MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THƢƠNG NHÂN.6
1.1 Khái niệm và đặc điểm về thương nhân.6
1.1.1 Khái niệm về thương nhân. 6
1.1.2 Đặc điểm về thương nhân . 9
1.2 Điều kiện trở thành thương nhân . 11
1.3 Điều chỉnh của pháp luật về thương nhân. 13
1.3.1 Lược sử phát triển pháp luật về thương nhân ở Việt nam . 13
1.3.2 Chức năng của pháp luật về thương nhân ở Việt Nam . 15
1.3.3 Nguồn của pháp luật về thương nhân ở Việt Nam. 18
1.4 Phân loại thương nhân. 22
1.4.1 Các cách phân loại thương nhân . 22
1.4.2 Thương nhân thể nhân và thương nhân pháp nhân. 23
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
THƢƠNG NHÂN . 31
2.1 Thương nhân thể nhân. 31
2.1.1 Khái niệm và Điều kiện của thương nhân thể nhân theo pháp
luật Việt Nam. 31
2.1.2 Các loại thương nhân thể nhân. 32
2.2 Thương nhân pháp nhân. 46
2.2.1 Khái niệm và Điều kiện của thương nhân pháp nhân theo pháp
luật Việt Nam. 46
2.2.2 Các loại thương nhân pháp nhân. 47
CHƢƠNG 3 NHỮNG BẤT CẬP, ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI
PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THƢƠNG NHÂN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY . 66
39 trang |
Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 566 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luật kinh tế - Chế định thương nhân ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh niên hầu hết đều
có một nghề nghiệp riêng. Nghề nghiệp chính là những hoạt động thường
xuyên, lâu dài, mang lại những nguồn lợi nhất định là nguồn sinh sống cho
cá nhân và gia đình của chủ thể đó. Số lượng hành vi thương mại do một chủ
thể thực hiện không đem lại tư cách thương nhân cho chủ thể. Một chủ thể chỉ
10
được coi là thương nhân khi thực hiện một hoạt động thương mại lặp đi lặp lại
mang tính chất nghề nghiệp thường xuyên và có sinh lời.
Thứ hai, thương nhân hoạt động thương mại một cách độc lập.
Trong quá trình hoạt động thương mại, thương nhân có thể trực tiếp thực
hiện các hành vi thương mại hoặc ủy quyền cho người thứ ba thay mình thực
hiện hành vi thương mại đó. Tuy nhiên, mọi quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hoạt
động mà người được ủy quyền thực hiện do ủy quyền thì đều thuộc về người ủy
quyền. Điều này được hiểu là người làm công, người quản lý được trả công đều
không phải là thương nhân. Ngược lại, người thuê và quản lý một cơ sở kinh
doanh để kinh doanh mới là thương nhân. Thương nhân là chủ thể chịu trách
nhiệm với toàn bộ quyền và nghĩa vụ của cơ sở kinh doanh do mình làm chủ.
Ngoài ra, đối với một số nước có quy định công ty hợp danh và công ty
hợp vốn đơn giản là pháp nhân – hoạt động của những công ty này được nhà
nước bảo hộ như những doanh nghiệp khác thì những thành viên của công ty
hợp danh và công ty hợp vốn đơn giản dù những hoạt động của họ vì lợi ích
chung của cả công ty nhưng họ vẫn được coi là thương nhân vì họ phải chịu
trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của công ty.
Thứ ba, thương nhân hoạt động phải có đăng ký kinh doanh.
Đặc điểm này được áp dụng với những quốc gia quy định về thương
nhân theo hình thức. Ở những quốc gia này, để trở thành thương nhân chủ thể
thực hiện hành vi thương mại cần đăng ký kinh doanh với cơ quan nhà nước
có thẩm quyền. Chỉ khi có đăng ký kinh doanh, chủ thể sẽ được công nhận tư
cách thương nhân và được nhà nước thừa nhận, bảo hộ quyền lợi hợp pháp
của mình trong đời sống kinh doanh.
