Luật kinh tế - Chế định thương nhân ở Việt Nam

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU .1

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THƢƠNG NHÂN.6

1.1 Khái niệm và đặc điểm về thương nhân.6

1.1.1 Khái niệm về thương nhân. 6

1.1.2 Đặc điểm về thương nhân . 9

1.2 Điều kiện trở thành thương nhân . 11

1.3 Điều chỉnh của pháp luật về thương nhân. 13

1.3.1 Lược sử phát triển pháp luật về thương nhân ở Việt nam . 13

1.3.2 Chức năng của pháp luật về thương nhân ở Việt Nam . 15

1.3.3 Nguồn của pháp luật về thương nhân ở Việt Nam. 18

1.4 Phân loại thương nhân. 22

1.4.1 Các cách phân loại thương nhân . 22

1.4.2 Thương nhân thể nhân và thương nhân pháp nhân. 23

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ

THƢƠNG NHÂN . 31

2.1 Thương nhân thể nhân. 31

2.1.1 Khái niệm và Điều kiện của thương nhân thể nhân theo pháp

luật Việt Nam. 31

2.1.2 Các loại thương nhân thể nhân. 32

2.2 Thương nhân pháp nhân. 46

2.2.1 Khái niệm và Điều kiện của thương nhân pháp nhân theo pháp

luật Việt Nam. 46

2.2.2 Các loại thương nhân pháp nhân. 47

CHƢƠNG 3 NHỮNG BẤT CẬP, ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI

PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THƢƠNG NHÂN

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY . 66

pdf39 trang | Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 585 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luật kinh tế - Chế định thương nhân ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh niên hầu hết đều có một nghề nghiệp riêng. Nghề nghiệp chính là những hoạt động thường xuyên, lâu dài, mang lại những nguồn lợi nhất định là nguồn sinh sống cho cá nhân và gia đình của chủ thể đó. Số lượng hành vi thương mại do một chủ thể thực hiện không đem lại tư cách thương nhân cho chủ thể. Một chủ thể chỉ 10 được coi là thương nhân khi thực hiện một hoạt động thương mại lặp đi lặp lại mang tính chất nghề nghiệp thường xuyên và có sinh lời. Thứ hai, thương nhân hoạt động thương mại một cách độc lập. Trong quá trình hoạt động thương mại, thương nhân có thể trực tiếp thực hiện các hành vi thương mại hoặc ủy quyền cho người thứ ba thay mình thực hiện hành vi thương mại đó. Tuy nhiên, mọi quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hoạt động mà người được ủy quyền thực hiện do ủy quyền thì đều thuộc về người ủy quyền. Điều này được hiểu là người làm công, người quản lý được trả công đều không phải là thương nhân. Ngược lại, người thuê và quản lý một cơ sở kinh doanh để kinh doanh mới là thương nhân. Thương nhân là chủ thể chịu trách nhiệm với toàn bộ quyền và nghĩa vụ của cơ sở kinh doanh do mình làm chủ. Ngoài ra, đối với một số nước có quy định công ty hợp danh và công ty hợp vốn đơn giản là pháp nhân – hoạt động của những công ty này được nhà nước bảo hộ như những doanh nghiệp khác thì những thành viên của công ty hợp danh và công ty hợp vốn đơn giản dù những hoạt động của họ vì lợi ích chung của cả công ty nhưng họ vẫn được coi là thương nhân vì họ phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của công ty. Thứ ba, thương nhân hoạt động phải có đăng ký kinh doanh. Đặc điểm này được áp dụng với những quốc gia quy định về thương nhân theo hình thức. Ở những quốc gia này, để trở thành thương nhân chủ thể thực hiện hành vi thương mại cần đăng ký kinh doanh với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Chỉ khi có đăng ký kinh doanh, chủ thể sẽ được công nhận tư cách thương nhân và được nhà nước thừa nhận, bảo hộ quyền lợi hợp pháp của mình trong đời sống kinh doanh. Như vậy, hiểu một cách chung nhất, thương nhân là những người thực hiện các hoạt động thương mại như một nghề nghiệp thường xuyên, lâu dài và chịu mọi trách nhiệm với các hoạt động thương mại do mình thực hiện. 