Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực nông thôn phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước

Lời nói đầu 1

Phần I:

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC . 3

 I. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI NGUỒN NHÂN LỰC . 3

1.Khái niệm nguồn nhân lực. 3

2.Phân loại Nguồn nhân lực 4

3. Vai trò của Nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình

công nghiệp hoá- hiện đại hoá của nước ta. 9

II.NỘI DUNG CỦA PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NÔNG THÔN. 12

1.Số lượng Nguồn nhân lực 13

2.chất lượng Nguồn nhân lực. 13

III.CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC

THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HOÁ HIỆN ĐẠI HOÁ 18

1. Đường lối công nghiệp hoá- hiện đại hoá của Đảng 18

2.Thực trạng tình hình kinh tế xã hội 19

3. Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương, vùng 19

4. Quan hệ cung cầu về lao động 19

Phần II: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂNNGUỒN NHÂN LỰC Ở NÔNG THÔN PHỤC VỤ SỰ NGHIỆPCÔNG NGHIỆP HOÁ- HIỆN ĐẠI HOÁ Ở NƯỚC TA 20

I/ NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA NÔNG THÔN VIỆT NAM ẢNH HƯỞNG ĐẾN

QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC 20

II/ THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC NÔNG THÔN NƯỚC TA KHI BƯỚC

VÀO THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HOÁ- HIỆN ĐẠI HOÁ . 22

1/ Nguồn nhân lực nông thôn chiếm tỉ trọng lớn và tăng nhanh 22

2/ Nguồn nhân lực nông thôn phân bố không đều giữa các ngành

và các vùng 26

3/ Nguồn nhân lực nông thôn còn thiếu việc làm và thu nhập thấp 30

4/ Chất lượng Nguồn nhân lực nông thôn . 37

Phần III:MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NÔNG THÔN PHỤC VỤ SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ- HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC. 45

I/ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ- XÃ HỘI CỦA NƯỚC TA

TRONG NHỮNG NĂM TỚI (2001-2005) . 45

II/ MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NÔNG THÔN PHỤC

VỤ SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ- HIỆN ĐẠI HOÁ Ở NƯỚC TA. 48

1/ Hoàn thiện chính sách phát triển Nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ. 49

2/ Hoàn thiện, nâng cấp cơ sở hạ tầng ở nông thôn 50

3/Đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành nghề nông thôn theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. 51

4/ Nâng cao chất lượng lao động nông thôn. 53

5/ Tăng cường nguồn lực cho phát triển kinh tế và tạo việc làm cho lao động nông thôn . 57

