LỜI CAM ĐOAN .i
MỤC LỤC .ii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT.v
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ .vi
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .vii
PHẦN MỞ ĐẦU.1
CHưƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ HỦY HỢP ĐỒNG NHẬP KHẨU
VÀ NHỮNG RỦI RO ĐỐI VỚI CÁC NHÀ NHẬP KHẨU HÀNG HÓA .10
1.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung và các điều khoản chủ yếu của hợp đồng
nhập khẩu .10
1.1.1. Khái niệm .10
1.1.2. Đặc điểm.11
1.1.3. Nội dung và các điều khoản chủ yếu .11
1.2. Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng nhập khẩu.17
1.2.1. Luật quốc gia .17
1.2.2. Điều ước quốc tế .19
1.2.3. Tập quán thương mại quốc tế .19
1.2.4. Tiền lệ pháp (án lệ) về thương mại .21
1.3. Các điều kiện hiệu lực của hợp đồng .21
1.4. Chế độ trách nhiệm phát sinh trong hợp đồng .23
1.4.1. Các yếu tố cấu thành trách nhiệm .23
1.4.2. Chế độ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng nhập khẩu .24
1.5. Vấn đề hủy hợp đồng nhập khẩu .27
1.5.1. Khái niệm và cơ sở pháp lý của vấn đề hủy bỏ hợp đồng nhập khẩu .
.27
1.5.2. Hậu quả pháp lý phát sinh từ chế tài hủy bỏ hợp đồng .30
1.6. Những rủi ro đối với các nhà nhập khẩu phát sinh từ việc hủy bỏ hợp
115 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 22/02/2022 | Lượt xem: 344 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vấn đề hủy hợp đồng từ phía nhà nhập khẩu và những rủi ro đối với các doanh nghiệp nhập khẩu gỗ nguyên liệu tại thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ản là vi phạm gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho bên bị vi phạm, làm
31
cho bên này không đạt được mục đích khi giao kết hợp đồng. Ngoài ra, Công ước
Viên còn quy định một trường hợp được hủy hợp đồng, đó là khi bên vi phạm
không không thực hiện nghĩa vụ trong thời hạn đã được gia hạn thêm (điều 49
khoản 1 và 64 khoản 1). Trong Luật thương mại 2005 không có quy định tương ứng.
Về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, Công ước Viên 1980 và Luật
thương mại 2005 cho phép thụ trái vi phạm lựa chọn một trong hai biện pháp: sửa
chữa hay thay thế hàng hóa. Luật thương mại 2005 không có quy định gì về vấn đề
này, trong khi đó, Công ước Viên lại nêu rõ, trái chủ chỉ được áp dụng biện pháp
thay thế hàng hóa khi vi phạm của thụ trái cấu thành vi phạm cơ bản, còn trong các
trường hợp khác chỉ trái chủ chỉ được áp dụng biện pháp sửa chữa hàng hóa, loại trừ
khuyết tật của hàng hóa
Về bồi thường thiệt hại, luật Việt Nam và Công ước Viên đều quy định các
thiệt hại được bồi thường bao gồm tổn thất và khoản lợi bị bỏ lỡ mà bên kia đã phải
chịu do hậu quả của sự vi phạm hợp đồng để đền bù sự thiệt hại do vi phạm. Về tính
chất của thiệt hại được bồi thường, Công ước Viên nhấn mạnh đến tính có thể dự
đoán trước của thiệt hại đối với bên vi phạm, còn pháp luật Việt Nam lại nhấn mạnh
tính “trực tiếp” và “thực tế” (điều 302 Luật thương mại 2005). Nguyên tắc hạn chế
tổn thất đều được ghi nhận tại Công ước Viên và Luật thương mại 2005.
Về các trường hợp miễn trách, Công ước Viên và pháp luật Việt Nam có cách
tiếp cận tương tự khi quy định trường hợp bất khả kháng và trường hợp lỗi của bên
bị vi phạm. Ngoải ra, Công ước Viên còn quy định cụ thể về việc miễn trách khi do
lỗi của bên thứ ba (điều 79) trong khi pháp luật Việt Nam chưa có quy định cụ thể
về vấn đề này.
Bên cạnh đó, Công ước Viên còn có khá nhiều quy định chi tiết về biện pháp
giảm giá hàng (điều 50), về cách áp dụng chế tài khi hợp đồng giao hàng từng phần
(điều 71), về việc hủy hợp đồng ngay cả khi chưa đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ
(điều 72), về cách tính tiền bồi thường thiệt hại một cách cụ thể khi hợp đồng bị hủy
(điều 75 và 76), về bảo quản hàng hóa đang tranh chấp (từ điều 85-điều 88).