11 1.2 Điều kiện trở thành thƣơng nhân Dựa theo quy định về thương nhân của mỗi quốc gia, các điều kiện về thương nhân của các nước là khác nhau. Tuy nhiên nhìn chung lại, các cá nhân và tổ chức cần đáp ứng được những điều kiện cơ bản sau để được thừa nhận tư cách thương nhân: Điều kiện thứ nhất: Để trở thành thương nhân, trước hết các chủ thể phải tồn tại dưới dạng: cá nhân hoặc tổ chức. - Cá nhân: được hiểu là công dân có đầy đủ năng lực trách nhiệm dân sự và năng lực hành vi dân sự và không bị pháp luật cấm kinh doanh thương mại. Theo Luật thương mại Việt Nam, cá nhân đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ nếu có yêu cầu hoạt động thương mại thì được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp tư nhân, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và trở thành thương nhân.[29] - Tổ chức: Những tổ chức được công nhận tư cách thương nhân trước hết phải là những tổ chức được thành lập hợp pháp, hoạt động độc lập và hoạt động của tổ chức không phụ thuộc vào ý chí riêng của các thành viên tổ chức đó. Theo thông lệ pháp luật quốc tế, thương nhân được phân loại thành hai loại chính là thương nhân thể nhân là các cá nhân kinh doanh và thương nhân pháp nhân là những tổ chức được hành lập hợp pháp chủ yếu tồn tại dưới dạng các loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân. Điều kiện thứ hai: Các chủ thể trên chỉ trở thành thương nhân nếu tiến hành các hoạt động được coi là các hành vi thương mại. Trên thế giới có rất nhiều quan điểm về phân loại hành vi thương mại khác nhau. Nhìn chung các nhà nghiên cứu đưa ra một cách phân loại cơ bản nhất gồm hai loại: hành vi thương mại thuần túy và hành vi thương mại do phụ thuộc. 12 - Hành vi thương mại thuần túy: gồm những hành vi có tính chất thương mại: Những hành vi do thương nhân thực hiện: hoạt động thương nhân cho thuê động sản. Những hành vi liên quan đến hoạt động mua bán hàng hóa: hoạt động giao nhận hàng hóa. Những hành vi mà hình thức của nó được pháp luật coi là hành vi thương mại vì bản chất của nó thuộc về công việc buôn bán: hoạt động kí phát hối phiếu, hành vi thành lập công ty thương mại. - Hành vi thương mại phụ thuộc: Những hành vi có bản chất dân sự nhưng do thương nhân thực hiện theo yêu cầu nghề nghiệp: hoạt động kí hợp đồng mua bán hàng hóa của thương nhân. Những hành vi dân sự dân sự nhưng được thực hiện do phụ thuộc vào một hành vi thương mại khác Nhìn chung, mọi hành vi do thương nhân thực hiện trong hoạt động kinh doanh đều là những hành vi thương mại trừ trường hợp thương nhân chứng minh được rằng hành vi đó thực hiện không vì mục đích thương mại. Ví dụ: Việc thương nhân quyên góp từ thiện cho tổ chức từ thiện. Khái niệm thương nhân và hành vi thương mại là hai khái niệm có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau. Một hành vi chỉ được coi là hành vi thương mại khi nó được thực hiện bởi các thương nhân hoặc thực hiện trong khuôn khổ các hoạt động thương mại của thương nhân. Bên cạnh đó, một chủ thể chỉ được coi là thương nhân khi thực hiện các hành vi thương mại. Ở Việt Nam, khái niệm “hành vi thương mại” được ghi nhận trong Luật thương mại 1997 đã được Luật thương mại 2005 thay thế bằng thuật ngữ “hoạt động thương mại”. Điều 45 Luật thương mại 1997 quy định Hành vi thương mại chỉ gồm đúng 14 loại hành vi cụ thể, Luật thương mại 2005 quy 13 định các loại hoạt động thương mại mang nghĩa rộng hơn và bao quát hơn bao gồm các hoạt động nhằm mục đích sinh lời: “mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lời khác”. (Khoản 1 Điều 3 Luật thương mại 2005).