MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Mục lục 1
MỞ ĐẦU 4
1. Lý do chọn đề tài 4
2. Mục đích nghiên cứu 6
3. Hướng tiếp cận và phương pháp nghiên cứu 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 9
5. Đóng góp của luận án 10
6. Cấu trúc luận án 10
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 11
1.1. Một số thuật ngữ cơ bản 11
1.1.1. Đàng Trong – danh xưng miền đất mới 11
1.1.2. Văn học Đàng Trong 14
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 16
1.2.1. Văn học Đàng Trong và các công trình nghiên cứu văn học sử 16
1.2.2. Văn học Đàng Trong như một đối tượng khảo sát chuyên biệt 25
Chương 2. VĂN HÓA – XÃ HỘI ĐÀNG TRONG THẾ KỶXVII - XVIII37
2.1. Nho học vùng đất mới và những dấu tích văn chương 37
2.1.1. Mô hình Nho giáo không thuần nhất: điều kiện để văn
chương phát triển theo xu thế tự nhiên37
2.1.2. Học phong không chuộng từ chương cử nghiệp: điều kiện để
văn học Nôm phát triển43
2.2. Sự đặc biệt trong thành phần cư dân: ưu thế vượt trội cho việc phát
triển các loại hình văn học diễn đạt bằng hình thức dân gian46
2.3. Xã hội thị dân: tiền đề cho sức trẻ của văn học Đàng Trong 482
Chương 3. VĂN HỌC ĐÀNG TRONG XÉT TRONG MỐI TưƠNG
QUAN VỚI VĂN HỌC ĐÀNG NGOÀI THẾ KỶ XVII – XVIII53
3.1. Lược thảo tiến trình văn học Đàng Trong 54
3.1.1. Từ đầu thế kỷ XVII đến năm 1672 54
3.1.2. Từ năm 1673 đến năm 1777 56
3.1.3. Từ năm 1778 đến năm 1802 63
3.2. Tương quan với văn học Đàng Ngoài: nhìn từ phương diện đội
ngũ tác giả65
3.2.1. Nhà nho gốc Việt 66
3.2.2. Nhà nho gốc Minh hương 71
3.3. Tương quan với văn học Đàng Ngoài: nhìn từ phương diện nội
dung phản ánh76
3.3.1. Đề vịnh thiên nhiên 76
3.3.2. Tố cáo hiện thực 83
3.4. Tương quan với văn học Đàng Ngoài: nhìn từ phương diện thể loại 87
3.4.1. Sự phát triển song hành những thể loại truyền thống ở cả hai
Đàng (thơ, phú, văn tế, tiểu thuyết chương hồi, truyện Nôm)87
3.4.2. Lối đi riêng của văn học Đàng Trong với những thể loại đặc
thù phương Nam (vãn, vè, tuồng)92
3.5. Tương quan với văn học Đàng Ngoài: nhìn từ phương diện ngôn ngữ 100
Chương 4. VAI TRÒ CỦA VĂN HỌC ĐÀNG TRONG ĐỐI VỚI
VĂN HỌC DÂN TỘC108
4.1. Hoàn chỉnh bản đồ văn học Việt 108
4.1.1. Đào Duy Từ và sự hình thành trung tâm văn học Thuận - Quảng 110
4.1.2. Mạc Thiên Tích, Chiêu Anh các và trung tâm văn học Hà Tiên 114
4.1.3. Gia Định tam gia và trung tâm văn học Gia Định 123
4.2. Sáng tạo hình tượng văn học mới (người hào kiệt, người anh
hùng thời loạn)128
4.3. Khởi đầu hai thể loại tự sự trường thiên (tiểu thuyết chương hồi
và truyện Nôm bác học)1313
KẾT LUẬN 137
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN141
TÀI LIỆU THAM KHẢO 142
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Văn học Đàng trong thế kỷ XVII - XVIII trong tiến trình phát triển của văn học dân tộc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trị rồi kế đó là những di dân người Hoa
di trú vì lý do kinh tế. Năm 1679, Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch đem ba
nghìn bộ chúng Hoa Nam tới Quảng Nam xin quy phụ và được cho vào cư trú ở
Biên Hòa, Mỹ Tho. Năm 1708, nhóm Mạc Cửu định cư ở Hà Tiên xin quy phụ Hiển
tông Phước Châu, được trao chức Tổng binh, cho giữ trấn Hà Tiên. Được gọi bởi
một tên chung là người Minh hương, họ đã đưa đến những tác động tích cực nhiều
mặt đối với quốc phòng, kinh tế, xã hội, văn hóa và cả văn học Đàng Trong khi
đó Ở đây, chúng tôi chỉ đề cập đến những tác giả - trí thức nhà nho gốc Minh
69
hương thuộc thời kỳ văn học Đàng Trong như Mạc Thiên Tích và nhiều tác giả
trong thi phái Chiêu Anh các, hoặc những người dù sáng tác chủ yếu dưới thời kỳ
nhà Nguyễn nhưng sinh ra, lớn lên, học tập, trưởng thành và hình thành thế giới
quan, nhân sinh quan từ thời kỳ Đàng Trong như Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn Tịnh.