32
Trong khi đó, pháp luật Việt Nam có quy định thêm hình thức phạt vi phạm
nhằm ngăn ngừa những hành vi vi phạm trong tương lai. Còn Công ước Viên lại
không có quy định về hình thức này, do vậy mà bên vi phạm hợp đồng không phải
chịu chế tài này theo quy định của Công ước Viên.
Tóm lại, liên quan đến các chế tài do vi phạm hợp đồng mà Công ước Viên và
pháp luật Việt Nam cùng quy định, Công ước Viên có các quy định đầy đủ và cụ
thể hơn so với pháp luật Việt Nam. Bên cạnh đó, có vấn đề luật Việt Nam có quy
định nhưng Công ước Viên lại không quy định (như chế tài phạt) và ngược lại. Một
số điểm khác biệt khác cũng cần được lưu ý, như quy định về việc thay thế hàng
hóa không phù hợp.
Tuy vậy, cần khẳng định là những sự khác biệt này không tạo nên mâu thuẫn
đối kháng giữa Công ước Viên 1980 và pháp luật Việt Nam về mua bán hàng hóa
(bởi hai hệ thống này bổ sung cho nhau, mỗi hệ thống được áp dụng cho một loại
hợp đồng riêng).
1.5.2.2. Hình thức trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
theo Công ước Viên 1980
Tiếp tục thực hiện hợp đồng
Khi một bên bi phạm một nghĩa vụ nào đó trong hợp đồng nhưng nếu bên bị vi
phạm vẫn yêu cầu phải thực hiện đúng theo nghĩa vụ đó thì bên vi phạm phải tiếp
thục thực hiện. đó là trường hợp:
Một là khi người bán chậm giao hàng: người mua có thể ra một thời hạn nhất
định để người bán hoàn thành nghĩa vụ và người bán phải thực hiện nghĩa vụ giao
hàng trong thời hạn này. Nếu ko chấp nhận thì người mua có thể hủy hợp đồng và
bồi thường thiệt hại
33
Hai là khi người bán hàng giao hàng thiếu số lương: người mua có quyền yêu
cầu người bán giao hàng bổ sung cho đủ số lượng.
Ba là khi người mua chậm thanh toán: bên vi phạm sẽ phải tiếp tục thực hiện
nghĩa vụ thanh toán đối với bên bị vi phạm; và bên mua còn phải trả thêm lãi suất
cho số tiền chậm thanh toán.
Bốn là người bán giao hàng không phù hợp hoặc không đúng theo quy định
của hợp đồng: người bán phải giao hàng tốt thay thế hoặc người bán phải sửa chữa
khuyết tật trừ khi việc sửa chữa là không hợp lý căn cứ vào tình tiết của sự việc.
Trừ trường hợp người mua không nhận hàng, người bán yêu cầu người mua
phải nhận hàng, nếu trong thời hạn do người bán ấn định mà người mua vẫn không
nhận hàng, người bán buộc phải hủy hợp đồng và đòi bồi thường thiệt hại phát sinh.
Bồi thường thiệt hại
Bên vi phạm hợp đồng phải bồi thường thiệt hại phát sinh cho bên bị vi phạm.
thiệt hại bao gồm:
Tổn thất mà bên bị vi phạm phải gánh chịu
Các thu nhập bị bỏ lỡ do hành vi vi phạm hợp đồng của bên kia
Theo điều 74 thì tiền thiệt hại ko thể cao hơn thiệt hại thực tế và những
khoản đáng lẽ thu được nhưng bị bỏ lỡ là những khoản bên bị vi phạm đã
dự liệu được hoặc đáng lẽ phải dự liệu được vào thời điểm ký hợp đồng
Trường hợp người bán không giao hàng hoặc người mua không nhận
hàng đều dẫn đến hủy hợp đồng. Thiệt hại do hủy hợp đồng đối với bên
bị vi phạm được bên vi phạm bồi thường, một bên chỉ được bồi thường
những thiệt hại thực tế phát sinh từ hành vi vi phạm hợp đồng của bên kia.
Hủy hợp đồng là hình thức trách nhiệm pháp lý cao nhất được áp dụng
khi có vi phạm hợp đồng. Bên bị vi phạm có thể hủy hợp đồng nếu hành
34
vi vi phạm hợp đồng của bên kia tạo thành một vi phạm nghiêm trọng
( khoản 1a điều 49, Khoản 1a điều 64)
Vi phạm nghiêm trọng điều 25
Ngoài ra có thể hủy hợp đồng trong một số trường hợp ở trên đã nói. Bên bị
vi phạm mất quyền hủy hợp đồng nếu họ không làm theo quy định của công ước
viên (điều 49). Người bán cũng mất quyền hủy hợp đồng khi người mua đã trả tiền
mà chậm thực hiện các nghĩa vụ khác( điều 63 khoản 2).