Như vậy, hiểu một cách chung nhất, thương nhân là những người thực
hiện các hoạt động thương mại như một nghề nghiệp thường xuyên, lâu dài và
chịu mọi trách nhiệm với các hoạt động thương mại do mình thực hiện.
11
1.2 Điều kiện trở thành thƣơng nhân
Dựa theo quy định về thương nhân của mỗi quốc gia, các điều kiện về
thương nhân của các nước là khác nhau. Tuy nhiên nhìn chung lại, các cá
nhân và tổ chức cần đáp ứng được những điều kiện cơ bản sau để được thừa
nhận tư cách thương nhân:
Điều kiện thứ nhất: Để trở thành thương nhân, trước hết các chủ thể
phải tồn tại dưới dạng: cá nhân hoặc tổ chức.
- Cá nhân: được hiểu là công dân có đầy đủ năng lực trách nhiệm dân sự
và năng lực hành vi dân sự và không bị pháp luật cấm kinh doanh thương
mại. Theo Luật thương mại Việt Nam, cá nhân đủ 18 tuổi trở lên có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ nếu có yêu cầu hoạt động thương mại thì được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp tư nhân, giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh và trở thành thương nhân.[29]
- Tổ chức: Những tổ chức được công nhận tư cách thương nhân trước hết
phải là những tổ chức được thành lập hợp pháp, hoạt động độc lập và hoạt
động của tổ chức không phụ thuộc vào ý chí riêng của các thành viên tổ chức đó.
Theo thông lệ pháp luật quốc tế, thương nhân được phân loại thành hai
loại chính là thương nhân thể nhân là các cá nhân kinh doanh và thương nhân
pháp nhân là những tổ chức được hành lập hợp pháp chủ yếu tồn tại dưới
dạng các loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân.
Điều kiện thứ hai: Các chủ thể trên chỉ trở thành thương nhân nếu tiến
hành các hoạt động được coi là các hành vi thương mại.
Trên thế giới có rất nhiều quan điểm về phân loại hành vi thương mại
khác nhau. Nhìn chung các nhà nghiên cứu đưa ra một cách phân loại cơ
bản nhất gồm hai loại: hành vi thương mại thuần túy và hành vi thương mại
do phụ thuộc.
12
- Hành vi thương mại thuần túy: gồm những hành vi có tính chất thương mại:
Những hành vi do thương nhân thực hiện: hoạt động thương nhân cho
thuê động sản.
Những hành vi liên quan đến hoạt động mua bán hàng hóa: hoạt động
giao nhận hàng hóa.
Những hành vi mà hình thức của nó được pháp luật coi là hành vi
thương mại vì bản chất của nó thuộc về công việc buôn bán: hoạt động kí phát
hối phiếu, hành vi thành lập công ty thương mại.
- Hành vi thương mại phụ thuộc:
Những hành vi có bản chất dân sự nhưng do thương nhân thực hiện
theo yêu cầu nghề nghiệp: hoạt động kí hợp đồng mua bán hàng hóa của
thương nhân.
Những hành vi dân sự dân sự nhưng được thực hiện do phụ thuộc vào
một hành vi thương mại khác
Nhìn chung, mọi hành vi do thương nhân thực hiện trong hoạt động
kinh doanh đều là những hành vi thương mại trừ trường hợp thương nhân
chứng minh được rằng hành vi đó thực hiện không vì mục đích thương mại.
Ví dụ: Việc thương nhân quyên góp từ thiện cho tổ chức từ thiện.
Khái niệm thương nhân và hành vi thương mại là hai khái niệm có mối
quan hệ ràng buộc lẫn nhau. Một hành vi chỉ được coi là hành vi thương mại
khi nó được thực hiện bởi các thương nhân hoặc thực hiện trong khuôn khổ
các hoạt động thương mại của thương nhân. Bên cạnh đó, một chủ thể chỉ
được coi là thương nhân khi thực hiện các hành vi thương mại.