Mạc Thiên Tích (1706 - 1780), lúc đầu là Thiên Tứ, tiểu danh là Tông, tự Sĩ
Lân, con trưởng của Tổng binh Hà Tiên Mạc Cửu. Sau khi cha chết, Thiên Tích
được tập tước, giữ chức Đô đốc trấn thủ Hà Tiên, quyền hạn rộng rãi. Ông không
chỉ có công đầu trong việc khai sơn phá thạch, đuổi sấu, bắt thuồng luồng, mà còn
biến vùng đất cô tịch này thành một danh thắng không những trong thực tế mà cả
trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật với danh xưng được sử sách tôn vinh là “văn
hiến quốc”. Là một nhà chính trị đa tài, lại là một văn sĩ nổi tiếng, Mạc Thiên Tích
đã gọi mời kẻ sĩ bốn phương, mở Chiêu Anh các (1736), trước hết để đàm văn luận
võ. Sau nữa, Chiêu Anh các còn lập Văn miếu thờ Khổng tử; dựng nhà nghĩa học,
truyền thụ lễ nghĩa thi thư cho những thanh niên tuấn tú cùng học trò nghèo khó
khắp vùng. Do vậy, Chiêu Anh các không chỉ đơn thuần là một tao đàn thi xã mà
còn là một tổ chức hoạt động văn hóa xã hội góp phần vào sự phát triển, canh tân
văn hóa của xứ sở Hà Tiên.
Riêng trong lĩnh vực sáng tác văn chương, theo các tư liệu hiện còn, được
biết, Chiêu Anh các đã có ít nhất bảy tác phẩm khắc in. Trong bài tựa sách Minh
Bột di ngư trùng bản (khắc in năm 1821), Trịnh Hoài Đức kể ra: Hà Tiên thập cảnh
toàn tập, Minh Bột di ngư thi thảo, Hà Tiên vịnh vật thi tuyển, Châu thị trinh liệt
tặng ngôn, Thi truyện tặng Lưu tiết phụ, Thi thảo cách ngôn vị tập [192, tr. 9]. Sách
Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn, ngoài Hà Tiên thập vịnh còn nhắc tới bản in Thụ
Đức hiên tứ cảnh [37, tr. 237]. Trong đó Hà Tiên thập cảnh toàn tập (tức Hà Tiên
thập vịnh bằng chữ Hán), có 320 bài thơ Đường luật của 32 người
1
; Minh Bột di
ngư của Mạc Thiên Tích có 30 bài thơ và 01 bài phú; Thụ Đức hiên tứ cảnh có 88
bài thơ Đường luật hồi văn thuận nghịch độc của 32 người [142, tr. 302].
Điều đáng nói là trong số “tam thập lục kiệt”
2
của tao đàn, chỉ có 6 vị là
người Việt, còn 30 vị nữa là người Minh hương - có thể là người Hoa sinh ra tại
1 Chưa kể 10 bài họa lại của Nguyễn Cư Trinh vào năm 1757, được Lê Quý Đôn chép trong sách Phủ biên tạp lục; và
10 bài của Dư Tích Thuần mang đầy khẩu khí “thiên triều” nên không được Mạc Thiên Tích cho in.
2 Theo Đông Hồ, không thể căn cứ vào số lượng 31 người họa lại 10 bài vịnh Hà Tiên của người thủ xướng Mạc Thiên
Tích mà nhầm lẫn Chiêu Anh Các có 31 người. Thực ra, còn 5 vị nữa có đăng tên trong danh sách Chiêu Anh các mà
70
nước Việt (có người ở Hà Tiên, có người từ Thuận Quảng, Gia Định), hoặc người
Trung Hoa từ chính quốc sang (chủ yếu là hai tỉnh Quảng Đông, Phúc Kiến), vì
hâm mộ thanh danh Chiêu Anh các, cảm mến phong lưu tài vận đất Hà Tiên mà tìm
đến. Mặc dù khai sinh tại xứ sở Đàng Trong, nhưng nói như Đông Hồ thì “trong
Chiêu Anh các người Tàu là chủ mà người Việt là khách” [60, tr. 49]. Dù được hình
thành tương đối ngẫu nhiên về lực lượng sáng tác nhưng “đây vẫn là một bộ phận
trong văn học Hán Nôm Việt Nam” [142, tr. 304]
1
. Trên thực tế, các yếu tố nghệ
thuật Hoa Nam đã được tiếp thu một cách chủ động và có ý thức để tuyên truyền
cho một Hà Tiên ở tây thùy viễn tái, một Hà Tiên dù cách bức về không gian - địa
lý nhưng vẫn là một phần lãnh thổ của Việt Nam. Nếu như Hà Tiên thập vịnh “phản
ánh văn chương về chặng đầu trong quá trình Việt hóa về mặt chính trị của con
cháu các di thần phản Thanh phục Minh người Hoa ở Đàng Trong thế kỷ XVIII”
[142, tr. 304] thì Minh Bột di ngư là một “tuyên ngôn Việt hóa” của Mạc Thiên
Tích và lớp hậu duệ các di thần phản Thanh phục Minh Hoa Nam qua tỵ nạn chính
trị ở Đàng Trong thế kỷ XVII – XVIII, khi mối quan hệ với không gian xã hội này
đã thúc đẩy họ “chủ động và vĩnh viễn vùi chôn „tâm sự di thần‟” [142, tr. 305]. Tới