1.6. Những rủi ro đối với các nhà nhập khẩu phát sinh từ việc hủy bỏ hợp đồng.
Việc hủy bỏ chấm dứt hợp đồng nhập khẩu, dù là có sự đồng thuận hay đơn
phương thì đều gây ra những thiệt hại nhất định cho các bên. Vì hợp đồng nhập
khẩu là hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế, nên hủy bỏ chấm dứt hợp đồng
sẽ có nhiều sự phức tạp, đem lại nhiều rủi ro hơn hợp đồng thương mại trong nước,
cả vô hình lẫn hữu hình đối với các bên trong hợp đồng.
Trong thực tế để xem xét những rủi ro, tổn thất cũng như trách nhiệm của các
bên trong vấn đề hủy bỏ hợp đồng nhập khẩu, thì có thể chia làm bốn trường hợp :
Trường hợp thứ nhất : Hủy bỏ hợp đồng nhập khẩu khi chưa xuất hàng, dựa
trên sự thỏa thuận giữa các bên : tức là các bên tham gia kí kết hợp đồng đã thống
nhất ý kiến, đồng thuận hủy bỏ hợp đồng. Hàng hóa cũng chưa được xuất đi từ nước
xuất khẩu. Lúc này vấn đề xem xét nghĩa vụ, quyền lợi và trách nhiệm của các bên
khi hủy bỏ hợp đồng là tương đối nhẹ nhàng và dễ giải quyết.
Trường hợp thứ hai : Hủy bỏ hợp đồng nhập khẩu khi đã xuất hàng, dựa trên
sự thỏa thuận giữa các bên : tức là các bên tham gia kí kết hợp đồng đã thống nhất ý
kiến, đồng thuận hủy bỏ hợp đồng. Hàng hóa đã được xuất đi từ nước xuất khẩu
đang trên đường hoặc đã đến nước nhập khẩu. Lúc này đã phát sinh những thiệt hại
khá rõ rệt và các bên phải cùng nhau thống nhất phương thức giải quyết chung.
35
Trường hợp thứ ba : Hàng chưa xuất, nhà nhập khẩu hủy bỏ hợp đồng nhập
khẩu đơn phương : tức là hủy bỏ hợp đồng không dựa trên sự đồng thuận, mà do
quyết định đơn phương của một bên. Hàng hóa chưa được xuất đi từ nước xuất khẩu
Trường hợp thứ tư : Hàng đã xuất, nhà nhập khẩu hủy bỏ hợp đồng nhập khẩu
đơn phương : tức là hủy bỏ hợp đồng không dựa trên sự đồng thuận, mà do quyết
định đơn phương của một bên. Hàng hóa đã được xuất đi từ nước xuất khẩu, đang
trên đường vận chuyển hoặc đã đến nước nhập khẩu.
Hành động hủy bỏ hợp đồng nhập khẩu có thể gây ra nhiều rủi ro đối với các
nhà nhập khẩu. Từ kinh nghiệm thực tế công việc của tác giả, kết hợp với các ý kiến
đóng góp của chuyên gia (phần Phụ lục 3 ở cuối Luận văn), có thể liệt kê ra những
khía cạnh như sau :
1.6.1. Rủi ro pháp lý
Hủy bỏ hợp đồng nhập khẩu, dù hàng đã xuất hay chưa xuất thì cũng sẽ phát
sinh những thiệt hại nhất định, chỉ là ít hay nhiều. Khác với hủy bỏ hợp đồng nhập
khẩu dựa trên sự đồng thuận của các bên, hủy bỏ đơn phương thường đem lại nhiều
rủi ro pháp lý hơn, đặc biệt là khi hàng đã được xuất đi từ nước xuất khẩu :
Bên xuất khẩu (người bán) phản ứng mạnh mẽ : Việc hủy ngang hợp đồng,
hủy bỏ hợp đồng đơn phương, tất nhiên sẽ gây ra rất nhiều tranh cãi, bởi sự không
tôn trọng thỏa thuận với nhau giữa các bên. Bên xuất khẩu thường sẽ yêu cầu bên
nhập khẩu giải trình lý do, cũng như ép buộc phải tiếp tục thực hiện hợp đồng nhập
khẩu như đã kí kết.
Bên xuất khẩu (người bán) khiếu kiện lên các tổ chức có liên quan tại nước họ
và cả bên phía nhập khẩu: Cũng như ở Việt Nam, các đối tác xuất khẩu ở nước
ngoài, họ thường tham gia những hiệp hội, tổ chức ngành hàng của nước họ và quốc
tế. Khi các mâu thuẫn trong vấn đề hủy bỏ hợp đồng nhập khẩu là không thể giải
quyết được, trước khi tiến hành kiện cáo, họ sẽ đưa vụ việc qua các hiệp hội tổ chức
đó, để kiến nghị tư vấn cũng như tác động tới bên nhập khẩu. Trong rất nhiều
36
trường hợp, hiệp hội và tổ chức ngành hàng sẽ làm trung gian hòa giải giữa hai bên,
đồng thời cũng là bên tư vấn, giúp các bên hiểu rõ vấn đề và tìm hướng giải quyết.