Ở Việt Nam, khái niệm “hành vi thương mại” được ghi nhận trong
Luật thương mại 1997 đã được Luật thương mại 2005 thay thế bằng thuật ngữ
“hoạt động thương mại”. Điều 45 Luật thương mại 1997 quy định Hành vi
thương mại chỉ gồm đúng 14 loại hành vi cụ thể, Luật thương mại 2005 quy
13
định các loại hoạt động thương mại mang nghĩa rộng hơn và bao quát hơn bao
gồm các hoạt động nhằm mục đích sinh lời: “mua bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lời
khác”. (Khoản 1 Điều 3 Luật thương mại 2005).[27]
1.3 Điều chỉnh của pháp luật về thƣơng nhân
1.3.1 Lƣợc sử phát triển pháp luật về thƣơng nhân ở Việt nam
Trong lịch sử kinh tế của Việt Nam, thương mại hầu như chỉ được biết
đến bắt đầu từ thời kỳ phong kiến khi có những hoạt động mua bán hàng, sản
xuất hàng hóa ra đời. Vào thời kì này, xã hội bắt đầu có sự xuất hiện của một
tầng lớp mới thực hiện các hoạt động mua bán hàng hóa để kiếm lợi, được gọi
chung ở thời kì đấy là các thương gia. Tuy nhiên, hoạt động thương mại trong
thời kỳ phong kiến chưa được xã hội đề cao, tầng lớp thương gia luôn đứng ở
vị trí thấp nhất trong “sĩ nông công thương”. Bởi lẽ đó, các quy định pháp luật
điều chỉnh hoạt động thương mại cũng hầu như chưa được đề cập đến. Mãi
đến thời kỳ Pháp thuộc thì pháp luật Việt Nam mới có những chế định đầu
tiên về luật thương mại. Năm 1864 người Pháp đem Bộ luật thương mại của
mình áp dụng vào Nam kì và áp dụng ở Bắc kì năm 1988. Năm 1892, Pháp
ban hành Sắc lệnh quy định việc hành nghề thương mại của người á Đông
ngoại quốc và người Việt Nam sinh tại các vùng là thuộc địa của Pháp (Hà
Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng) cũng thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật Pháp.
Ngoài những văn bản đó, về sau cũng có những văn bản khác quy định
về từng vấn đề cụ thể như sau: Đạo luật về bán và cầm cố cửa hàng thương
mại 1909; Đạo luật về bảo vệ quyền sở hữu cửa hàng thương mại 1926; Luật
về hối phiếu, thương phiếu năm 1894, 1922, 1935...
Mãi đến năm 1942, triều đình Huế mới ban hành bộ luật thương mại
Trung phần có nội dung cơ bản giống như Bộ luật thương mại của Pháp, có
hiệu lực thi hành tại Trung bộ từ ngày 25/1/1944.
14
Năm 1954, đất nước bị chia cắt thành hai miền với chế độ chính trị
khác nhau. Ở miền Nam, chính phủ Việt Nam cộng hòa đã ban hành nhiều
văn bản pháp luật về thương mại quan trọng như : Luật số 13/57 về nhãn hiệu
thương mại; Luật số 12/5 về bằng sáng chế Nghị định số 92/BKT/CKN ngày
9/4/198 và Nghị định số 406/BKT/ND ngày 11/10/1968 về danh sách các
ngành nghề tiểu công nghệ...quan trọng nhất là Bộ luật thương mại ban hành
20/12/1972 với nội dung khá phong phú, đề cập đến nhiều vấn đề của đời
sống thương mại lúc đó ở miền Nam Việt Nam như nhiệm vụ nghề nghiệp
của nhà buôn hay thương gia và sự hành nghề thương mại... Trái lại, ở miền
Bắc, trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, việc kinh doanh chủ yếu được
các tổ chức thuộc thành phần kinh tế quốc doanh tiến hành. Do đó, luật kinh
tế điều chỉnh những quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình kinh doanh
XHCN tập trung ghi nhận các chế độ pháp lý liên quan đến việc tổ chức và
hoạt động của các tổ chức kinh tế quốc doanh.