đây, văn học Đàng Trong đã tiếp nhận thêm một nguồn lực quan trọng, giúp nó vừa
duy trì được mối liên hệ với văn học viết truyền thống vừa tiếp thu thêm nhiều yếu
tố “quốc tế” trong hoàn cảnh khu vực lúc ấy. Hết sức đặc biệt là, Chiêu Anh các
không chỉ có sức ảnh hưởng trong sinh hoạt văn học Đàng Trong và trong một bộ
phận văn nhân Trung Hoa - những người có ít nhiều liên hệ với nhau về vốn văn
hóa, tri thức mà còn được rất nhiều nhà nho Đàng Ngoài tán thưởng, dù về mặt
quan điểm chính trị, họ đứng ở “hai đầu chiến tuyến”, như: Lê Quý Đôn, Phạm
Nguyễn Du (thế kỷ XVIII), Phan Huy Chú, Nguyễn Trọng Hợp (thế kỷ XIX) Để
có được sức ảnh hưởng đó, chắc hẳn sáng tác của tao đàn này phải có một “điểm
gặp gỡ” nào đó với tâm thế sáng tác và thưởng ngoạn văn chương của các thi nhân
Đàng Ngoài; nói cách khác, lúc này, văn chương Đàng Trong nói chung và thi
phẩm của Chiêu Anh các nói riêng, chắc chắn phải có những yếu tố vượt qua tính
chất “địa phương” của một vùng văn học và hòa vào mệnh mạch chung của văn học
không thấy thơ họa [xem thêm: Đông Hồ (1970), Văn học miền Nam, Văn học Hà Tiên, Chiêu Anh các – Hà Tiên thập
cảnh khúc vịnh, Xuất bản Quình Lâm, Viện Văn nghệ - Hiên Biên khảo, Sài Gòn, tr. 58].
1 Về việc sáng tác của Chiêu Anh các có được coi là văn học Việt hay không, xem thêm mục 4.1.2: “Mạc Thiên Tích,
Chiêu Anh các và trung tâm văn học Hà Tiên”.
71
dân tộc, làm phong phú cho văn học dân tộc, thậm chí có những thành tựu tác động
dội ngược lại văn học truyền thống.
Ngoài Mạc Thiên Tích và nhóm Chiêu Anh các ở Hà Tiên, trong các nhóm
người Hoa ở Đàng Trong trước năm 1755 cũng có những tác giả như Trần Thoại
(mà theo Cao Tự Thanh, nhiều khả năng chính là Trần Đại Định – con Trần Thượng
Xuyên) với một số bài thơ được Phạm Nguyễn Du trích trong Nam hành ký đắc tập.
Nhân vật này tuy là Tổng binh, nhưng lại có phong cách rất tao nhân, và qua lời thơ
trong Tự vấn, Tân trúc điếu đài, Túy khách ngâm, cũng có thể ít nhiều thấy được
đời sống tâm tình của một số tướng lĩnh quý tộc kiêm thương nhân địa chủ người
Hoa ở vùng Lục Châu trước khi Tây Sơn khởi nghĩa: tâm lý tự hào và thỏa mãn của
những người khẳng định được vai trò xã hội của mình trong một không gian sống
mới, một không gian xã hội không chỉ giới hạn trong quan hệ giữa những người Hoa.
Sau khi Tây Sơn khởi nghĩa (1771) và xác lập vương triều vào năm 1778,
đồng thời quân Lê - Trịnh do Hoàng Ngũ Phúc chỉ huy vượt sông Gianh, chiếm Phú
Xuân (1774 - 1775), đánh đuổi tập đoàn chúa Nguyễn vào Gia Định, nhiều quan lại,
tướng lĩnh và quân sĩ người Thuận Quảng đã chạy theo chúa Nguyễn Phước Thuần
vào Nam. Cùng với đó, một số nhà nho, nhân dân tránh chiến tranh ở miền Trung
cũng tìm vào sống ở khu vực Đồng Nai – Gia Định, vô hình trung góp phần vào sự
phát triển văn hóa của địa phương. Tuy nhiên, cũng phải đến khi “Sơn hội Gia
Định” được thành lập với các nhà thơ Chỉ Sơn Trịnh Hoài Đức, Nhữ Sơn Ngô Nhơn
Tịnh, Kỳ Sơn Diệp Minh Phụng, Phục Sơn Vương Kế Sinh, Hối Sơn Huỳnh Ngọc
Uẩn vào đầu những năm 80 của thế kỷ XVIII, lực lượng trí thức ở địa phương
mới chính thức tách ra như một tầng lớp riêng biệt với những sinh hoạt văn hóa – xã
hội độc lập. Từ thời điểm này, văn học Hán Nôm ở Gia Định mới thực sự ra đời,
với một lực lượng sáng tác - tầng lớp trí thức có khả năng cũng như nhu cầu sáng
tác văn học viết. Nổi bật trong số đó là ba tên tuổi: Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn Tịnh,
Lê Quang Định, được người đời tôn xưng là “Gia Định tam gia” – ba văn nhân
không chỉ sinh trưởng, thành danh ở Gia Định, mà còn là những người viết nhiều
nhất về Gia Định, tái hiện, làm sống dậy tất cả hồn cốt, sinh khí của đất Gia Định.