Bên xuất khẩu đòi doanh nghiệp nhập khẩu phải bồi thường thiệt hại : Khác
với hợp đồng nhập khẩu bị hủy bỏ khi hàng chưa được xuất đi, trường hợp hợp
đồng nhập khẩu bị hủy bỏ, hàng đã xuất đang trên đường, hoặc đã tới nước nhập
khẩu, thì dù là hủy bỏ hợp đồng có sự đồng thuận hay đơn phương, cũng đều phát
sinh những thiệt hại khá lớn cho bên xuất. Bên bán thường sẽ phải tìm cách chuyển
bán hàng hóa cho khách hàng khác, đồng thời phải làm lại các hóa đơn chứng từ
xuất hàng, chưa kể phải trả các phí lưu container lưu bãi ở cảng bên nước nhập khẩu
nếu họ không giải quyết, chuyển hàng cho bên khác kịp trong thời hạn Free time
của hãng tàu cho phép (thường container chỉ được để ở cảng đến của nước nhập,
không tính phí, trong thời hạn từ 5-7 ngày).
1.6.2. Rủi ro về uy tín kinh doanh
Rõ ràng khi tiến hành hủy bỏ hợp đồng, tùy theo lỗi của bên nào, thì bên đó sẽ
bị mất uy tín trong kinh doanh. Trong nhiều trường hợp hủy bỏ hợp đồng, lỗi có thể
thuộc về bên xuất khẩu (không sản xuất kịp tiến độ, hoặc không có hàng để xuất
theo như hợp đồng, quy trình kiểm tra chất lượng trước khi xuất hàng phát hiện chất
lượng hàng quá kém, không thể xuất), hoặc bên nhập khẩu (do giá cả, nhu cầu thị
trường biến động lớn, do khó khăn về tài chính.), cũng có nhiều khi do các
trường hợp bất khả kháng như thiên tai (động đất, hỏa hoạn, lũ lụt). Các lỗi bất
khả kháng thì trong hợp đồng thường có ghi, nên khi xảy ra vấn đề hủy bỏ hợp đồng
thường chỉ bắt những lỗi do chủ quan của hai bên.
Trong kinh doanh thương mại quốc tế, nhất là với những nước phát triển trên
thế giới, chữ tín trong kinh doanh luôn được đặt lên hàng đầu. Những đối tác có tên
tuổi, uy tín tốt thường rất dễ dàng trong tiếp cận khách hàng, cũng như gặp nhiều
thuận lợi trong ký kết hợp đồng và nhận được nhiều ưu đãi đối với các phương thức
thanh toán, giá cả, chất lượng, vận chuyển và bảo hiểm hàng hóa.
37
Ngược lại với nhưng doanh nghiệp đã bị đánh giá là kém uy tín hoặc không có
uy tín, họ sẽ rất khó khăn khi tiếp cận thị trường, và nếu như có đối tác muốn hợp
tác với họ, cũng sẽ đòi hỏi phải có những điều khoản chặt chẽ trong hợp đồng,
phương thức thanh toán, vận chuyển và bảo hiểm hàng hóa.
1.6.3. Rủi ro về bảo hiểm hàng hóa và những biện pháp trả đũa từ ngƣời bán
Nhiều trường hợp bên nhập khẩu khi đơn phương hủy bỏ hợp đồng nhập khẩu,
hàng đã xuất đi, đang trên đường hoặc đã đến nước nhập khẩu, thì sẽ phát sinh vấn
đề phải chuyển đổi bảo hiểm cho bên khác, thay vì bên nhập khẩu trong chứng từ
hàng xuất. Và nếu vấn đề này xảy ra từ vài đến nhiều lần, có một số doanh nghiệp
đã bị hãng bảo hiểm từ chối bảo hiểm hàng hóa họ nhập. Thị trường kinh doanh
quốc tế hiện tại, hàng hóa xuất nhập khẩu theo giá CIF (Cost – Insurance – Freight)
là khá phổ biến. Nếu doanh nghiệp nhập khẩu bị từ chối bảo hiểm, họ sẽ khó khăn
khi mua bán giá CIF, cũng như bảo hiểm rủi ro hàng hóa trong quá trình vận chuyển
giữa hai bên.