Đến khi chúng ta bắt đầu bước vào xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã làm thay
đổi cơ bản tính chất của các quan hệ trong kinh doanh. Về thực chất, luật kinh
tế trong giai đoạn này vẫn được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật do
Nhà nước ban hành, điều chỉnh những quan hệ kinh tế phát sinh trong quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp hoặc giữa chúng
với cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế,
xã hội của đất nước. Để đáp ứng yêu cầu của cơ chế quản lý kinh tế mới, Nhà
nước đã ban hành một loạt văn bản pháp luật kinh tế mới thay thế những văn
bản ban hành trước đây như Luật Doanh nghiệp 1999, Luật Doanh nghiệp
Nhà nước 1995, Luật hợp tác xã 1996, Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993,
Luật thương mại 1997...
Cho đến nay, cùng với sự phát triển và mở cửa hội nhập của nền kinh tế
Việt Nam chúng ta đang có gắng tạo một hành lang pháp lý thông thoáng,
15
hiệu quả nhằm tăng trưởng kinh tế, tạo môi trường ổn định và hiệu quả cho
các nhà kinh doanh trong và ngoài nước đầu tư vào nền kinh tế. Do đó, chung
ta cũng đã sửa đổi, bổ sung vào những văn bản đang hiện hành sao cho phù
hợp với sự phát triển, đồng thời ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật
về thương mại mới, nhằm giúp cho nền kinh tế ngày càng phát triển như: Luật
thương mại 2005, Luật Doanh nghiệp 2014, Luật cạnh tranh, Luật đầu tư,
Luật phá sản, Luật đấu thầu...
Nói tóm lại thương nhân và hoạt động thương mại xuất hiện ở nước ta
từ rất sớm, song sự phát triển của chúng lại là những thăng trầm. Tựu chung,
Việt Nam không có truyền thống trong lĩnh vực thương mại giống như các
quốc gia nông nghiệp khác. Cho mãi tới những năm gần đây, nhận thức về
hoạt động thương mại và vị trí của các thương nhân mới được đổi mới theo
đúng xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới. Chúng ta đã có những thay
đổi lớn về cả nội dung lẫn hình thức của các văn bản pháp luật nói chung và
các văn bản liên quan đến kinh tế, thương mại nói riêng, từ đó có thể thấy sự
phát triển của hệ thống pháp luật nước ta ngày càng tiến gần tới sự hoàn thiện.
1.3.2 Chức năng của pháp luật về thƣơng nhân ở Việt Nam
Pháp luật về thương nhân ra đời và phát triển là một hệ quả tất yếu của
quá trình hoạt động kinh doanh thương mại. Các giao dịch thương mại ngày
càng đa dạng và phức tạp thì yêu cầu điều chỉnh của pháp luật càng trở lên
cấp thiết hơn. Chính bởi vậy, mà các quy định của pháp luật về thương nhân
cơ bản phải chứa đựng những chức năng sau:
- Trước tiên, pháp luật về thương nhân đóng vai rò là khuôn khổ pháp
lý quan trọng nhất quy định về tư cách chủ thể của các loại hình thương nhân
– chủ thể chính của pháp luật thương mại. Việc xác định tư cách thương nhân
cho một chủ thể có ý nghĩa hết sức quan trọng vì mỗi loại chủ thể lại chịu sự
điều chỉnh của các quy chế khác nhau vì chúng hàm chứa trong mình những
16
đặc đặc điểm tương đối khác nhau. Xác nhận địa vị pháp lý, tư cách của
thương nhân trên thương trường nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
thương nhân cũng như những người có quan hệ kinh doanh đối với họ. Trên
cơ sở các quy định pháp luật, thương nhân thực hiện quyền và nghĩa vụ của
mình để tiến hành các giao dịch thương mại với thương nhân cũng như với tổ
chức và cá nhân khác trong và ngoài nước.