Kết luận 61

Tài liệu tham khảo

doc64 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1322 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực nông thôn phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ội như vậy là vì cơ cấu lao động xã hội đã có sự thay đổi theo định hướng ; lao động trong ngành lao động nông nghiệp giảm xuống, lao động trong ngành công nghiệp và xây dựng, ngành dịch vụ tăng lên. Sự thay đổi này rất tốt, làm chuyển dịch cơ cấu lao động , phát triển nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. 2/ Nguồn nhân lực nông thôn phân bố không đều giữa các ngành và các vùng Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới , sản xuất nông nghiệp đã phát triển tương đối toàn diện theo hướng sản xuất hàng hoá và đạt được tốc độ tăng trưởng bình quân 4,3%/ năm . Tuy nhiên, Nguồn nhân lực vẫn chủ yếu tập trung ở nông nghiệp , lao động thuần nông chiếm phần lớn . Để đạt được các mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ,cơ cấu lao động , giải quyết có hiệu quả vấn đề việc làm, giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp xuống còn khoảng 50% vào năm 2010 và để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp thì vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn trở thành mối quan tâm hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Biểu 3: Cơ cấu phân công lao động nông thôn theo 3 nhóm ngành chính qua các năm (1992-2001) Năm 1992 1996 2000 2001 Nông lâm nghiệp 81,6 81,64 76,66 60,54 Công nghiệp và Xây dựng 7,45 6,83 8,86 14,41 Dịch vụ 10,95 11,53 14,48 25,05 Nguồn: Tổng hợp: Tạp chí Kinh Tế- Xã Hội Nông Thôn ngày nay 9/1993 Tổng Cục Thống Kê 1994 Thị Trường Lao Động (10/2001) Kết quả một số cuộc điều tra trong những năm qua cho thấy trên phạm vi cả nước, tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ tăng còn tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm, mặc dù xu thế này diễn ra chậm, tỉ lệ lao động ở nông thôn trong khu vực sản xuất nông lâm nghiệp tăng không đáng kể từ 81,6% năm 1992 lên 81,64% năm 1996 và giảm xuống còn 76,66% năm 2000, 60,4% năm 2001. Từ năm 2000-2001, chỉ trong thời gian 1 năm tỷ lệ lao động trong ngành nông lâm nghiệp giảm 16,2%, trong khi từ 1996-2001 tỷ lệ trung bình mỗi năm giảm 2%. Tỷ lệ lao động trong khu vực sản xuất công nghiệp , xây dựng và dịch vụ tăng từ 18,4% năm 1992 lên 23,34% năm 2000 và lên 39,46% năm 2001, như vậy, trong thời kỳ 1992-2001 , tỷ lệ lao động trong ngành công nghiệp – xây dựng- dịch vụ tăng lên 21,06%, trung bình mỗi năm chỉ tăng 2%, nhưng từ năm 2000-2001, tỷ lệ này tăng lại lên đến 16,12% . Các chỉ tiêu về cơ cấu lao động xã hội trên phản ánh trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam còn thấp so với các nước trong khu vực. Tỷ trọng lao động trong nông nghiệp của Thái Lan chỉ chiếm 49,37% trong tổng lực lượng lao động xã hội năm 1998, tương tự chỉ tiêu này của Philippin là 36%, Mianma là 51,11% (năm 1997), Mailaixia 15,7% và Inđônêxia 42,5% ( Niên giám thống kê 1999 trang 429, 430). Cơ cấu lao động này cũng phản ánh trình độ công nghiệp hoá- hiện đại hoá, trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động Việt Nam còn ở mức thấp kể từ năm 2000 trở về trước , tiến trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá còn rất chậm, riêng năm 2001 sự chuyển dịch này tăng lên mạnh mẽ, báo hiệu tốc độ công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở nước ta nói chung và nông thôn nói riêng đang ngày càng phát triển và có lợi cho đất nước Biểu 4: cơ cấu lao động nông thôn theo ngành và theo vùng kinh tế ( đơn vị: %) Vùng kinh tế 1996 2000 Nông lâm ngư nghiệp Công nghiệp và xây dựng Dịch vụ Nông lâm ngư nghiệp Công nghiệp