Hiện do chuyện kiện cáo trong thương mại quốc tế vẫn chưa phải là biện pháp
thường xuyên mà các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thực hiện ở Việt Nam, nên mỗi
khi xảy ra việc hủy bỏ hợp đồng, có một số phương pháp khác vẫn được lựa chọn,
đó là các biện pháp trả đũa, có thể là :
Kiến nghị các hiệp hội, tổ chức của ngành hàng đưa vào danh sách đen
(black list), khiến cho bên hủy hợp đồng mất uy tín và khó khăn trong
hợp tác kinh doanh với các đối tác khác.
Thực hiện các phương thức về thanh toán và hợp đồng chặt chẽ hơn nếu
hai bên còn tiếp tục hợp tác kinh doanh (không cho trả sau bằng T/T, trả
thông qua chứng từ gửi vào ngân hàng nhờ thu D/P, hoặc LC trả chậm,
mà bắt buộc phải thanh toán bằng LC at sight, hoặc đặt cọc (deposit)
thông thường từ 10 % đến 30% giá trị hợp đồng thì mới xuất hàng.
Bên xuất khẩu xếp doanh nghiệp nhập khẩu vào danh sách khách hàng
kém ưu tiên. Nhất là khi hàng hóa trên thị trường khan hiếm, nhu cầu
tăng cao, thì xuất hàng cho các doanh nghiệp đã từng hủy bỏ hợp đồng
38
nhập khẩu, sẽ bị xếp sau các khách hàng uy tín của họ. Giá cả cũng sẽ
phải chấp nhập không có nhiều ưu đãi bằng những khách hàng uy tín đó.
Như vậy nhìn tổng thể, trừ trường hợp lỗi thuộc về phía xuất khẩu hoặc những
nguyên nhân bất khả kháng, thì việc hủy bỏ hợp đồng nhập khẩu sẽ đem lại khá
nhiều rủi ro cho các nhà nhập khẩu. Họ có thể đứng trước các rủi ro pháp lý, bị kiện
cáo, bị yêu cầu bồi thường thiệt hại.. Đồng thời uy tín kinh doanh trên thương
trường cũng bị ảnh hưởng, và đôi khi phải chịu những biện pháp mang tính trả đũa
của bên xuất khẩu nếu còn tiếp tục hợp tác kinh doanh sau này.
Chính vì vậy, trong ký kết hợp đồng nhập khẩu, nhà nhập khẩu phải có những
tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng về nhu cầu, cũng như các dự đoán về thị trường, giá cả,
về tài chính của doanh nghiệp, để thực hiện hợp đồng một các thuận lợi, tránh
những khó khăn có thể khiến hợp đồng bị trở ngại, hoặc hủy bỏ ngoài ý muốn của
các bên.
Như vậy, chương 1 của Luận văn đã đưa ra hệ thống lý thuyết tổng thể về
những vấn đề trọng tâm của đề tài, đó là lý thuyết về hợp đồng nhập khẩu, vấn đề
hủy bỏ hợp đồng nhập khẩu, cùng với những chế tài pháp luật và rủi ro có liên
quan cho các bên tham gia hợp đồng. Đây chính là những nền tảng quan trọng, làm
tiền đề để tác giả bước vào phân tích một cách cụ thể thực trạng hủy bỏ hợp đồng
nhập khẩu ở các doanh nghiệp nhập khẩu gỗ nguyên liệu tại thành phố Hồ Chí
Minh trong chương 2, dựa theo những cơ sở lý thuyết đã nghiên cứu trong chương
1 này.
39
CHƢƠNG 2: PHÂN TÍCH NHỮNG RỦI RO ĐỐI VỚI CÁC DOANH
NGHIỆP NHẬP KHẨU GỖ NGUYÊN LIỆU TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH PHÁT SINH TỪ VIỆC HỦY BỎ HỢP ĐỒNG NHẬP KHẨU
2.1. Sơ lƣợc về tình hình nhập khẩu gỗ nguyên liệu tại thành phố Hồ Chí Minh
thời gian qua
2.1.1. Kim ngạch và khối lƣợng nhập khẩu
Gỗ nguyên liệu nhập khẩu vào thị trường Việt Nam thường chia làm 2 loại
chính : Gỗ cây (thân gỗ dạng tròn hoặc thân gỗ đã đẽo vuông thô) và gỗ xẻ (đã được
xẻ tấm thành những quy cách cụ thể).