[27] 1.3 Điều chỉnh của pháp luật về thƣơng nhân 1.3.1 Lƣợc sử phát triển pháp luật về thƣơng nhân ở Việt nam Trong lịch sử kinh tế của Việt Nam, thương mại hầu như chỉ được biết đến bắt đầu từ thời kỳ phong kiến khi có những hoạt động mua bán hàng, sản xuất hàng hóa ra đời. Vào thời kì này, xã hội bắt đầu có sự xuất hiện của một tầng lớp mới thực hiện các hoạt động mua bán hàng hóa để kiếm lợi, được gọi chung ở thời kì đấy là các thương gia. Tuy nhiên, hoạt động thương mại trong thời kỳ phong kiến chưa được xã hội đề cao, tầng lớp thương gia luôn đứng ở vị trí thấp nhất trong “sĩ nông công thương”. Bởi lẽ đó, các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động thương mại cũng hầu như chưa được đề cập đến. Mãi đến thời kỳ Pháp thuộc thì pháp luật Việt Nam mới có những chế định đầu tiên về luật thương mại. Năm 1864 người Pháp đem Bộ luật thương mại của mình áp dụng vào Nam kì và áp dụng ở Bắc kì năm 1988. Năm 1892, Pháp ban hành Sắc lệnh quy định việc hành nghề thương mại của người á Đông ngoại quốc và người Việt Nam sinh tại các vùng là thuộc địa của Pháp (Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng) cũng thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật Pháp. Ngoài những văn bản đó, về sau cũng có những văn bản khác quy định về từng vấn đề cụ thể như sau: Đạo luật về bán và cầm cố cửa hàng thương mại 1909; Đạo luật về bảo vệ quyền sở hữu cửa hàng thương mại 1926; Luật về hối phiếu, thương phiếu năm 1894, 1922, 1935... Mãi đến năm 1942, triều đình Huế mới ban hành bộ luật thương mại Trung phần có nội dung cơ bản giống như Bộ luật thương mại của Pháp, có hiệu lực thi hành tại Trung bộ từ ngày 25/1/1944. 14 Năm 1954, đất nước bị chia cắt thành hai miền với chế độ chính trị khác nhau. Ở miền Nam, chính phủ Việt Nam cộng hòa đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về thương mại quan trọng như : Luật số 13/57 về nhãn hiệu thương mại; Luật số 12/5 về bằng sáng chế Nghị định số 92/BKT/CKN ngày 9/4/198 và Nghị định số 406/BKT/ND ngày 11/10/1968 về danh sách các ngành nghề tiểu công nghệ...quan trọng nhất là Bộ luật thương mại ban hành 20/12/1972 với nội dung khá phong phú, đề cập đến nhiều vấn đề của đời sống thương mại lúc đó ở miền Nam Việt Nam như nhiệm vụ nghề nghiệp của nhà buôn hay thương gia và sự hành nghề thương mại... Trái lại, ở miền Bắc, trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, việc kinh doanh chủ yếu được các tổ chức thuộc thành phần kinh tế quốc doanh tiến hành. Do đó, luật kinh tế điều chỉnh những quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình kinh doanh XHCN tập trung ghi nhận các chế độ pháp lý liên quan đến việc tổ chức và hoạt động của các tổ chức kinh tế quốc doanh. Đến khi chúng ta bắt đầu bước vào xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã làm thay đổi cơ bản tính chất của các quan hệ trong kinh doanh. Về thực chất, luật kinh tế trong giai đoạn này vẫn được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, điều chỉnh những quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp hoặc giữa chúng với cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội của đất nước. Để đáp ứng yêu cầu của cơ chế quản lý kinh tế mới, Nhà nước đã ban hành một loạt văn bản pháp luật kinh tế mới thay thế những văn bản ban hành trước đây như Luật Doanh nghiệp 1999, Luật Doanh nghiệp Nhà nước 1995, Luật hợp tác xã 1996, Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993, Luật thương mại 1997... Cho đến nay, cùng với sự phát triển và mở cửa hội nhập của nền kinh tế Việt Nam chúng ta đang có gắng tạo một hành lang pháp lý thông thoáng, 15 hiệu quả nhằm tăng trưởng kinh tế, tạo môi trường ổn định và hiệu quả cho các nhà kinh doanh trong và ngoài nước đầu tư vào nền kinh tế. Do đó, chung ta cũng đã sửa đổi, bổ sung vào những văn bản đang hiện hành sao cho phù hợp với sự phát triển, đồng thời ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về thương mại mới, nhằm giúp cho nền kinh tế ngày càng