và xây dựng Dịch vụ Toàn quốc 81,64 6,83 11,53 76,66 8,86 14,48 Đồng Bằng Sông Hồng 85,21 6,29 8,5 75,00 11,08 13,92 Đông Bắc 92,42 2,41 5,17 90,23 3,51 6,26 Tây Bắc 97,84 0,1 2,06 95,68 0,88 3,45 Bắc Trung Bộ 86,3 5,51 8,19 78,76 9,03 12,22 Duyên hải miền Trung 80,28 7,28 12,44 74,96 9,7 15,35 Tây Nguyên 89,65 2,99 7,36 90,24 2,08 7,68 Đông Nam Bộ 63,43 16,32 20,25 60,50 15,94 23,56 Đồng bằng Sông Cửu Long 73,21 8,19 18,6 70,01 9,36 20,63 Nguồn: Tổng hợp từ Tạp chí lao động và xã hội( số12/2001) vàTạp Chí Con Sốvà Sự Kiện số5 , 6/ 2000 Như vậy, sau 5 năm, cơ cấu lao động nông thôn chuyển dịch theo xu hướng tăng tỷ trọng lao động phi nông nghiệp, giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp. Mặc dù vậy, sự chuyển dịch này diễn ra với tốc độ chậm và có sự khác biệt đáng kể giữa các vùng. Đồng bằng Sông Hồng có sự chuyển dịch nhanh nhất, sau 5 năm tỷ lệ lao động nông nghiệp giảm hơn 10 % , trung bình mỗi năm giảm 2% trong khi cả nước chỉ giảm khoảng 1%. Điều này thể hiện phần nào lợi thế của vùng trong việc khôi phục và phát triển làng, phát triển ngành nghề phi nông nghiệp. Các vùng Đông Bắc và Tây Bắc có sự chuyển biến chậm , ở Tây Nguyên có sự có sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo chiều hướng ngược lại , hoặc có thể coi như không có sự thay đổi. Sau 5 năm tỷ trọng lao động nông nghiệp của vùng tăng từ 89,65% năm 1996 lên 90,24 năm 2000, tỷ trọng này tuy tăng không nhiều song đây là dấu hiệu không mấy khả quan so với xu thế chung cuả cả nước. Vùng Đông Nam Bộ có tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp và xây dựng là 16,32%, dịch vụ là 20,25% (năm 1996) , tỷ lệ này tăng lên ở năm 2000 là 15,94% và 23,56%. Đây là vùng có tỷ lệ lao động tham gia vào các ngành công nghiệp , xây dựng, dịch vụ lớn nhất so với các vùng khác. Sự chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn như vậy chứng tỏ mức độ công nghiệp hoá nông thôn còn chậm và chưa tạo được sự chuyển dịch lao động. Nói cách khác, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động không chỉ phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế chung của cả nước mà còn phụ thuộc đáng kể vào sự phát triển của khu vực phi nông nghiệp ngay tại các vùng nông thôn , mức độ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, khả năng mở mang và phát triển các khu công nghiệp , đô thị mới 3/ Nguồn nhân lực nông thôn còn thiếu việc làm và thu nhập thấp Biểu 5 : Tỷ lệ lao động thất nghiệp ở nông thôn qua các năm ( 1996 – 2000) Năm 1996 1997 1998 1999 2000 Tỉ lệ lao động thất nghiệp(%) 0,6 2,2 3,1 4,2 4,8 Nguồn: Tạp chí Lao động xã hội ( 19/4/2000) Nguồn lao động thất nghiệp nông thôn tăng nhanh , gây cản trở cho quá trình giải quyết công ăn việc làm , là mối quan tâm hàng đầu của xã hội. Năm 1996, tỷ lệ lao động thất nghiệp ở nông thôn chỉ có 0,6% , năm 1997 tăng lên 2,2%, năm 1998 đã lên tới 3,1% , năm 1999 là 4,2% và năm 2000 là 4,8%. Đây chính là nguyên nhân chủ yếu khiến cho dòng lao động nông thôn tràn vào các thành phố( nhất là các thành phố lớn) ngày càng mạnh và càng làm cho vấn đề lao động, thất nghiệp trở nên bức xúc hơn .Với phương châm sẵn sàng làm bất cứ việc gì để có thu nhập cho bản thân, gia đình, người lao động di dân từ nông thôn ra thành thị chấp nhận sinh sống trong những điều kiện môi trường ô nhiễm, chui rúc, làm phát sinh bệnh tật, ảnh hưởng trầm trọng đến sức khoẻ và đồng thời cũng làm phát sinh ra các tệ nạn xã hội , gây nên những bất ổn về tình hình an ninh trật tự xã hội cho các đô thị. Biểu 6 : Tỷ lệ thời gian lao động sử dụng ở nông thôn qua các năm (1996-2000) Năm Khu vực 1996 1997 1998 1999 2000 Đồng Bằng Sông Hồng 75,69 72,46 72,01 73,98 74,98 Đông Bắc 79,01 