Bảng 2.1 : Khối lƣợng và kim ngạch nhập khẩu gỗ nguyên liệu ở Việt
Nam (giai đoạn 2013-2018)
Năm
Gỗ tròn, đẽo vuông thô Gỗ xẻ
Triệu
m3
Triệu
USD
Triệu
m3
Triệu
USD
2013 1.14 426.6 1.62 802.4
2014 1.42 505.7 2.01 1,212.9
2015 1.69 511.9 2.22 1,147.5
2016 1.88 537.3 1.85 749
2017 2.24 668.4 2.18 879
2018 2.28 698.12 2.41 928.97
Nguồn: Tác giả tổng hợp số liệu từ các phân tích của VIFORES, HAWA và
Hải quan Việt Nam
Do các doanh nghiệp nhập khẩu gỗ nguyên liệu tại thành phố Hồ Chí Minh
không có nhiều lợi thế về mặt bằng nhà xưởng cũng như nhân công để tiến hành
cưa xẻ gỗ, nên lượng nhập khẩu gỗ tròn / đẽo vuông thô của Việt Nam chủ yếu nhập
về các công xưởng ở miền Trung, miền Bắc và một số tỉnh lân cận như Bình Dương,
Đồng Nai... Lượng gỗ tròn nhập về những năm gần đây thường chỉ chiếm một tỉ lệ
thấp (trung bình 5-7% số lượng và 7-8% kim ngạch của cả nước), khi nhập về cũng
sẽ phân phối bán lại cho các xưởng cưa xẻ gỗ ở các tỉnh khác. Trong khi đó các
40
doanh nghiệp nhập khẩu gỗ nguyên liệu trên địa bàn chủ yếu tập trung vào nhập
khẩu gỗ đã xẻ sẵn thành nhiều quy cách, để bán cho các công ty sản xuất đồ gỗ
trong thành phố và các vùng xung quanh. Lượng nhập khẩu gỗ xẻ nguyên liệu của
thành phố Hồ Chí Minh lại chiếm tỉ lệ khá lớn hàng năm trung bình khoảng 10-12%
số lượng và 13-15% kim ngạch nhập gỗ xẻ nguyên liệu của cả nước.
Lượng nhập khẩu gỗ nguyên liệu, của cả nước nói chung và thành phố Hồ Chí
Minh nói riêng , đều có xu hướng tăng qua hàng năm. Nhưng do giá gỗ có những
biến động khá thất thường vài năm gần đây, nên giá trị kim ngạch nhập khẩu có
năm lại có xu hướng giảm xuống.
Bảng 2.2 : Khối lƣợng và kim ngạch nhập khẩu gỗ nguyên liệu của các
doanh nghiệp nhập khẩu gỗ nguyên liệu tại thành phố Hồ Chí Minh (giai đoạn
2013-2018)
Gỗ tròn, đẽo vuông thô Gỗ xẻ
Năm Ngàn m3 Triệu USD Ngàn m3 Triệu USD
2013 70 29.9 194.4 120.36
2014 85.2 35.4 241.2 181.94
2015 101.4 35.8 266.4 172.13
2016 112.8 32.2 222 112.35
2017 134.4 40.1 337.2 131.85
2018 149.4 42.9 342.6 139.34
Nguồn: Tác giả tổng hợp số liệu từ các phân tích của VIFORES, HAWA,
Hải quan Việt Nam và tạp chí Gỗ Việt năm 2017-2018
Giá cả gỗ nguyên liệu nhập khẩu tăng giảm thất thường do cung cầu gỗ trên
thị trường thế giới không ổn định, nguyên nhân bởi những yếu tố như sau :
Gỗ tự nhiên ngày càng ít đi, do khai thác nhiều, trồng rừng chậm
Gỗ rừng trồng phát triển cũng rất chậm, khai thác theo mùa vụ
41
Đơn hàng đồ gỗ từ các thị trường xuất khẩu lớn như Mỹ, Nhật, Châu Âu
gần đây khá thất thường, không thực sự ổn định.
Các chính sách về chứng chỉ quản lý rừng hợp pháp (FSC, PEFC) cũng là
trở ngại không nhỏ ảnh hưởng đến nhập khẩu gỗ nguyên liệu
Chính sách xuất nhập khẩu gỗ tròn – gỗ xẻ, kiểm dịch thực vật ở từng nước
đôi khi khá khác biệt nhau. Nhiều nước còn cấm xuất khẩu gỗ tròn và một số
chủng loại gỗ (tròn, xẻ) đặc thù.
Nền kinh tế, tài chính, sự ổn định chính trị của nhiều nước trên thế giới trong
những năm gần đây cũng không có nhiều sự tương đồng. Nhiều thị trường
lâm vào cảnh khó khăn. Chiến tranh thương mại Mỹ Trung cũng đang khiến
nhiều doanh nghiệp gặp khó.
Khi nhu cầu thị trường tăng cao, giá gỗ tăng mạnh, và khi nhu cầu thị trường
xuống thấp, các nhà máy xẻ gỗ ở nước ngoài họ phải điều chỉnh giảm giá mạnh để
đẩy hàng tồn trong kho. Bởi số đông các khách hàng mua gỗ xẻ nguyên liệu để làm
đồ gỗ xuất khẩu nên họ không chấp nhận mua gỗ quá cũ (cắt xẻ để trong kho quá 1
năm).