- Các chủ thể tham gia vào các hoạt động thương mại dựa trên nguyên
tắc tự do, bình đẳng và độc lập nhưng luôn phải dưới dự chỉ đạo và quản lý
chung của Nhà nước. Nhà nước thực hiện việc kiểm soát đối với hoạt động
của các thương nhân cũng như diễn biến của nền kinh tế nói chung thông qua
các quy định pháp luật về thương nhân. Trên cơ sở nắm bắt các thông tin về
nhu cầu và hoạt động thực trạng của thương nhân trong từng thời kỳ, Nhà
nước hoạch định, điều chỉnh hay thay đổi các chính sách thích ứng phù hợp
với chính sách phát triển kinh tế của mình.
- Các quy định pháp luật về thương nhân còn là cơ sở cho thương nhân
thực hiện các dự định hoặc kế hoạch. Pháp luật đưa ra những nguyên tắc hoạt
động nhất định như trung thực, thiện chí tạo niềm tin cho các chủ thể trong
quá trình hoạt động kinh doanh thương mại. Trong tình hình nền kinh tế hiện
nay, các hoạt động diễn ra sôi động, một thương nhân phải suy nghĩ và thay
đổi chiến lược kinh doanh không ngừng để bắt kịp được xu thế cũng như tận
dụng được thời gian, trí lực, thể lực. Việc tính toán trước những kế hoạch hoạt
động trong tương lai phải dựa trên sự tin tưởng vào pháp luật, tin tưởng vào
các quy định của pháp luật thương mại bảo đảm cho các dự định kinh doanh
trở thành hiện thực hay nói đúng hơn là tạo ra các khả năng để thương nhân
có thể hoạch định các công việc của mình. Vì thế, các nguyên tắc như trung
thực, thiện chí trong hoạt động kinh doanh được luật thương mại rất đề cao.
- Các quy định pháp luật thương mại nói chung và pháp luật về thương
nhân nói riêng còn là tiền đề cho sự phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ
17
pháp luật về thương mại; mở rộng giao lưu thương mại với nước ngoài. Chính
các quy định pháp luật về thương nhân là điều kiện để thương nhân tiến hành
các hoạt động thương mại của mình phù hợp với sự phát triển chung của nền
kinh tế. Qua đó, tạo ra môi trường bình đẳng cho hoạt động của thương nhân,
thương nhân được cạnh tranh hợp pháp trong hoạt động thương mại và
nghiêm cấm các hành vi đầu cơ, lũng đoạn thị trường, bán phá giá để cạnh
tranh, dèm pha thương nhân khác, đe doạ nhân viên hoặc khách hàng của
thương nhân khác, vi phạm quyền sở hữu công nghiệp. Chính điều này đã có
tác dụng tích cực đối với sự phát triển của nền kinh tế. Bởi lẽ, các hoạt động
thương mại của thương nhân trên thị trường là nhằm mục đích phục vụ các
nhu cầu trực tiếp của xã hội.
- Như chúng ta đã biết khi xây dựng pháp luật thương mại người ta
thường dựa vào hai mảng vấn đề lớn: hoặc là chủ thể, coi luật thương mại là
luật riêng của thương nhân như cách làm của Bộ luật Thương mại Đức ban
hành năm 1897 tập trung các quy định vào thương nhân; hoặc là theo khách
thể, coi luật thương mại là luật điều chỉnh hành vi mang tính thương mại như
cách làm của Bộ luật Thương mại Pháp ban hành năm 1807 tập trung các quy
định vào hành vi thương mại. Song thực tiễn phát triển pháp luật thương mại
đã chứng minh rằng cả hai phương pháp trên đều hàm chứa cả vấn đề chủ thể
lẫn vấn đề khách thể. Bởi, thương nhân là chủ thể chính thực hiện các hành vi
thương mại. Do đó, khi xây dựng được một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh về
thương nhân cũng là điều kiện tiền đề cho các hành vi thương mại được hiện
thực hoá trên thương trường.