74,12 66,83 71,4 73,23 Tây Bắc 72,09 72,55 66,35 72,62 72,67 Bắc Trung Bộ 73,53 72,57 68,96 72,28 71,87 Duyên Hải Nam Trung Bộ 70,69 71,40 72,24 74,02 73,5 Tây Nguyên 74,98 73,8 76,97 78,65 76,74 Đông Nam Bộ 61,35 74,42 74,46 76,20 76,44 Đồng Bằng Sông Cửu Long 68,16 71,47 71,32 73,16 73,10 Tổng số 72,11 72,9 70,88 73,49 73,86 Nguồn : Tạp chí lao động xã hội (19/ 4/ 2000 ) Thời gian nông nhàn ở nông thôn đã tăng từ 27, 89 % ( năm 1996 ) lên 29,12 ( năm 2000 ), và giảm xuống còn 26,51% ( năm 1999 ) và 26, 14% ( năm 2000). Tuy thời gian nông nhàn ở nông thôn đã có xu hướng giảm xuống nhưng không đáng kể . Tính chung trong cả nước , tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn (năm 2000) là 73,86%, tăng hơn năm 1999 là 0,37%. Trong 8 vùng lãnh thổ của cả nước chỉ có 2 vùng có tỷ lệ này đạt cao hơn mức 75% là vùng Tây Nguyên 76,74% và vùng Đông Nam Bộ 76,44%. Năm 2001 khu vực nông thôn có hơn 30 triệu lao động , trong số đó, lao động thường xuyên thiếu việc làm khoảng 9 triệu người. Chính đặc điểm này của Nguồn nhân lực nông thôn đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải có các chính sách giải quyết việc làm , tạo ra việc làm mới , chuyển dịch cơ cấu lao động để phát triển Nguồn nhân lực nông thôn. Năm 2000 , cả nước đã giải quyết được việc làm cho khoảng 1 triệu lao động . Chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm đã có 55 vạn chỗ làm mới được tạo ra . Các trọng điểm thu hút được nhiều lao động mới là các dự án trồng rừng , dự án xây dựng đường Hồ Chí Minh , xây dựng cơ sở hạ tầng và xuất khẩu lao động . Trong 6 tháng đầu năm thành phố Hà Nội đã giải quyết việc làm cho 26.000 lao động , tăng 11,7% so với cùng kỳ năm 1999 . Tại Bình Dương , do một số dự án mới được cấp giấy phép đi vào hoạt động và các dự án cũ mở rộng sản xuất nên 6 tháng đầu năm 2000 đã giải quyết được việc làm cho 13.837 lao động . Tại Vĩnh Phúc tính đến tháng 9/ 2000 đã giải quyết được việc làm cho khoảng 7000 lao động ở khu vực nông thôn và 8000 lao động ở nghành công nghiệp và xây dựng , gần 2000 lao động ở nghành dịch vụ . Trong khu vực kinh tế nhà nước , số lao động đã tăng thêm 1,7% ( trong 6 tháng đầu năm 2000) so với cùng kỳ năm 1999 Năm 2000 , mặc dù nền kinh tế đă có dấu hiệu khởi sắc , giải quyết việc làm cho người lao động đã đạt được những kết quả khả quan hơn năm 1999 , song lao động –việc làm vẫn đang là vấn đề hết sức bức xúc . Chính từ thực tế đó , tại cuộc họp thông lệ hàng năm giữa Thủ tướng Chính phủ và các doanh nhân tại Thành phố Hồ Chí Minh vào giữa tháng 3/2000 vừa qua , Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải đã nhấn mạnh một trong năm vấn đề cần phải tháo gỡ hiện nay là “số người thất nghiệp và không có công ăn việc làm ngày càng tăng đang là vấn đề hết sức nghiêm trọng . ở thành phố có tới 7% số người thất nghiệp , còn ở nông thôn 10 triệu người , mỗi năm chỉ làm có 80 đến 100 ngày công . Không rút ra 50% số người ở nông thôn sẽ không không giải quyết được vấn đề lao động và thu nhập của nông dân “ Vấn đề là ở chỗ làm cách nào để thu hút được 50% số lao động ở nông thôn sang làm các ngành nghề phi nông nghiệp ?”. Theo báo cáo của Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội ( Bộ LĐ- TB& XH) tại Hội nghị Chính phủ mở rộng vừa diễn ra, mặc dù năm 2001, cả nước đã tạo ra được 1,4 triệu chỗ làm việc mới, nhưng bức tranh lao động- việc làm hiện nay còn nhiều gam màu tối và chưa thể có bước đột phá quan trọng trong năm 2002. Kết quả điều tra lao động- việc làm năm 2001, do Bộ LĐ- TB & XH thực hiện cho thấy, mặc dù năm 2001 tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị có giảm hơn so với năm 2000, nhưng giảm không đáng kể. Tính chung cả