Các doanh nghiệp nhập khẩu gỗ nguyên liệu tại thành phố Hồ Chí minh cũng
chia thành 3 loại :
Một là nhập khẩu để sản xuất, gia công đồ gỗ bán trong nước và xuất khẩu
Hai là nhập khẩu để thương mại, bán gỗ nguyên liệu cho các doanh nghiệp khác
Ba là kết hợp cả hai trường hợp trên, nhập khẩu gỗ nguyên liệu về, vừa để sản
xuất gia công đồ gỗ, vừa bán gỗ nguyên liệu cho các doanh nghiệp khác
Các doanh nghiệp nhập khẩu gỗ xẻ nguyên liệu để gia công đồ gỗ bán trong
nước hoặc xuất khẩu thường chiếm 50-55% lượng nhập hàng năm. Còn lại nhập
khẩu để thương mại, lại chia ra làm 2 nhánh :
Một nhánh là các doanh nghiệp có kho bãi : nhập gỗ về có thể bán nguyên
container hoặc bán lẻ từng kiện nhỏ lưu trữ trong kho.
42
Một nhánh là các doanh nghiệp không có kho bãi : thường họ sẽ đi chào bán gỗ
ngay từ khi nhận được chứng từ vận chuyển của nhà cung ứng (gỗ vẫn đang trên
đường vận chuyển về Việt Nam). Gỗ về đến cảng thành phố Hồ Chí Minh là họ
nhận container và giao thẳng cho khách luôn. Chính do đặc thù này, khi giá cả , nhu
cầu của thị trường bị sụt giảm, các doanh nghiệp thương mại không có kho bãi sẽ
gặp rất nhiều khó khăn nếu hàng về cảng mà không thể chào bán và giao thẳng cho
khách, thậm chí không bán được, phải đi tìm thuê kho lưu trữ gỗ. Và nếu quá trình
làm thủ tục hải quan chậm trễ, họ có thể phải trả phí lưu container với một con số
không nhỏ.
2.1.2. Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu
2.1.2.1. Gỗ tròn / đẽo vuông thô
Biểu đồ 2.3 : Các loại gỗ tròn đẽo vuông thô nhập khẩu chủ yếu vào Việt
Nam giai đoạn 2015-2017
Nguồn: Phân tích của VIFORES, HAWA, FOREST TRENDS và số liệu Hải
quan Việt Nam
43
Cơ cấu mặt hàng gỗ tròn / đẽo vuông thô nhập khẩu của các doanh nghiệp
nhập khẩu gỗ nguyên liệu tại thành phố Hồ Chí Minh, có một số khác biệt so với cơ
cấu của cả nước, cụ thể chủ yếu là các chủng loại chính như sau :
Gỗ lim : Chiếm khoảng 9-11% tổng lượng nhập gỗ tròn / đẽo vuông thô của
các doanh nghiệp nhập khẩu gỗ nguyên liệu tại thành phố Hồ Chí Minh.
Lượng nhập khẩu trên cả nước trong vài năm trở lại đây, từ khoảng 323,000
m3 năm 2015 lên tới gần 412,000 m3 năm 2016 và giảm nhẹ, còn khoảng
406,600 m3 năm 2017. Đến năm 2018 thì lại tăng lên 419,000 m3
Gỗ sồi trắng : nhìn vào cơ cấu của cả nước thì có thể thấy gỗ sồi tròn / đẽo
vuông thô chiếm một tỉ lệ thấp. Nhưng đây lại là chủng loại gỗ rất được ưa
thích, có tỉ lệ chiếm đến 17-19% tổng lượng nhập khẩu của các doanh nghiệp
nhập khẩu gỗ nguyên liệu tại thành phố Hồ Chí Minh.
Gỗ tần bì : trong tổng lượng nhập khẩu gỗ tròn / đẽo vuông thô của cả nước
thì gỗ tần bì còn thấp hơn gỗ lim . Nhưng đây cũng là loại gỗ tròn / đẽo
vuông thô được các doanh nghiệp nhập khẩu gỗ nguyên liệu tại thành phố
Hồ Chí Minh nhập khá nhiều, chiếm đến 16-18% , cao hơn hẳn gỗ lim
Gỗ gõ đỏ : cũng là loại gỗ tròn / đẽo vuông thô khá được ưa chuộng, thường
chiếm 7-9% tổng lượng nhập khẩu gỗ tròn / đẽo vuông thô của các doanh
nghiệp nhập khẩu gỗ nguyên liệu tại thành phố Hồ Chí Minh
Gỗ xoan đào : gỗ xoan đào tròn / đẽo vuông thô những năm gần đây thường
chiếm 6-8% tổng lượng nhập khẩu gỗ tròn / đẽo vuông thô của các doanh
nghiệp nhập khẩu gỗ nguyên liệu tại thành phố Hồ Chí Minh
Cẩm lai : chiếm tỉ lệ khoảng 4-5% tổng nhập
Gỗ dầu : đây là loại gỗ tròn / đẽo vuông thô có tỉ lệ nhập khẩu giảm rất mạnh.