Cùng với những văn nhân khác như Huỳnh Ngọc Uẩn, Võ Trường Toản sáng tác
của Gia Định tam gia đã góp phần vào việc đưa văn học Hán Nôm Gia Định hòa
nhập vào với văn học dân tộc.
72
Đặc biệt là, trong các gương mặt văn nhân - văn hóa tiêu biểu của đất Gia
Định thuở ấy, nổi bật lên nhiều tên tuổi là người gốc Minh hương như Võ Trường
Toản - vị xử sĩ đã đào tạo được nhiều môn đồ tài năng như Trịnh Hoài Đức, Ngô
Nhơn Tịnh, Huỳnh Ngọc Uẩn Toàn bộ thành viên trong nhóm Sơn hội đều là
người Minh hương. Trong số ba nhân vật lỗi lạc - Gia Định tam gia, thì đã có tới hai
người gốc Minh hương (Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn Tịnh). Cụ nội tổ Trịnh Hoài
Đức đến miền Nam nước Việt từ đời chúa Nguyễn Phước Tần (1648 - 1687), lúc
đầu ở Phú Xuân, sau chuyển vào Trấn Biên; đến đời Trịnh Hoài Đức thì chuyển về
ngụ tại Phiên An (sau này là tỉnh Gia Định). Thế mà trong các nhà văn, nhà thơ thế
kỷ XVII - XVIII ở Nam Bộ, “ít có người nào có vốn sống và hiểu biết phong phú về
đất Đồng Nai, Gia Định như Trịnh Hoài Đức” [54, tr. 53]. Gia Định thành thông chí
của ông là một trong những cuốn sách dư địa chí lớn của nước ta thời trung đại, cho
biết nhiều điều lý thú và bổ ích về lịch sử, đất nước và con người Đồng Nai, Gia
Định xưa. Thối thực truy biên
1
có 127 bài thơ thì có tới 30 bài viết về Gia Định
2
...
Ngô Nhơn Tịnh người gốc Quảng Tây, tổ phụ chạy trốn triều Mãn Thanh, sang cư
trú ở Gia Định. Vì đã coi Việt Nam là tổ quốc của mình nên khi đi sứ Trung Hoa,
ông vẫn luôn đau đáu một nỗi niềm nhớ nước thương nhà: “Thân tại cõi Bắc, lòng ở
nước Nam/ Nước chảy về biển Đông, trăng lặn phía Tây; Nước sông chảy kiệt liệt
người xa quê/ Mai núi nở hết lòng nhớ vườn cũ” [41, tr. 15]; căng cắng hoài bão
“báo quốc”: “Báo quốc đan tâm tận/ Tư hương bạch phát tân” (Báo quốc hết lòng
son/ Nhớ quê thêm tóc bạc) [41, tr. 437] Điều đó một lần nữa chứng tỏ, những
người Minh hương đã thực sự vượt thoát ra khỏi tâm sự “di thần”, hòa nhập vào
cuộc sống của người dân bản xứ. Nơi đây cũng đã trở thành quê hương, thành tổ
quốc, thành một phần hồn thiêng liêng trong tâm khảm họ. Thế nên mới có chuyện
Mạc Thiên Tích thậm chí đã quên cả lý tưởng “nghĩa bất thần Thanh” của tiên quân
Mạc Cửu, mà tâu với Duệ tông Phước Thuần tình nguyện xin qua Quảng Đông cầu
viện nhà Thanh giúp quân tiêu diệt Tây Sơn, thu hồi cương thổ. Rõ ràng, lần tiếp
nhận các yếu tố Trung Hoa này đã khác về chất so với thời Bắc thuộc. Thay vì tiếp
nhận một cách bị động, không tự nguyện, người Việt ở Đàng Trong thời kỳ này đã
1 Một phần trong Cấn Trai thi tập. Phần này được viết vào thời kỳ Trịnh Hoài Đức phiêu bạt nhiều nơi (1782 – 1801), là
sáng tác thuộc vào “văn học Đàng Trong”.
2 Theo thống kê của Hoài Anh trong sách Gia Định tam gia, Biên dịch - chú giải: Hoài Anh, Hiệu đính – giới thiệu: TS.
Huỳnh Văn Tới, Bùi Quang Huy, NXB Tổng hợp Đồng Nai, Đồng Nai, 2005, tr. 43.
73
tích lũy được nhiều kinh nghiệm phát triển văn hóa hơn, và có lẽ, chính những
kinh nghiệm này giúp họ nhất hóa chứ không đồng hóa các yếu tố văn hóa bên
ngoài đưa tới.