phát triển như: Luật thương mại 2005, Luật Doanh nghiệp 2014, Luật cạnh tranh, Luật đầu tư, Luật phá sản, Luật đấu thầu... Nói tóm lại thương nhân và hoạt động thương mại xuất hiện ở nước ta từ rất sớm, song sự phát triển của chúng lại là những thăng trầm. Tựu chung, Việt Nam không có truyền thống trong lĩnh vực thương mại giống như các quốc gia nông nghiệp khác. Cho mãi tới những năm gần đây, nhận thức về hoạt động thương mại và vị trí của các thương nhân mới được đổi mới theo đúng xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới. Chúng ta đã có những thay đổi lớn về cả nội dung lẫn hình thức của các văn bản pháp luật nói chung và các văn bản liên quan đến kinh tế, thương mại nói riêng, từ đó có thể thấy sự phát triển của hệ thống pháp luật nước ta ngày càng tiến gần tới sự hoàn thiện. 1.3.2 Chức năng của pháp luật về thƣơng nhân ở Việt Nam Pháp luật về thương nhân ra đời và phát triển là một hệ quả tất yếu của quá trình hoạt động kinh doanh thương mại. Các giao dịch thương mại ngày càng đa dạng và phức tạp thì yêu cầu điều chỉnh của pháp luật càng trở lên cấp thiết hơn. Chính bởi vậy, mà các quy định của pháp luật về thương nhân cơ bản phải chứa đựng những chức năng sau: - Trước tiên, pháp luật về thương nhân đóng vai rò là khuôn khổ pháp lý quan trọng nhất quy định về tư cách chủ thể của các loại hình thương nhân – chủ thể chính của pháp luật thương mại. Việc xác định tư cách thương nhân cho một chủ thể có ý nghĩa hết sức quan trọng vì mỗi loại chủ thể lại chịu sự điều chỉnh của các quy chế khác nhau vì chúng hàm chứa trong mình những 16 đặc đặc điểm tương đối khác nhau. Xác nhận địa vị pháp lý, tư cách của thương nhân trên thương trường nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thương nhân cũng như những người có quan hệ kinh doanh đối với họ. Trên cơ sở các quy định pháp luật, thương nhân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình để tiến hành các giao dịch thương mại với thương nhân cũng như với tổ chức và cá nhân khác trong và ngoài nước. - Các chủ thể tham gia vào các hoạt động thương mại dựa trên nguyên tắc tự do, bình đẳng và độc lập nhưng luôn phải dưới dự chỉ đạo và quản lý chung của Nhà nước. Nhà nước thực hiện việc kiểm soát đối với hoạt động của các thương nhân cũng như diễn biến của nền kinh tế nói chung thông qua các quy định pháp luật về thương nhân. Trên cơ sở nắm bắt các thông tin về nhu cầu và hoạt động thực trạng của thương nhân trong từng thời kỳ, Nhà nước hoạch định, điều chỉnh hay thay đổi các chính sách thích ứng phù hợp với chính sách phát triển kinh tế của mình. - Các quy định pháp luật về thương nhân còn là cơ sở cho thương nhân thực hiện các dự định hoặc kế hoạch. Pháp luật đưa ra những nguyên tắc hoạt động nhất định như trung thực, thiện chí tạo niềm tin cho các chủ thể trong quá trình hoạt động kinh doanh thương mại. Trong tình hình nền kinh tế hiện nay, các hoạt động diễn ra sôi động, một thương nhân phải suy nghĩ và thay đổi chiến lược kinh doanh không ngừng để bắt kịp được xu thế cũng như tận dụng được thời gian, trí lực, thể lực. Việc tính toán trước những kế hoạch hoạt động trong tương lai phải dựa trên sự tin tưởng vào pháp luật, tin tưởng vào các quy định của pháp luật thương mại bảo đảm cho các dự định kinh doanh trở thành hiện thực hay nói đúng hơn là tạo ra các khả năng để thương nhân có thể hoạch định các công việc của mình. Vì thế, các nguyên tắc như trung thực, thiện chí trong hoạt động kinh doanh được luật thương mại rất đề cao. - Các quy định pháp luật thương mại nói chung và pháp luật về thương nhân nói riêng còn là tiền đề cho sự phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ 17 pháp luật về thương mại; mở rộng giao lưu thương mại với nước ngoài. Chính các quy định pháp luật về thương nhân