nước, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị vẫn còn 6,28%. Một số địa phương như TP.HCM, Hà Nội, Hải Phòng..tỷ lệ thất nghiệp còn cao hơn nhiều. Tại Hà Nội, tỷ lệ thất nghiệp lên tới 7,39%, Hải Phòng 7.11% và TP.HCM 6,04%. Cuộc điều tra cho thấy trong 61 tỉnh, thành vẫn còn tới 9 tỉnh có tỷ lệ thất nghiệp trên 7%, 11 tỉnh có tỷ lệ từ 6,5%-7%, 10 tỉnh từ 6%-6,5%. Ngoài ra, vẫn còn 67% số tỉnh có tỷ lệ sử dụng thời gian lao động tại khu vực nông thôn dưới 75%. Theo bình luận của các chuyên gia, dẫu năm 2002 có đạt được mục tiêu về lao động việc làm ( tạo việc làm mới cho 1,4 triệu lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống dưới 6,2% và nâng tỷ lệ thời gian sử dụng ở nông thôn lên 76%) thì bức tranh về việc làm của nước ta vẫn chưa đưọc cải thiện đáng kể, vì trung bình mỗi năm lại thêm 1,1 triệu người bước vào độ tuổi lao động cần có việc làm. Cộng thêm vào đó là gần 1,5 triệu người thất nghiệp “ tồn dư” từ năm 2001, khoảng 10.000 người rời quân ngũ hàng năm, chưa kể số lao động thuộc diện dôi dư trong các doanh nghiệp Nhà nước sẽ diễn ra ngày càng mạnh trong thời gian tới. Dự kiến năm 2002 Việt Nam sẽ có 50.000 lao động xuất khẩu ( con số này năm 2001 là 35.000 người ). Bộ LĐ-TB& XH đã đề xuất một số giải pháp cần thiết để đạt mục tiêu giải quyết việc làm của năm 2002, trong đó đáng chú ý nhất là hoàn thiện chính sách cho vay vốn từ Quỹ quốc gia hỗ trợ, giải quyết việc làm. Trong năm 2002, sẽ tập trung ưu tiên cho các đối tượng lao động thuộc diện dôi dư trong các doanh nghiệp Nhà nước , lao động bị mất việc làm tại các vùng đô thị hoá và lao động trở về sau khi làm việc ở nước ngoài. Trong suốt một thập niên qua , sự phát triển kinh tế Việt Nam đã cho thấy : Những năm nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao , việc làm tạo ra nhiều , tỷ lệ lao động xã hội thất nghiệp giảm, đời sống dân cư được cải thiện , những năm kinh tế tăng trưởng giảm sút , sản xuất đình trệ , việc làm giảm và lao động thất nghiệp và thiếu việc làm tăng lên . Thời kỳ trước khi nền kinh tế chịu tác động của khủng hoảng, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và tương đối ổn định, việc làm cho người lao động được tạo ra ngang với tốc độ tăng lao động tự nhiên hàng năm, thu nhập và mức sống dân cư được cải thiện một cách sâu sắc. Biểu hiện rõ nhất là tỷ lệ nghèo đói đã giảm rõ rệt trong một thời gian ngắn. Từ chỗ dân cả nước thiếu lương thực , phải nhập lương thực của nước ngoài, đến nay Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới. Theo ước tính của ngân hàng thế giới, vào giữa những năm 80 cứ 10 người dân Việt Nam thì có 7 người sống trong tình trạng nghèo đói, chỉ sau một thập niên của tăng trưởng kinh tế cao, tỷ lệ nghèo đói của Việt Nam đã giảm xuống còn một nữa, giảm từ 58% (1993) xuống còn 37% (1998) . Từ năm 1993-1998 là những năm nền kinh tế có mức tăng trưởng kinh tế cao, tỷ lệ nghèo chung đã giảm từ 58% xuống còn 37% và số người sống dưới “ ngưỡng nghèo lương thực”- mức thấp hơn- đã giảm từ 25% xuống còn 15%. Điều đó có nghĩa là, trong giai đoạn này , ngay cả những người nghèo nhất cũng đã được cải thiện mức sống, giảm bớt khó khăn, ổn định cuộc sống. Tỷ lệ hộ đói nghèo trên tổng số hộ trong cả nước, theo tiêu chuẩn hiện nay đã giảm từ 20% (1995) xuống còn 11% ( năm 2000). Mức tiêu dùng bình quân đầu người tính theo giá hiện hành tăng từ 2,6 triệu đồng ( năm 1995) lên 4,3 triệu đồng ( năm 2000). Tuy nhiên, tỷ lệ hộ đói nghèo giảm xuống không đồng đều giữa các vùng trong cả nước. Biểu7: Các nguồn thu nhập của hộ gia đình ở nông thôn Việt Nam (ĐV: % Các nguồn thu nhập Thu nhập bình quân của hộ gia đình( quy theo thời giá năm 1998, ĐV:1000 đồng Tốc độ tăng giảm