Như vậy là đến thời điểm cuối thế kỷ XVIII, văn học Đàng Ngoài đã có sự
hiện diện của cả ba loại hình tác giả - nhà nho là nhà nho hành đạo, nhà nho ẩn dật
và nhà nho tài tử, khác với Đàng Trong chỉ có sự góp mặt của nhà nho hành đạo và
nhà nho ẩn dật. Nếu như việc vắng bóng đội ngũ nhà nho tài tử khiến cho văn học
Đàng Trong thiếu đi nét phong lưu, tình tứ và khó đạt tới những thành tựu mang
tinh thần nhân văn sâu sắc như ở Đàng Ngoài, thì sự xuất hiện của đội ngũ nhà nho
gốc Minh hương tạo điều kiện cho văn học Đàng Trong tiếp nhận trực tiếp gần như
đồng thời một số thành tựu từ Trung Hoa, giúp cho văn học Đàng Trong “rút ngắn
cách biệt”, nhanh chóng hòa nhập vào với truyền thống dân tộc, thậm chí trên một
số phương diện còn góp phần làm phong phú thêm cho truyền thống ấy.
Dù có những khác biệt đó, nhưng nhìn tổng thể, có một điểm chung ở cả hai
Đàng là văn chương của nhà nho hành đạo vẫn chiếm số lượng lớn và giữ vai trò
quan trọng trong việc làm nên diện mạo của văn học vùng. Do vậy, chính những
gặp gỡ, tương đồng và những sự khác biệt trong nguồn gốc, học vấn, vị thế, tâm lý,
lý tưởng của nhà nho hành đạo ở hai Đàng sẽ quy định, một cách căn bản, sự
thống nhất và khác biệt trong văn học mỗi vùng, dù không thể phủ nhận, chất “hành
đạo” ở Đàng Trong dường như thuần phác hơn, “chân thành” hơn!
3.3. Tƣơng quan với văn học Đàng Ngoài: nhìn từ phƣơng diện nội dung
phản ánh
3.3.1. Đề vịnh thiên nhiên
Trong hệ thống chủ đề - đề tài của văn chương hai Đàng, nổi bật một hiện
tượng chung là sự chiếm lĩnh của những thi phẩm đề vịnh, đặc biệt là đề vịnh thiên
nhiên. Nếu như Đàng Trong có Tư Dung vãn, chùm thơ Quảng Ngãi thập nhị cảnh,
Hà Tiên quốc âm thập vịnh, Lư Khê ngư bạc (chữ Nôm), Ải lĩnh xuân vân, Thiên
Mụ hiểu chung, Hà Trung yên vũ, Hà Tiên thập vịnh, Thụ Đức hiên tứ cảnh, Cẩm
đường xuân khúc, Vịnh “thiếu nữ phong” (chữ Hán) thì Đàng Ngoài cũng có Ngã
ba Hạc phú, Sứ trình tân truyện, Khâm định Thăng bình bách vịnh, Càn Nguyên
ngự chế thi tập (chữ Nôm), thơ chữ Hán của Ngô Thì Ức, Nguyễn Quý Đức,
Nguyễn Tông Quai, Nguyễn Huy Oánh Cảm hứng tụng ca, tự hào về văn vật,
74
cảnh quan đất nước và cuộc sống thái bình, ổn định đương thời là nét chung trong
các sáng tác thuộc chủ đề này. Khâm định Thăng bình bách vịnh (Trịnh Căn), ngoài
số thơ đề vịnh danh lam thắng tích và khí hậu ra, còn khoảng 50 bài thơ phẩm bình
các sự vật thường gặp trong phủ chúa cung vua như nghiên mực, bút viết, thanh
gươm, cây cung, quân cờ, con voi, chiến thuyền, cây mai Bài nào cũng nhằm
ngợi ca triều đại, công tích và ân huệ trị dân của bản thân. Càn Nguyên ngự chế thi
tập (Trịnh Doanh) có 8 bài thơ ngụ hứng (ký hứng) như thưởng xuân, ngắm trăng,
vịnh chùa Phao Sơn, chùa Phả Lại; 14 bài vịnh phong cảnh các nơi (tỉnh nhương ký
thắng) như Sài Sơn, Hiến Doanh, Địch Lộng, Thần Phù; 4 bài vịnh phong cảnh ở
kinh thành (kỳ điện ký thắng) như Bồ Đề, Tây Long, chùa Tường Khánh Nếu
như thơ ca đề vịnh thiên nhiên Đàng Trong chủ yếu nở rộ ở thế kỷ XVIII thì chủ đề
này lại luôn thường trực trong thơ ca Đàng Ngoài. Đặc biệt trong các tập thơ đi sứ
của Nguyễn Quý Đức, Nguyễn Tiến Sách, Nguyễn Mậu Áng, Đinh Nho Hoàn,
Nguyễn Tông Quai, tình cảm mến yêu với cảnh sắc, con người, quê hương, đất
nước luôn được bộc lộ một cách thiết tha, trìu mến.