Nói tóm lại, pháp luật về thương nhân đang ngày càng khẳng định được
vị trí quan trọng của mình đối với sự phát triển của thương mại nói riêng và
của đất nước nói chung. Bởi lẽ, với tư cách là một bộ phận cấu thành quan
trọng của nền kinh tế thị trường, thương nhân là người trực tiếp tiến hành các
18
hoạt động thương mại với nhiều mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa
các mảng của quan hệ kinh doanh đa dạng, phức tạp, phần nào chịu sự điều
tiết của các ngành luật khác là một vấn đề rất phức tạp. Một hệ thống pháp
luật hoàn thiện về thương nhân sẽ là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của
thị trường thương mại.
1.3.3 Nguồn của pháp luật về thƣơng nhân ở Việt Nam
Nguồn của một ngành luật là tổng hợp những văn bản pháp luật do cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh một quan hệ xã hội
nhất định. Nguồn pháp luật ghi nhận về thương nhân cũng chính là nguồn của
pháp luật thương mại vì thương nhân và quan hệ giữa các thương nhân là chủ
thể và đối tượng điều chỉnh chính của luật thương mại. Đặc thù trong việc
điều chỉnh các quan hệ thương mại nên nguồn của luật thương mại không chỉ
bao gồm các văn bản pháp luật mà còn có thể là các văn bản quy phạm khác.
Nguồn của luật thương mại bao gồm các nhóm văn bản cơ bản sau:
1.3.3.1 Các văn bản quy phạm pháp luật
a) Hiến pháp
Đây là đạo luật cơ bản của Nhà nước, xác định chế độ chính trị, kinh tế
– xã hội của đất nước nên Hiến pháp có giá trị cao nhất và là nguồn của nhiều
ngành luật, trong đó có luật thương mại. Trong hiến pháp có ghi nhận những
vấn đề quan trọng sau:
- Xác định rõ định hướng cũng như mục đích xây dựng nền kinh tế
của đất nước
- Xác định rõ chế độ sở hữu Nhà nước
- Ghi nhận các biện pháp khuyến khích và bảo hộ đầu tư
- Ghi nhận quyền tự do kinh doanh của công dân
Ngoài ra còn nhiều những quy định khác trong Hiến pháp quy định về hoạt
động thương mại. Hiến pháp là nguồn rất quan trọng của luật thương mại.
19
b) Bộ luật Dân sự
Sau Hiến pháp, Bộ luật dân sự là đạo luật có vị trí quan trọng trong hệ
thống pháp luật, liên quan mật thiết đến mọi mặt của đời sống thường ngày
của người dân, trong đó có lĩnh vực thương mại. Thông qua những quy định
về các vấn đề như tài sản, quyền sở hữu, bảo vệ quyền sở hữu, hợp đồng, sở
hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ,...Bộ luật Dân sự quy định các chuẩn mực
pháp lý cho các quan hệ thương mại phát triển trong môi trường thuận lợi,
đưa lại cho các giao dịch độ tin cậy pháp lý cao. Cùng với các văn bản khác
trong hệ thống pháp luật kinh tế, Bộ luật dân sự góp phần xây dựng lên khung
pháp lý cần thiết cho sự vận hành của nền kinh tế thị trường, tạo nên môi
trường pháp lý thuận lợi, thống nhất cho các thương nhân hoạt động và phát triển.
c) Các luật do Quốc hội thông qua
Ở Việt Nam hiện nay, các văn bản là nguồn luật thương mại do Quốc
hội thông qua có một số lượng khá lớn:
- Các luật quy định về địa vị pháp lý của các thương nhân: Luật Doanh
nghiệp 2014, Luật hợp tác xã 2012...
- Các luật quy định cụ thể về các loại hành vi thương mại như: Luật
thương mại 2005, Luật ngân hàng và các tổ chức tín dụng 2010, Luật đầu tư
2014, Luật chứng khoán...
