MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 5
BảNG CHữ VIếT TắT 7
1. SINH VẬT BIếN ĐỔI GEN VÀ AN TOÀN SINH HỌC 8
1.1 Sinh vật biến đổi gen.8
1.2 An toàn sinh học và quản lý sinh vật biến đổi gen.10
a) An toàn sinh học.10
b) Quản lý sinh vật biến đổi gen.12
1.3 Phân tích rủi ro của sinh vật biến đổi gen.14
2. ĐÁNH GIÁ RỦI RO 1 7
2.1 Mục tiêu, phạm vi và tiêu chí đánh giá rủi ro.17
2.2 Quy trình đánh giá rủi ro.22
Xác định nguy cơ.22
Hậu quả.26
Khả năng xảy ra.28
Bằng chứng.30
Ước lượng rủi ro.33
2.3 Các vấn đề khác liên quan đến đánh giá rủi ro.35
So sánh tương đương.35
Đánh giá rủi ro định tính và đánh giá rủi ro định lượng.36
Sự không chắc chắn.38
3. QUảN LÝ RỦI RO 4 2
3.1 Mối quan hệ giữa đánh giá rủi ro và quản lý rủi ro.42
3.2 Kế hoạch quản lý rủi ro.44
3.3 Quá trình ra quyết định phóng thích GMO vào môi trường.48
3.4 Các biện pháp quản lý rủi ro.51
3.5 Giám sát sự tuân thủ và kiểm soát chất lượng.51
Phân tích rủi ro của sinh vật biến đổi gen 4
Giám sát sự tuân thủ.51
Kiểm soát chất lượng.53
4. TRAO ĐỔI THÔNG TIN RỦI RO 5 5
4.1 Nhận thức về rủi ro.55
4.2 Mục tiêu của trao đổi thông tin rủi ro.56
4.3 Các cách trao đổi thông tin rủi ro.57
TÀI LIệU THAM KHảO CHíNH 59
60 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4344 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phân tích rủi ro của sinh vật biến đổi gen, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n) Các tác động không mong muốn đối với các loài cỏ dại không
biến đổi gen hiện có, đối với sâu hại hoặc mầm bệnh;
o) Các tác động thứ cấp (ví dụ, phát triển tính kháng thuốc
diệt cỏ);
p) Các tập quán canh tác;
q) Thay đổi môi trường tự nhiên, trong đó có các chu kỳ sinh
địa hóa;
r) Các hoạt động chủ đích/ trái phép.
Phân tích rủi ro của sinh vật biến đổi gen24
Khi các nguy cơ được xác định, việc thiết lập mối liên quan
giữa nguy cơ và tác động bất lợi là rất quan trọng. Một số sự
kết hợp chính có thể xảy ra, bao gồm:
a) Một nguy cơ đơn lẻ gây ra một tác động bất lợi riêng lẻ;
b) Một nguy cơ đơn lẻ gây ra nhiều tác động bất lợi;
c) Các nguy cơ tác động độc lập và gây ra một tác động bất lợi;
d) Các nguy cơ tương tác với nhau và gây ra một hoặc nhiều
tác động bất lợi.
Nguy cơ có thể gây ra các tác động bất lợi dồn, hiệp trợ,
tích lũy, tương phản hoặc kết hợp. Các tác động dồn có thể
xuất hiện khi các nguy cơ khác nhau gây ra cùng một tác động
bất lợi, làm tăng thêm tác động bất lợi. Tác động hiệp trợ xuất
hiện khi các ảnh hưởng lớn hơn khi có tác động dồn. Ví dụ,
một GMO biểu hiện hai gen kháng côn trùng với các kiểu hoạt
động khác nhau thì tác động có thể mạnh hơn tác động từ các
gen đơn lẻ. Các tác động tích lũy xuất hiện khi sự phơi nhiễm
được lặp lại qua thời gian làm trầm trọng thêm một bệnh đã
biết. Các tác động tương phản có thể xuất hiện khi tính trạng
cải biến làm thay đổi các đặc tính của sinh vật theo các cách
đối lập. Ví dụ, nếu một gen được đưa vào hoặc được biến đổi
để tăng sản lượng của một chất cụ thể trong sinh vật nhưng
cũng giảm tốc độ phát triển của sinh vật, điều này có thể xem
là ảnh hưởng đối kháng. Ngoài ra, một nguy cơ có thể chỉ xảy
ra ở trong những trường hợp cụ thể, ví dụ, cây trồng có thể chỉ
trở thành cỏ dại trong các khu vực địa lý nhất định, hoặc một
vi sinh vật có thể chỉ gây bệnh ở một loài sinh vật. Ngoài ra,
nhiều nhân tố có thể liên quan đến sự phát sinh các tác động
bất lợi cũng cần được cân nhắc, ví dụ, một người nào đó có hệ
Phân tích rủi ro của sinh vật biến đổi gen 25
miễn dịch bị tổn thương có thể mẫn cảm với vi sinh vật biến đổi
gen bình thường không phải là mầm bệnh đối với những người
khỏe mạnh.