trong vòng 5 năm(%) Tỷ trọng thu nhập hộ gia đình Năm 1993 1998 1993-1998 1993 1998 Nông nghiệp 2867 4606 60,6 37,2 46,8 Hoạt động phi nông nghiệp 1443 1884 30,5 18,7 19,2 Thu nhập từ Lương 1687 1685 -0,1 21,9 17,1 Các nguồn khác 1710 1663 -2,8 22,2 16,9 Tổng cộng 7707 9838 27,6 100,0 100,0 Nguồn: Báo cáo việc làm- thu nhập của Viện Kinh tế học( năm 1999) Có thể thấy, thu nhập chính của hộ gia đình ở nông thôn Việt Nam từ 1993-1998 là từ hoạt động nông nghiệp , nguồn thu này đã tăng lên rất nhanh 60,6% trong vòng 5 năm, và chiếm tỷ trọng lớn trong các nguồn thu của hộ nông dân. Thu nhập giữa các vùng dân cư có sự khác nhau, và thu nhập của lao động trong các ngành, các khu vực kinh tế cũng khá chênh lệch nhau. Nhìn chung, thu nhập của lao động thành thị cao hơn lao động nông thôn, lao động thuộc khu vực chính thức cao và ổn định hơn khu vực phi kết cấu. Theo số liệu năm 1998, tỷ trọng thu nhập từ nông nghiệp là 46,8% , từ các hoạt động phi nông nghiệp là 19,2%, từ tiền công, tiền lương là 17,1%, các nguồn khác là 16,9%. Trong năm 2000, tỷ lệ này đã biến đổi là 41,6%; 25%; 22%; 11,4% . Theo điều tra của cục thống kê năm 2000 thì mức thu nhập của dân cư ở nông thôn là 225.000 đồng/ người/tháng tăng so với năm 1996 là 63,4%, tỷ lệ tăng bình quân hàng năm từ 1996-2000 là 17,8%. Tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn trong tổng số hộ cả nước là 17,73% . Trên phạm vi toàn quốc, nguồn thu từ sản xuất nông lâm ngư nghiệp và thuỷ sản chiếm tỷ trọng lớn nhất và vẫn còn tăng lên. Nếu năm 1996 tỷ trọng đó là 40,7% thì năm 1999 đã tăng lên 41,6%. ở khu vực nông thôn , tỷ trọng này còn cao hơn nữa: 57,3%(năm 1996) và 58,5% (năm 1999). Nguồn thu lớn thứ hai là tiền công tiền lương, tính trên phạm vi toàn quốc, từ 1996-1999 nguồn thu này đã tăng từ 20,6% lên 22,5%. Trong đó, khu vực thành thị vẫn tăng từ 14,9% lên 16,6%, tiền công của lao động thành thị cao hơn lao động nông thôn khoảng 44% và tăng khoảng 91% so với 1992- 1993. Tiền công của lao động nam cao hơn lao động nữ khoảng 21% và tăng khoảng 60% so với 1992- 1993. Tiền công và các khoản phụ cấp khác bình quân một tháng của lao động thành thị cao hơn 3 lần so với lao động nông thôn . Lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có mức tiền công cao nhất, thấp nhất là tiền công của lao động làm việc trong khu vực kinh tế tập thể. Nguồn thu lớn thứ ba là thu từ các hoạt động dịch vụ . Tính chung trong cả nước, nguồn thu này có hiện tượng thụt giảm, từ 17,9% (1996) xuống 15,9% (1999). Trong đó, khu vực thành thị vẫn tăng từ 28% lên 29,7%, khu vực nông thôn giảm từ 11,9% xuống 9,8%. Nguồn thu thứ tư là nguồn thu từ sản xuất công nghiệp – xây dựng. Tính chung cả nước, tỷ trọng của nguồn này tăng từ 7,8% (1996) lên 8,5% (1999). Trong đó , khu vực thành thị tăng từ 10,9% lên 11,8%. Khu vực nông thôn từ 4,7% tăng lên 5%. . Tóm lại, tăng trưởng- việc làm- thu nhập và mức sống luôn luôn đi đồng hành với nhau. Thất nghiệp tăng lên làm cho thu nhập và mức sống giảm xuống từ đó ảnh hưởng đến chất lượng Nguồn nhân lực gây ra hạn chế về mặt sức khoẻ, kìm hãm quá trình phát triển Nguồn nhân lực ở nông thôn . 4/ Chất lượng Nguồn nhân lực nông thôn . Việt Nam có một Nguồn nhân lực đông, dồi dào, cơ cấu trẻ và có khả năng tiếp thu kiến thức Khoa học kỹ thuật nhanh, cơ động cao và có truyền thống cần cù chịu khó. Nhưng chất lượng Nguồn nhân lực nước ta còn nhiều bất cập đặc biệt là chất lượng Nguồn nhân lực nông thôn . Thực tế, có khoảng cách lớn về chất lượng lao động giữa khu vực thành thị và nông thôn . Theo kết quả điều tra lao động việc làm đăng trên tạp chí “Lao động xã hội” số 12 năm 2001 , đã chỉ ra rằng năm 2000 trên phạm vi toàn quốc, tỷ lệ lao