là điều kiện để thương nhân tiến hành các hoạt động thương mại của mình phù hợp với sự phát triển chung của nền kinh tế. Qua đó, tạo ra môi trường bình đẳng cho hoạt động của thương nhân, thương nhân được cạnh tranh hợp pháp trong hoạt động thương mại và nghiêm cấm các hành vi đầu cơ, lũng đoạn thị trường, bán phá giá để cạnh tranh, dèm pha thương nhân khác, đe doạ nhân viên hoặc khách hàng của thương nhân khác, vi phạm quyền sở hữu công nghiệp. Chính điều này đã có tác dụng tích cực đối với sự phát triển của nền kinh tế. Bởi lẽ, các hoạt động thương mại của thương nhân trên thị trường là nhằm mục đích phục vụ các nhu cầu trực tiếp của xã hội. - Như chúng ta đã biết khi xây dựng pháp luật thương mại người ta thường dựa vào hai mảng vấn đề lớn: hoặc là chủ thể, coi luật thương mại là luật riêng của thương nhân như cách làm của Bộ luật Thương mại Đức ban hành năm 1897 tập trung các quy định vào thương nhân; hoặc là theo khách thể, coi luật thương mại là luật điều chỉnh hành vi mang tính thương mại như cách làm của Bộ luật Thương mại Pháp ban hành năm 1807 tập trung các quy định vào hành vi thương mại. Song thực tiễn phát triển pháp luật thương mại đã chứng minh rằng cả hai phương pháp trên đều hàm chứa cả vấn đề chủ thể lẫn vấn đề khách thể. Bởi, thương nhân là chủ thể chính thực hiện các hành vi thương mại. Do đó, khi xây dựng được một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh về thương nhân cũng là điều kiện tiền đề cho các hành vi thương mại được hiện thực hoá trên thương trường. Nói tóm lại, pháp luật về thương nhân đang ngày càng khẳng định được vị trí quan trọng của mình đối với sự phát triển của thương mại nói riêng và của đất nước nói chung. Bởi lẽ, với tư cách là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường, thương nhân là người trực tiếp tiến hành các 18 hoạt động thương mại với nhiều mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa các mảng của quan hệ kinh doanh đa dạng, phức tạp, phần nào chịu sự điều tiết của các ngành luật khác là một vấn đề rất phức tạp. Một hệ thống pháp luật hoàn thiện về thương nhân sẽ là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thị trường thương mại. 1.3.3 Nguồn của pháp luật về thƣơng nhân ở Việt Nam Nguồn của một ngành luật là tổng hợp những văn bản pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh một quan hệ xã hội nhất định. Nguồn pháp luật ghi nhận về thương nhân cũng chính là nguồn của pháp luật thương mại vì thương nhân và quan hệ giữa các thương nhân là chủ thể và đối tượng điều chỉnh chính của luật thương mại. Đặc thù trong việc điều chỉnh các quan hệ thương mại nên nguồn của luật thương mại không chỉ bao gồm các văn bản pháp luật mà còn có thể là các văn bản quy phạm khác. Nguồn của luật thương mại bao gồm các nhóm văn bản cơ bản sau: 1.3.3.1 Các văn bản quy phạm pháp luật a) Hiến pháp Đây là đạo luật cơ bản của Nhà nước, xác định chế độ chính trị, kinh tế – xã hội của đất nước nên Hiến pháp có giá trị cao nhất và là nguồn của nhiều ngành luật, trong đó có luật thương mại. Trong hiến pháp có ghi nhận những vấn đề quan trọng sau: - Xác định rõ định hướng cũng như mục đích xây dựng nền kinh tế của đất nước - Xác định rõ chế độ sở hữu Nhà nước - Ghi nhận các biện pháp khuyến khích và bảo hộ đầu tư - Ghi nhận quyền tự do kinh doanh của công dân Ngoài ra còn nhiều những quy định khác trong Hiến pháp quy định về hoạt động thương mại. Hiến pháp là nguồn rất quan trọng của luật thương mại. 19 b) Bộ luật Dân sự Sau Hiến pháp, Bộ luật dân sự là đạo luật có vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật, liên quan mật thiết đến mọi mặt của đời sống thường ngày của người dân, trong đó có lĩnh vực thương mại. Thông qua những quy định về các vấn đề như tài sản, quyền sở hữu, bảo vệ quyền sở