Thiên nhiên trong văn chương Đàng Ngoài đẹp vẻ yên ả, bình dị của một
vùng thôn dã truyền thống, ở đó có những người dân lam lũ nhưng tinh thần luôn
thư thái, có những thú vui quê kiểng, ân tình:
“Hàng ngày vác bừa đi cuốc xới ruộng hoang,
Luôn luôn gặp người cày ruộng và ông già thôn quê.
Khi gặp nhau chỉ nói chuyện làm ruộng, trồng dâu,
Ân cần bàn tính đến ngày mưa tạnh.
Vào khoảng tháng bảy tháng tám là mùa cua béo,
Con trẻ bắt cua vội mang về nhà.
Gọi trẻ đi nướng cua mua rượu mới nấu,
Rót một chén uống rất lấy làm hả hê.
Khi say rồi, nằm khểnh ở cửa sổ bên nam,
Thỉnh thoảng có gió mát lướt ngoài song cửa”
(Tiêu dao ngâm - Ngô Thì Ức) [131, tr. 367]
Cảnh sắc mang vẻ mỹ lệ của từ chương truyền thống, đẹp nhưng đôi khi
khuôn mẫu bởi tứ thơ quen thuộc, có lúc tao nhã nhưng cũng có lúc trầm buồn, như
cái vẻ huyền mặc của một vùng đất cổ:
75
“Sụt sùi bóng ngả tịch dương,
Bên trời cái nhạn pha sương bay về.
Thớt thưa bến liễu làng hòe,
Vàng gieo đẫy lá bạc khoe đầy cành.
Tiếng thu xào xạc trên xanh,
Một đèn hãy tỏ ba canh chưa nằm”
(Sứ trình tân truyện - Nguyễn Tông Quai) [131, tr. 391]
Trái lại, ở Đàng Trong, ngoài một số bài đề vịnh theo âm hưởng tụng ca của
văn học cung đình (như những bài đề vịnh của các danh thần phủ chúa), hình tượng
thiên nhiên gây ấn tượng bởi vẻ đẹp mỹ lệ, tươi mới, sung mãn sức trẻ:
“Viễn viễn thương lang hàm tịch chiếu
Lư Khê yên lý xuất ngư đăng
Hoành ba yểm ánh bạc cô đĩnh,
Lạc nguyệt sâm si phù tráo tăng”
(Dòng nước xanh xa xa ngậm ánh nắng tàn
Trong làn khói ở Rạch Vược đèn chài ló dạng
Sóng ngang gợn gợn thuyền lẻ ghé bến
Trăng soi thấp thoáng lưới chài bang bạc)
(Lư Khê ngư bạc - Mạc Thiên Tích) [131, tr. 708]
“Hồ lô hỏa thấp ngưng yên trọng,
Thạch thất nhân hàn tích nhứ đa
Xuất trục tương giao năng ngũ thái
Quang phù thần võ định sơn hà”
(Lửa ẩm hồ lô nên đọng khói
Rét nằm nhà đá phải chồng bông
Vượt ra cửa động thành năm vẻ
Sáng rực hào quang định núi sông)
(Thạch động thôn vân - Nguyễn Cư Trinh) [38, tr. 310]
Trong đó, hình ảnh con người luôn hiển hiện và điểm xuyết cho bức tranh
thiên nhiên ấy bằng những nhịp điệu cuộc sống thường nhật. Như hoạt cảnh nhóm
chợ dưới bóng đa, tiều phu ra quán mua rượu, nông phu đi xem bói, trai tráng giữ
gìn làng xóm trong thơ Trịnh Hoài Đức:
76
“Thúy ái sơn bình chướng thủy hương
Dung âm tế phế thị triền lương
Điền cầm liệp thú sung Tùng tứ
Tì hiện cô ngư mãn Trúc phường.
Mãi tửu tiều quy cô điếm tịch,
Chiêm niên nông phản bốc đình hoang.
Chu xa hạnh miễn ưu cường đạo,
Lâm tẩu anh hùng nhậm chức phương”
(Núi xanh biếc như bình phong chắn ngang vùng nước,
Bóng đa che rợp, chợ búa mát mẻ thay.
Chim muông được, chợ Tùng bày bán đầy rẫy,
Đăng đó nhiều cá hến, phố Trúc hàng dãy bán ngổn ngang.
Các bác tiều mua rượu xong đã về hết, quán rượu lại vắng,
Mấy nhà nông đi bói đã trở lại nhà rồi, đình thầy bói bỏ không.