động biết chữ là 96% tương đương với một số nước phát triển trong khu vực Singapo, Malaysia. Đối với khu vực nông thôn , tỷ lệ lao động biết chữ là 95% , chỉ thấp hơn tỷ lệ chung của cả nước 1%. Lao động nông thôn chưa từng đến trường là11% cao gấp hai tại các đô thị, lao động nông thôn chưa tốt nghiệp cấp một xấp xỉ 28,5% gấp 1,6 lần tại các đô thị. Tỷ lệ lao động nông thôn tốt nghiệp phổ thông cơ sở và trung học phổ thông khoảng 45,8% thấp hơn khu vực thành thị 19,7% . Tỷ lệ lao động nông thôn có trình độ từ cấp ba đến đại học chỉ xấp xỉ 10% , trong khi thành thị là 33,2% . Mặt khác, trình độ học vấn của lực lượng lao động nữ khu vực nông thôn thấp hơn hẳn so với nam trong khu vực và nữ khu vực thành thị. Năm 1998, số nữ chưa biết chữ là 895.737 người, trong đó nữ nông thôn 833.932 người, chiếm 93,1%; tốt nghiệp cấp I là 5463206 người, trong đó nữ nông thôn 4593781, chiếm 84%; đã tốt nghiệp cấp III là 2644747 người, trong đó nữ nông thôn 1360768 người, chiếm 51,4%. ở cấp học càng cao thì tỷ lệ nữ càng thấp hơn so với nam; chưa biết chữ chiếm 62,55%, đã tốt nghiệp cấp I chiếm 49,86%, đã tốt nghiệp cấp hai chiếm 48,44%, đã tốt nghiệp cấp III chiếm 4,18%. Xét trên 7 vùng lãnh thổ trong toàn quốc, trình độ học vấn của nữ khu vực nông thôn so với thành thị cũng diễn ra tương tự như tình hình chung cuả nước. Nguyên nhân chủ yếu là do tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn còn phổ biến, đặc biệt ở khu vực nông thôn. Do đó nữ ít có điều kiện đến trường và càng học lên cao số học sinh nữ càng giảm sút rõ rệt, đặc biệt trong các trường PTTH Tuy trình độ học vấn của lao động nông thôn không phải quá thấp nhưng đại bộ phận lại không được đào tạo chuyên môn kỹ thuật, thừa lao động giản đơn nhưng lại thiếu lao động kỹ thuật . Năm 1996 tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo mới đạt 7,8%, năm 2000 tỷ lệ này tăng lên 9,3%, so với tỷ lệ chung toàn quốc thì tỷ lệ này còn thấp hơn khoảng 10% . Nếu tính riêng số lao động qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật thì chiếm khoảng 15% tổng số lao động kỹ thuật cuả cả nước( Theo tạp chí Lao động và xã hội (số 12/ năm 2001)). Tình trạng trên là do nhiều nguyên nhân gây ra. Thứ nhất, do hầu hết các trường đào tạo, dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học đều bố trí ở khu vực đô thị. Nguồn nhân lực nông thôn ít có điều kiện tiếp cận với các cấp các cơ sở đào tạo này. Thứ hai, là hầu hết mạng lưới cơ sở vật chất của các cơ sở bồi dưỡng và đào tạo nghề còn thiếu cơ sở vật chất tài chính, yếu về động lực học tập. Nhưng nhiều nơi rất chồng chéo, manh mún, có khi xảy ra hiện tượng “tranh chấp” làm giảm hiệu lực của nhau, có cơ sở chỉ là “ Công ty ma “ lừa tiền của người lao động đến học, kéo dài chương trình giảng dạy theo quy định nhằm tăng thêm thời gian giảng dạy để tăng chi phí đào tạo. Thứ ba, trình độ sản xuất nông nghiệp còn lạc hậu, chưa thay đổi lắm về cơ cấu cây trồng vật nuôi nên bản thân người lao động đều cảm thấy không cần thiết nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật thêm. Thứ tư, là sự thiếu hiêp đồng giữa đào tạo và sử dụng Cuối cùng một nguyên nhân nữa là phần lớn Nguồn nhân lực đã được đào tạo không chịu quay trở về nông thôn. Thêm vào đó còn có sự khác biệt đáng kể trong phân bố lao động qua đào tạo giữa các vùng. Phần lớn lao động qua đào tạo tập trung ở các vùng đồng bằng Sông Hồng, Đông Nam Bộ. Hai vùng Tây Bắc và Tây Nguyên có tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp nhất. Cơ cấu chuyên ngành được đào tạo cũng có sự mất cân đối nghiêm trọng . Theo kết quả khảo sát của Ngân hàng Thế Giới , cứ 100 lao động nông thôn có 57 người qua đào tạo , trong đó chỉ có 4,4 người