dạy: Là sự phân chia đội ngũ giảng viên nói chung và đội ngũ giảng viên tại một cơ sở giáo dục nói riêng thành các bộ phận khác nhau theo lĩnh vực chuyên môn mà họ giảng dạy hoặc nghiên cứu. Xét ở mặt tổng thể sự phân chia này phụ thuộc rất nhiều vào nhu cầu về nguồn nhân lực trong từng lĩnh vực kinh tế nhất định, trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Xét ở phạm vi một cơ sở giáo dục thì số lượng giảng viên phụ thuộc vào quy mô đào tạo cụ thể của từng ngành học. 1.3.3. Về chất lượng - Thứ nhất về mặt thể lực, đây là điều kiện cơ bản của một người lao động nói chung và người lao động trí óc nói riêng. Muốn phát huy được trình độ chuyên môn cũng như tâm huyết của mình người giảng viên cần phải có một thể lực tốt, có sức khỏe, có sự dẻo dai và bền bỉ, đáp ứng nhu cầu của công việc và hoàn thành các nhiệm vụ được giao. - Thứ hai về mặt trí lực, về trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn, về năng lực giảng dạy và nghiên cứu khoa học, khả năng tham gia các công tác khác như công tác quản lý, công tác đoàn thể của người giảng viên. Để trở thành một nhà giáo dục, người giảng viên cần phải trình độ chuyên môn từ thạc sỹ trở lên, có năng lực cũng như phương pháp giảng dạy phù hợp với đối tượng người học là sinh viên; có sự hiểu biết về thực tiễn đời sống chính trị - kinh tế - xã hội; có năng lực tổ chức và quản lý lớp học, đánh giá sinh viên, xử lý các tình huống trong giảng dạy; năng lực truyền đạt; kỹ năng xây dựng 29 và phát triển chương trình, sử dụng công nghệ trong giảng dạy... Để trở thành một nhà khoa học, người giảng viên phải không ngừng nghiên cứu và sáng tạo, thể hiện khả năng nghiên cứu của mình thông qua số lượng và chất lượng các ấn phẩm được xuất bản trong các tạp chí khoa học, các hội nghị khoa học trong và ngoài nước; số lượng các đề tài, dự án, các công trình nghiên cứu khoa học tham gia. Để trở thành một nhà cung cấp dịch vụ đòi hỏi người giảng viên phải luôn gắn những nghiên cứu, ứng dụng của mình vào sản xuất, kinh doanh, cung cấp cho thị trường những sản phẩm, dịch vụ khoa học tiến bộ. - Thứ ba về mặt tâm lực: Đó chính là phẩm chất đạo đức, lối sống, nhân cách, trách nhiệm và sự nhiệt tình, tâm huyết với nghề của người trí thức giảng viên. Giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng chính là sự nghiệp "trồng người". Nếu sản phẩm của giáo dục là con người có văn hóa thì sản phẩm của giáo dục đại học là nguồn nhân lực có trình độ văn hóa cao, kỹ năng, tay nghề, chuyên môn và nghiệp vụ vững vàng, có nhân cách và đạo đức tốt, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf02050004700_1_5022_2002789.pdf
Tài liệu liên quan