Không xảy ra trộm cắp, xe thuyền đi lại khỏi lo âu,
Vì đã có các anh hùng địa phương giữ tròn chức vụ)
(Ngư Tân sơn thị) [41, tr. 182 - 183]
Ngay trong Tư Dung vãn, một thiên nhiên được mô tả trên nền những điển
tích, điển cố dày đặc nhưng vẫn lưu giữ những cảm xúc tươi mới về cuộc sống, nơi
con người sẽ hòa mình trong nhịp sống thanh bình nhưng không kém phần rộn rã
với đủ cả ngư tiều canh mục, nơi hứa hẹn cho sự đâm trổ của những tài năng sẽ góp
phần làm cho cuộc sống ấy trở nên tốt đẹp hơn bội phần:
“Gió đưa thoảng nực mùi nhang
Người tiên đất ngọc, phong quang ưa nhìn
Có nơi vịnh nguyệt bá thuyền
Kim ngâm thảnh thót, chuông chiền đỉnh đang
Là nơi từ vũ nghiêm trang,
Trung trinh hai chữ, lửa hương muôn đời
Đông tây đều khách vãng lai
Rước ai nọ quán, đưa ai nọ đò
Am ta kiệt lập non Vu
Đêm khuya chuông gióng gọi chùa Ba Viên
Dập dìu buồm xuống thuyền lên
77
Cánh hồng lướt gió, khách tiên nghiêng hồ”
(Đào Duy Từ) [131, tr. 45]
Cách nhìn đó của Đào Duy Từ khác hẳn với các bậc tiền nhân, chỉ coi địa
danh này như vị trí chiến lược quan trọng, là cửa ải “núi dựng vực sâu”, “trời cao
sóng vỗ” (Tư Dung hải môn lữ thứ - Lê Thánh Tông, thế kỷ XV), hoàn toàn không
có sự hòa nhịp giữa non nước hữu tình và cuộc sống con người.
Ẩn sau những bức tranh phong cảnh mỹ lệ ấy, có thể thấy rõ tâm lý lạc quan,
tự hào của người cầm bút. Ải lĩnh xuân vân ghi lại niềm kiêu hãnh của Hiển tông
Phước Châu trước quang cảnh non sông hùng tráng dưới quyền mình trị vì, đồng
thời thể hiện mong mỏi về một xã hội Đàng Trong ấm no, hạnh phúc:
“Việt Nam hiểm ải thử sơn điên
Hình thế hồn như Thục đạo thiên
Duy nguyện hải phong xuy tác vũ,
Chính nghi thiên lý nhuận tang điền”
(Phương Nam ải hiểm một mình ngươi
Đường Thục cheo leo cũng thế thôi
Chỉ mong gió biển làm mưa ngọt,
Ruộng vườn ngàn dặm thảy xanh tươi)
[142, tr. 308 - 309]
Mạc Thiên Tích ca tụng cảnh tượng thái bình thịnh trị, nhân dân no đủ, thảnh
thơi, nhàn hạ:
“Ruộng đâu là chốn dân này
Để khi gỏi rượu đến ngày nắng mưa
Ba sào trưa hãy còn nghỉ khỏe
Toại tấc lòng già trẻ đều no”
(Hà Tiên thập cảnh) [72, tr. 394]
với tâm lý thỏa mãn, tự hào của một người dựng nghiệp, có công xây dựng, mở
mang kinh tế, văn hóa ở địa phương:
“Một tay vững đặt giang san
Danh phong Kim Dữ, tước ban Lan Đào”
(Hà Tiên thập cảnh) [72, tr. 395]
78
Tuần phủ Nguyễn Cư Trinh nhìn núi Long Đầu ở Quảng Ngãi mà liên tưởng
đến câu “Phi long tại thiên, lợi kiến đại nhân” (Rồng bay trên trời, được thấy bậc
đại nhân) trong Kinh Dịch, nhân đó bộc lộ mong muốn tôi hiền chúa sáng:
“Hỏi thử khi nào bay đặng nổi?
Thấy tin người lớn thỏa lòng trông.”
(Long Đầu hí thủy) [131, tr. 666]
Nhìn thanh kiếm mà ước ao trị quốc an dân:
“Mỗi bạn nhân nghiêm hoành tái ngoại,
Hoàn đồng Cẩn Tín thượng ban đầu.
Bàng nhân nhược vấn quy tang sự
Thả đãi Đào Lâm phóng tận ngưu
1
”
(Thường theo cả hai mặt nhân và nghiêm, chắn ở ngoài ải,
Lại cùng chức Cẩn Tín đứng ở đầu ban
Người ngoài nếu hỏi về việc trở về ẩn náu
Hãy đợi Đào Lâm thả hết trâu đã)
(Kiếm) [131, tr. 655]
Tương tự thế, nhiều tác giả Đàng Ngoài cũng ngợi ca sự thái hòa, công tích
cai trị của các chúa Trịnh. Âm hưởng đó đặc biệt mạnh mẽ trong sáng tác của chúa
tôi họ Trịnh – một sự tiếp nối “ngoạn mục” dòng văn chương cung đình đã từng
phát triển dưới thời Hồng Đức. Tuy nhiên, cần phải thừa nhận rằng, mặc dù trong
cụm thơ viết về phong vật đất nước của Trịnh Căn, Trịnh Doanh, Trịnh Sâm có
những bài khá thành công, uy nghi, đĩnh đạc, nhưng căn bản vẫn khó sánh kịp lối
thơ này thời Hồng Đức. Đáng chú ý là do bị chi phối bởi âm hưởng tụng ca nên
nhiều bài mang sắc thái tô hồng hiện thực. Chẳng hạn, Ngã ba Hạc phú của Nguyễn
Bá Lân khi ghi lại cảnh ngã ba Hạc vừa xinh vừa lạ ở ngay vùng đất xưa của dân
tộc, cũng đồng thời miêu tả một xã hội no đủ, thái bình, hòa lạc, không ai lầm than,
đói khổ, còn nhà vua thì yên vị vững vàng trên ngôi báu:
“Nay mừng:
Vận mở tam dương
Tộ yên chín vạc,
1 Tứ thơ xuất phát từ câu “Vũ thành nãi yển vũ tu văn, quy mã vu Hoa Sơn chi dương, phóng ngưu vu Đào Lâm chi dã”
(Bèn dẹp việc võ, sửa việc văn, cho ngựa về sườn núi Hoa Sơn, thả trâu ở cánh đồng Đào Lâm) trong Kinh Thư, ý chỉ
cuộc sống yên bình, hết loạn lạc.