được đào tạo về chuyên ngành nông- lâm-ngư nghiệp. Hiện nay, tình trạng này hầu như chưa được cải thiện , số cơ sở đào tạo và số học sinh theo học các chuyên ngành thuộc lĩnh vực nông- lâm- ngư nghiệp còn rất khiêm tốn so với các chuyên ngành khác. Lao động nông nghiệp vẫn chủ yếu là canh tác, sản xuất theo kinh nghiệm cổ truyền, năng suất thấp. Cơ cấu trình độ đội ngũ khoa học kỹ thuật và công nghệ trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội của cả nước và các vùng , đặc biệt ở khu vực nông thôn còn bất hợp lý. Nhiều nơi và ở nhiều lĩnh vực sản xuất vật chất, tỷ lệ lao động có trình độ đại học, trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật gàn như ngang nhau. Một vài trường hợp tỷ lệ người có trình độ đại học còn cao hơn lực lượng công nhân kỹ thuật. Về cấu trúc đào tạo của lao động có kỹ thuật theo cơ cấu trình độ cao đẳng, đại học- trung học chuyên nghiệp- công nhân kỹ thuật nông thôn năm 1995 là 1- 1,06 –0,36; năm 1997 quan hệ này là 1- 3,5 –2,84; đến năm 1999 là 1- 2,2- 2,9. Như vậy, đã có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ về cấu trúc đào tạo của lao động kỹ thuật nhưng còn xa mới đạt được một cấu trúc hợp lý phù hợp với yêu cầu phát triển (1- 4- 12) khi chuyển sang giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn . Gần đây, nhờ đẩy mạnh công tác khuyến nông và phổ biến kỹ thuật rộng rãi trên các phương tiện truyền thông, trình độ canh tác nông dân bước đầu được cải thiện nhưng do phần lớn lao động nông thôn thiếu kiến thức cơ bản để tiếp thu và áp dụng tiến bộ Khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp nên hiệu quả sản xuất nhìn chung còn thấp. Vì vậy đào tạo lao động kỹ thuật cho nông nghiệp nông thôn để thúc đẩy nhanh qúa trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn là một vấn đề cấp bách và có tính chiến lược . Đặc biêt ở các vùng sâu, vùng xa , các tỉnh miền núi, những nơi còn gặp nhiều khó khăn về kinh tế thì sự chênh lệch về trình độ lao động giữa các vùng rất cao nên việc đưa khoa học kỹ thuật , đưa vốn vào hình thành các nghề mới còn nhiều khó khăn. Đó là lý do giải thích vì sao lao động nông thôn còn nặng về thuần nông , lao động chưa đóng vai trò tích cực trong trong việc chuyển đổi cơ cấu . Cơ cấu kinh tế còn bất hợp lý nên năng suất lao động ở nông thôn còn thấp , dẫn đến thu nhập thấp . Đầu tư giáo dục ,đào tạo thấp nên người nông dân chưa tiếp thu được khoa học kỹ thuật , sản phẩm nông nghiệp thiếu tính hàng hoá , chủ yếu vẫn tự túc. Lao động thủ công là chính, nên khả năng cạnh tranh trên thị trường kể cả về giá cả và chất lượng không cao, thực trạng lao động như vậy còn hạn chế triển khai sử dụng vốn các tổ chức nước ngoài cũng như cũng như vốn của Nhà nước ở nông thôn . Một số dự án chương trình phát triển nông nghiệp ,nông thôn có nguồn vốn khá lớn nhưng giải ngân không được . Có nhiều lý do nhưng trong đó có lý do là trình độ của nhiều người nông dân còn thấp , không đề xuất được các dự án , không lập được dự án khả thi và khi có dự án thì rất lúng túng trong việc triển khai thực hiện. Lao động kỹ thuật thấp nên việc đưa khoa học kỹ thuật vào còn gặp nhiều khó khăn. Mối quan hệ giữa trình độ lao động kỹ thuật và chuyển dịch cơ cấu kinh tế khá chặt chẽ . Chuyển dịch cơ cấu dẫn đến tạo việc làm , thúc đẩy kinh tế tăng trưởng là điều kiện để nâng cao chất lượng đội ngũ lao động . Chất lượng lao động được cải thiên , năng suất lao động tăng , thu nhập tăng là cơ sở để thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế . Rõ ràng, lao động là nguồn nội lực quan trọng nhất, chất lượng lao động là điều kiện tiền đề cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docN0099.doc
Tài liệu liên quan