- Các quy định về thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản đối với thương nhân
lâm vào tình trạng phá sản được quy định tại Luật phá sản 2014.
d) Các văn bản dƣới luật
Các văn bản dưới luật cũng là nguồn quan trọng của Luật thương mại
bao gồm Pháp lệnh của ủy ban thường vụ Quốc hội, Nghị định của Chính
Phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính Phủ và các Thông tư của các Bộ, Cơ
quan ngang Bộ.
20
1.3.3.2 Điều ước quốc tế
Điều ước quốc tế là sự thỏa thuận giữa các chủ thể của công pháp quốc
tế (chủ yếu là các quốc gia) trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện nhằm thiết lập
nguyên tắc pháp lý bắt buộc, là cơ sở cho hoạt động thương mại.
Điều ước quốc tế có thể chi ra làm hai loại: Các điều ước có tính chất
chỉ đạo, quy định những nguyên tắc chung về hoạt động thương mại giữa các
quốc gia tham gia kí kết, ví dụ như Hiệp định thương mại hàng hải, Hiệp định
thương mại Việt Mỹ... Và các điều ước điều chỉnh trực tiếp các quan hệ
thương mại cụ thể như Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế,
Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS, thỏa ước Madrid về đăng ký
quốc tế nhãn hiệu hàng hóa...
Ở Việt Nam, việc áp dụng Điều ước quốc tế được pháp luật quy định: đối
với Điều ước quốc tế về thương mại Nhà nước đã tham gia kí kết và phê chuẩn,
chúng ta sẽ tuân theo những quy định trong Điều ước quốc tế. Còn đối với Điều
ước quốc tế mà Nhà nước vẫn chưa tham gia và chưa công nhận, chúng ta có
quyền bảo lưu, không áp dụng những quy định trái với pháp luật Việt Nam.
1.3.3.3 Tập quán thương mại
Nói đến nguồn của Luật thương mại, không thể không nói đến tập quán
thương mại. Tập quán thương mại có thể hiểu là thói quen được thừa nhận
rộng rãi trong hoạt động thương mại trên một vùng, miền hoặc một lĩnh vực
thương mại có nội dung rõ ràng được các bên thừa nhận để xác định quyền và
nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại. Tập quán thương mại có ý
nghĩa đặc biệt trong việc giải thích và bổ sung các nghĩa vụ hợp đồng. Trong
hoạt động, nếu các bên đương sự cùng làm một nghề và cùng là thương gia,
không viện dẫn rõ ràng một số điểm đã được thói quen chấp nhận thì các bên
đó mặc nhiên công nhận tập quán.
Mặc dù hệ thống pháp luật nước ta không phải là hệ thống luật tập
quán, các án lệ không được coi là nguồn của luật, nhưng trong hoạt động
21
thương mại tập quán thương mại thường được áp dụng, đặt biệt trong hoạt
động thương mại với thương nhân nước ngoài, ví dụ, trong thanh toán theo
thể thức L/C (thư tín dụng), quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng
chứng từ (UCP) cũng thường được các bên thanh toán áp dụng hoặc trong
giao nhận hàng hóa với thương nhân, INCOTERMS 2000 và INCOTERM
2010 (Các điều khoản thương mại quốc tế) thường được áp dụng.
Pháp luật Việt Nam cũng có những quy định về việc áp dụng tập quán
trong những trường hợp nhất định. Theo Điều 5 Bộ luật dân sự Việt Nam
2015, hay điều 3 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005, trong trường hợp pháp luật
không quy định về các bên không có thỏa thuận thì có thể áp dụng tập quán,
nếu tập quán này không trái với các nguyên tắc của pháp luật Việt Nam. Tại
khoản 1 Điều 5 Luật thương mại Việt Nam 2005 cũng cho phép các bên trong
quan hệ hợp đồng quốc tế được thỏa thuận áp dụng tập quán thương mại quốc
tế nếu tập quán đó không trái với pháp luật Việt Nam.