hữu, hợp đồng, sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ,...Bộ luật Dân sự quy định các chuẩn mực pháp lý cho các quan hệ thương mại phát triển trong môi trường thuận lợi, đưa lại cho các giao dịch độ tin cậy pháp lý cao. Cùng với các văn bản khác trong hệ thống pháp luật kinh tế, Bộ luật dân sự góp phần xây dựng lên khung pháp lý cần thiết cho sự vận hành của nền kinh tế thị trường, tạo nên môi trường pháp lý thuận lợi, thống nhất cho các thương nhân hoạt động và phát triển. c) Các luật do Quốc hội thông qua Ở Việt Nam hiện nay, các văn bản là nguồn luật thương mại do Quốc hội thông qua có một số lượng khá lớn: - Các luật quy định về địa vị pháp lý của các thương nhân: Luật Doanh nghiệp 2014, Luật hợp tác xã 2012... - Các luật quy định cụ thể về các loại hành vi thương mại như: Luật thương mại 2005, Luật ngân hàng và các tổ chức tín dụng 2010, Luật đầu tư 2014, Luật chứng khoán... - Các quy định về thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản đối với thương nhân lâm vào tình trạng phá sản được quy định tại Luật phá sản 2014. d) Các văn bản dƣới luật Các văn bản dưới luật cũng là nguồn quan trọng của Luật thương mại bao gồm Pháp lệnh của ủy ban thường vụ Quốc hội, Nghị định của Chính Phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính Phủ và các Thông tư của các Bộ, Cơ quan ngang Bộ. 20 1.3.3.2 Điều ước quốc tế Điều ước quốc tế là sự thỏa thuận giữa các chủ thể của công pháp quốc tế (chủ yếu là các quốc gia) trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện nhằm thiết lập nguyên tắc pháp lý bắt buộc, là cơ sở cho hoạt động thương mại. Điều ước quốc tế có thể chi ra làm hai loại: Các điều ước có tính chất chỉ đạo, quy định những nguyên tắc chung về hoạt động thương mại giữa các quốc gia tham gia kí kết, ví dụ như Hiệp định thương mại hàng hải, Hiệp định thương mại Việt Mỹ... Và các điều ước điều chỉnh trực tiếp các quan hệ thương mại cụ thể như Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế, Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS, thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa... Ở Việt Nam, việc áp dụng Điều ước quốc tế được pháp luật quy định: đối với Điều ước quốc tế về thương mại Nhà nước đã tham gia kí kết và phê chuẩn, chúng ta sẽ tuân theo những quy định trong Điều ước quốc tế. Còn đối với Điều ước quốc tế mà Nhà nước vẫn chưa tham gia và chưa công nhận, chúng ta có quyền bảo lưu, không áp dụng những quy định trái với pháp luật Việt Nam. 1.3.3.3 Tập quán thương mại Nói đến nguồn của Luật thương mại, không thể không nói đến tập quán thương mại. Tập quán thương mại có thể hiểu là thói quen được thừa nhận rộng rãi trong hoạt động thương mại trên một vùng, miền hoặc một lĩnh vực thương mại có nội dung rõ ràng được các bên thừa nhận để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại. Tập quán thương mại có ý nghĩa đặc biệt trong việc giải thích và bổ sung các nghĩa vụ hợp đồng. Trong hoạt động, nếu các bên đương sự cùng làm một nghề và cùng là thương gia, không viện dẫn rõ ràng một số điểm đã được thói quen chấp nhận thì các bên đó mặc nhiên công nhận tập quán. Mặc dù hệ thống pháp luật nước ta không phải là hệ thống luật tập quán, các án lệ không được coi là nguồn của luật, nhưng trong hoạt động 21 thương mại tập quán thương mại thường được áp dụng, đặt biệt trong hoạt động thương mại với thương nhân nước ngoài, ví dụ, trong thanh toán theo thể thức L/C (thư tín dụng), quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ (UCP) cũng thường được các bên thanh toán áp dụng hoặc trong giao nhận hàng hóa với thương nhân, INCOTERMS 2000 và INCOTERM 2010 (Các điều khoản thương mại quốc tế) thường được áp dụng. Pháp luật Việt Nam cũng có những quy định về việc áp dụng tập quán trong những trường hợp