Giai đoạn từ 2013-2015, các doanh nghiệp nhập khẩu gỗ nguyên liệu ở thành
phố Hồ Chí Minh thường nhập gỗ dầu chiếm tỉ lệ tới 20-25% tổng nhập thì
nay chỉ còn 8-10%.
Gỗ bạch đàn : đây cũng là loại gỗ tròn / đẽo vuông thô có tỉ lệ nhập khẩu
giảm mạnh. Hiện các doanh nghiệp nhập khẩu gỗ nguyên liệu ở thành phố
Hồ Chí Minh chỉ nhập khẩu ở mức 4-6% so với tổng lượng nhập khẩu gỗ
tròn / đẽo vuông thô của thành phố.
44
Gỗ hương : lượng nhập khẩu tăng mạnh năm 2016, chiếm đến 17% tổng
lượng nhập trên địa bàn, nhưng đến nay cũng chỉ còn duy trì ở mức 3-4%
Gỗ tạp thuộc nhóm gỗ từ 5 đến 8 : chiếm 4-5% tổng lượng nhập khẩu gỗ
tròn / đẽo vuông thô của các doanh nghiệp nhập khẩu gỗ nguyên liệu ở thành
phố Hồ Chí Minh.
Các chủng loại gỗ khác : chiếm khoảng 5% tổng nhập.
Biểu đồ 2.4 : Cơ cấu mặt hàng gỗ tròn đẽo vuông thô , do các doanh
nghiệp nhập khẩu gỗ nguyên liệu tại thành phố Hồ Chí Minh nhập về
giai đoạn 2017-2018
Nguồn : Tác giả tổng hợp theo phân tích của khách hàng, HAWA , tạp chí Gỗ
Việt năm 2017-2018
11%
19%
18%
9%
8%
5%
10%
4%
6%
5%
5%
Gỗ lim
Gỗ sồi
Gỗ tần bì
Gỗ gõ đỏ
Gỗ xoan đào
Gỗ cẩm lai
Gỗ dầu
Gỗ hương
Gỗ bạch đàn
Gỗ tạp
Gỗ khác
45
2.1.2.2. Gỗ xẻ
Cơ cấu chủng loại gỗ xẻ nhập khẩu ở các doanh nghiệp nhập khẩu gỗ nguyên
liệu tại Việt Nam cũng như thành phố Hồ Chí Minh đã thay đổi khá nhiều trong
vòng hơn 5 năm trở lại đây.
Theo những số liệu nhập khẩu gỗ xẻ trong cả nước từ năm 2013 đến 2015, có
thể thấy các loại gỗ xẻ quý hiếm như gỗ lim, hương, cẩm chiếm một tỉ trọng rất
cao. Tuy nhiên xu hướng này đã thay đổi kể từ năm 2016, và thay đổi rõ rệt từ năm
2017. Khi nguồn cung các loại gỗ xẻ quý hiếm ngày càng hạn chế, thậm chí cạn kiệt,
đồng thời cơ cấu sản phẩm đồ gỗ cũng chuyển dịch sang những sản xuất những loại
sản phẩm giá thành cạnh tranh hơn do thị trường khó khăn, thì gỗ xẻ công nghiệp,
gỗ xẻ có giá trị thấp hơn lại có lượng nhập tăng cao.
Biểu đồ 2.5 : Những loại gỗ xẻ nhập khẩu chủ yếu vào thị trƣờng Việt
Nam trong năm 2017 (đơn vị m3)
Nguồn: Phân tích của VIFORES, FPA BD, HAWA,FOREST TRENDS và số
liệu Hải quan Việt Nam
46
Bảng nhập khẩu về Việt Nam các chủng loại gỗ xẻ về số lượng và kim ngạch
năm 2017 đã chỉ ra sự thay đổi rõ rệt, khi gỗ xẻ công nghiệp (gỗ thông, dương, sồi
trắng, sồi đỏ ) tăng mạnh, các loại gỗ quý hiếm thì sụt giảm nhiều. Xu hướng đó
vẫn đang duy trì đến hiện nay.
Bảng 2.6: Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu gỗ xẻ nguyên liệu ở một số doanh
n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_van_de_huy_hop_dong_tu_phia_nha_nhap_khau_va_nhung.pdf