79
Trên lọ phải vén quần vua Tống, gia sức anh quyền;
Dưới cũng vui vỗ bụng trời Nghiêu, xướng ca canh tạc”
[131, tr. 534 - 535]
Điều này trái với lời lẽ của chính ông trong bài Khải dâng lên chúa Trịnh
Sâm xin giải oan cho những người bị oan ức, khoan thứ cho những người bị thiếu
thuế chồng chất: “để dân khỏi đau khổ may ra có thể thu phục được lòng người
mà báo đáp được tội lỗi mà trời quở trách”
1
.
Do vậy, khác biệt cơ bản trong âm hưởng văn chương hai Đàng, đó là: Đàng
Trong là một vùng đất mới, sự phát triển kinh tế đang có chiều hướng thuận lợi,
năng động hơn; lại thêm việc khai khẩn các vùng đất mới, từ Thuận Quảng vào
Nam cho đến tận Hà Tiên, và việc mở rộng giao thương với nước ngoài, tạo ra một
lề lối hoạt động kinh tế và phát triển xã hội có nhiều khía cạnh cởi mở và tích cực
hơn so với Đàng Ngoài; niềm tự hào, sự lạc quan, tin tưởng là trạng thái có thực
trong tâm thế của văn nhân nơi đây. Trái ngược với Đàng Ngoài, kinh tế khó khăn,
chiến tranh, đói kém, loạn lạc, chính quyền suy yếu, lại thêm cái thực tế rành rành
đã có ngôi vua còn thêm phủ chúa nên “vận mở tam dương, tộ yên chín vạc” thực
chất chỉ là một cách tô hồng hiện thực theo quan điểm chính thống của giai cấp
thống trị, thậm chí có phần khoa trương, tự đắc (như cách nói của Trịnh Căn: “Đức
ví giang hà nhuần chốn chốn/ Công tày nhật nguyệt sáng đời đời” [131, tr. 113], “Nhờ
phúc trùng trùng so địa hậu/ Tưởng ơn dặc dặc sánh thiên trường” [131, tr. 109]). Tất
nhiên, không thể phủ nhận đây là một xu thế gần như hiển nhiên của mọi nền văn
học. Bởi bất kỳ một chế độ độc tài, chuyên chế nào, đến một thời điểm nhất định,
khi đã tìm được cảm giác yên ổn về “hồng đồ”, “thịnh thế”, thì đều tất yếu xuất hiện
bộ phận văn chương tụng ca. Bộ phận này sống rất dai, thậm chí đến “thớ lợ”, và
sinh ra sáo ngữ, ra việc “tô hồng” thực tại. Một bộ phận văn chương Đàng Ngoài
thời kỳ đó trở nên kém chân thực, một phần vì lý do đó.
3.3.2. Tố cáo hiện thực
Đến giai đoạn cuối thế kỷ XVIII, khi mà chính quyền Đàng Trong bắt đầu
suy yếu, nội loạn, bè phái tranh giành, văn chương hai Đàng đã tìm được tiếng nói
chung trong những tác phẩm tố cáo hiện thực.
1 Việt sử thông giám cương mục; dẫn theo: Đinh Gia Khánh - Bùi Duy Tân - Mai Cao Chương (2002), Văn học Việt
Nam (thế kỷ X – nửa đầu thế kỷ XVIII), NXB Giáo dục, Hà Nội, tr. 534.
80
Đàng Trong có Hoài Nam khúc của Hoàng Quang, Văn tế tướng sĩ trận vong
của Nguyễn Văn Thành và đặc biệt là Phong trúc tập của Ngô Thế Lân ghi lại
những ký ức buồn thương của một thời đói khổ và loạn lạc. Bài Văn tế tướng sĩ trận
vong khắc họa hình tượng người tử sĩ với sự “điêu linh”, thiệt thòi thân phận:
“Nằm gai nếm mật, chung nỗi ân ưu
Mở suối bắt cầu, riêng phần lao khổ.
Trước từng trải Xiêm La, Cao Miên về Gia Định, mới dần ra Khánh,
Thuận, đã mấy phen sơn phong hải lê, trời Cao, Quang soi tờ tấm kiên trinh.
Rồi t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 02050004795_3212_2002886.pdf