Trong điều kiện quốc tế hóa đời sống kinh tế hiện nay, các quan hệ
song phương và đa phương giữa các quốc gia đang phát triển tích cực cả về
chiều sâu và chiều rộng thì tập quán thương mại quốc tế càng có ý nghĩa trong
việc điều chỉnh các quan hệ thương mại.
1.3.3.4 Điều lệ của thương nhân
Bên cạnh những nguồn quan trọng kể trên, điều lệ về tổ chức và hoạt
động của thương nhân (đặc biệt thương nhân là pháp nhân) cũng được coi là
nguồn của luật thương mại. Trên cơ sở quy định của pháp luật, điều lệ của
thương nhân là văn bản do chính thương nhân ban hành và được Nhà nước
thừa nhận thông qua một hình thức nhất định nhằm cụ thể hóa, chi tiết hóa các
quy định của pháp luật cho phù hợp với điều kiện về tổ chức và hoạt động của
mỗi thương nhân. Các quy định trong điều lệ của thương nhân được sử dụng
chủ yếu để điều chỉnh quan hệ trong nội bộ của thương nhân. Tuy nhiên trên
22
thực tế, trong nhiều trường hợp cụ thể, cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước
sử dụng điều lệ như là một căn cứ pháp lý để xử lý các vấn đề liên quan đến
quyền và nghĩa vụ của thương nhân cũng như các bộ phận cấu thành của nó.
Điều đó thể hiện điều lệ của thương nhân cũng là nguồn của luật thương mại.
1.4 Phân loại thƣơng nhân
1.4.1 Các cách phân loại thƣơng nhân
Thương nhân là chủ thể cơ bản của luật thương mại và khái niệm
thương nhân là khái niệm quan trọng bậc nhất trong pháp luật thương mại của
các nước trên thế giới. Mặc dù các quốc gia đều đã đưa ra rất nhiều quy định
để điều chỉnh về chế định thương nhân nhưng đây vẫn là một vấn đề rất rộng
và cần được tìm hiểu sâu hơn nữa. Trước tiên để hiểu cơ bản về thương nhân,
ta có thể phân loại thương nhân thành những loại khác nhau để phân tích.
Trên thế giới hiện nay có rất nhiều cách phân loại thương nhân: xét về
tư cách thương nhân gồm: thương nhân có tư cách đầy đủ và thương nhân
khuyết tư cách, xét về quốc tịch của thương nhân gồm: thương nhân trong
nước và thương nhân nước ngoài, xét về cơ sở hoạt động kinh doanh của
thương nhân gồm: thương nhân có cơ sở kinh doanh và thương nhân không
có cơ sở kinh doanh, xét về ngành nghề kinh doanh của thương nhân gồm:
thương nhân hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, thương nhân hoạt động trong
lĩnh vực đầu tư... Nói chung, xét theo mỗi khía cạnh ta đều có những cách
phân loại thương nhân khác nhau tùy theo cách tiếp cận về thương nhân của
mỗi quốc gia trên thế giới.
Tuy nhiên, nhìn chung cách phân loại thương nhân phổ biến nhất được
các nhà học thuật tập trung nghiên cứu hiện nay là cách phân loại theo hình
thức tổ chức kinh doanh của thương nhân chia thương nhân thành hai loại:
Thương nhân thể nhân và thương nhân pháp nhân.
Pháp luật Việt Nam cũng đi theo quan điểm chung của thế giới, chia
thương nhân thành hai loại chính gồm thương nhân thể nhân (cá nhân kinh
23
doanh và doanh nghiệp tư nhân) và thương nhân pháp nhân (chủ yếu là các
loại hình doanh nghiệp)... Tuy nhiên, bên cạnh đó luật thương mại và các văn
bản pháp luật liên quan của Việt Nam còn đề cập đến một số đối tượng chủ
thể khác như: hộ gia đình, tổ hợp tác. Đây là những chủ thể còn gây nhiều
tra
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 00050008258_009_2002949.pdf