nhất định. Theo Điều 5 Bộ luật dân sự Việt Nam 2015, hay điều 3 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005, trong trường hợp pháp luật không quy định về các bên không có thỏa thuận thì có thể áp dụng tập quán, nếu tập quán này không trái với các nguyên tắc của pháp luật Việt Nam. Tại khoản 1 Điều 5 Luật thương mại Việt Nam 2005 cũng cho phép các bên trong quan hệ hợp đồng quốc tế được thỏa thuận áp dụng tập quán thương mại quốc tế nếu tập quán đó không trái với pháp luật Việt Nam. Trong điều kiện quốc tế hóa đời sống kinh tế hiện nay, các quan hệ song phương và đa phương giữa các quốc gia đang phát triển tích cực cả về chiều sâu và chiều rộng thì tập quán thương mại quốc tế càng có ý nghĩa trong việc điều chỉnh các quan hệ thương mại. 1.3.3.4 Điều lệ của thương nhân Bên cạnh những nguồn quan trọng kể trên, điều lệ về tổ chức và hoạt động của thương nhân (đặc biệt thương nhân là pháp nhân) cũng được coi là nguồn của luật thương mại. Trên cơ sở quy định của pháp luật, điều lệ của thương nhân là văn bản do chính thương nhân ban hành và được Nhà nước thừa nhận thông qua một hình thức nhất định nhằm cụ thể hóa, chi tiết hóa các quy định của pháp luật cho phù hợp với điều kiện về tổ chức và hoạt động của mỗi thương nhân. Các quy định trong điều lệ của thương nhân được sử dụng chủ yếu để điều chỉnh quan hệ trong nội bộ của thương nhân. Tuy nhiên trên 22 thực tế, trong nhiều trường hợp cụ thể, cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước sử dụng điều lệ như là một căn cứ pháp lý để xử lý các vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của thương nhân cũng như các bộ phận cấu thành của nó. Điều đó thể hiện điều lệ của thương nhân cũng là nguồn của luật thương mại. 1.4 Phân loại thƣơng nhân 1.4.1 Các cách phân loại thƣơng nhân Thương nhân là chủ thể cơ bản của luật thương mại và khái niệm thương nhân là khái niệm quan trọng bậc nhất trong pháp luật thương mại của các nước trên thế giới. Mặc dù các quốc gia đều đã đưa ra rất nhiều quy định để điều chỉnh về chế định thương nhân nhưng đây vẫn là một vấn đề rất rộng và cần được tìm hiểu sâu hơn nữa. Trước tiên để hiểu cơ bản về thương nhân, ta có thể phân loại thương nhân thành những loại khác nhau để phân tích. Trên thế giới hiện nay có rất nhiều cách phân loại thương nhân: xét về tư cách thương nhân gồm: thương nhân có tư cách đầy đủ và thương nhân khuyết tư cách, xét về quốc tịch của thương nhân gồm: thương nhân trong nước và thương nhân nước ngoài, xét về cơ sở hoạt động kinh doanh của thương nhân gồm: thương nhân có cơ sở kinh doanh và thương nhân không có cơ sở kinh doanh, xét về ngành nghề kinh doanh của thương nhân gồm: thương nhân hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, thương nhân hoạt động trong lĩnh vực đầu tư... Nói chung, xét theo mỗi khía cạnh ta đều có những cách phân loại thương nhân khác nhau tùy theo cách tiếp cận về thương nhân của mỗi quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, nhìn chung cách phân loại thương nhân phổ biến nhất được các nhà học thuật tập trung nghiên cứu hiện nay là cách phân loại theo hình thức tổ chức kinh doanh của thương nhân chia thương nhân thành hai loại: Thương nhân thể nhân và thương nhân pháp nhân. Pháp luật Việt Nam cũng đi theo quan điểm chung của thế giới, chia thương nhân thành hai loại chính gồm thương nhân thể nhân (cá nhân kinh 23 doanh và doanh nghiệp tư nhân) và thương nhân pháp nhân (chủ yếu là các loại hình doanh nghiệp)... Tuy nhiên, bên cạnh đó luật thương mại và các văn bản pháp luật liên quan của Việt Nam còn đề cập đến một số đối tượng chủ thể khác như: hộ gia đình, tổ hợp tác. Đây là những chủ thể còn gây nhiều tra

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf00050008258_009_2002949.pdf
Tài liệu liên quan