Xác định nguy cơ trong phân tích rủi ro không cố định về
thời hạn là ngắn hay dài. Ví dụ về ảnh hưởng ngắn hạn là các
ảnh hưởng cấp tính của độc tố đối với sinh vật do bị phơi nhiễm
trực tiếp GMO. Khả năng trở thành cỏ dại tăng lên do sự phát
tán gen từ cây trồng biến đổi gen là một vấn đề cần cân nhắc
về ảnh hưởng lâu dài vì chúng sẽ phát triển qua một số thế hệ.
Khung thời gian cần theo dõi sẽ tùy thuộc vào GMO, chu kỳ
sống của chúng và loại tác động bất lợi đang xem xét. Bò biến
đổi gen có vòng đời là nhiều năm có thể cần theo dõi lâu hơn so
với chuột biến đổi gen có vòng đời ngắn hơn rất nhiều.
Các nguy cơ được xác định thông qua một số tiêu chí, trong
đó có tiêu chí được quy định trong các quy định pháp luật và có
tiêu chí xuất phát từ những lo ngại của các nhóm đối tượng liên
quan. Các nguy cơ không dẫn đến tác động bất lợi hoặc khó có
thể xảy ra sẽ không được quan tâm trong quy trình đánh giá rủi
ro. Một số trường hợp, khi tác động bất lợi có thể không quan
trọng thì có thể bỏ qua nguy cơ.
Việc chọn lựa nguy cơ cần được tiến hành toàn diện và nghiêm
ngặt, phù hợp với bản chất của GMO và quy mô về không gian
và thời gian của hoạt động giải phóng GMO dự kiến, tránh tập
trung vào các sự kiện không thực tế. Quy trình cũng cần cân
nhắc kỹ những lo ngại của các nhóm đối tượng về ảnh hưởng
của GMO đối với sức khỏe con người và môi trường.
Phân tích rủi ro của sinh vật biến đổi gen26
Hậu quả
Nếu nguy cơ gây ra tác động bất lợi hoặc sự cố, thì mức độ
nghiêm trọng của hậu quả như thế nào? Những hậu quả của tác
động bất lợi hoặc sự cố cần được kiểm tra ở các mức độ khác
nhau. Ví dụ, tác hại đối với sức khỏe con người thường được
cân nhắc ở mức cá thể trong khi tác hại đối với môi trường
thường được cân nhắc ở mức quần thể, loài hoặc cộng đồng.
Các hậu quả có các mức độ phổ biến và nghiêm trọng khác
nhau. Ví dụ, nếu sự biến đổi gen dẫn đến tạo ra một protein có
đặc tính gây dị ứng, một số người có thể không có phản ứng với
protein này, một số có thể bị ảnh hưởng nhẹ, trong khi một số
bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Vì vậy, có nhiều mức hậu quả khác
nhau đối với một tác động bất lợi, một số người nhạy cảm hơn
với độc tố so với những người khác, sự phản ứng có thể từ ốm
nhẹ đối với cá thể này đến ốm nặng đối với cá thể khác. Khi cân
nhắc các hậu quả cần quan tâm đến các yếu tố như sự đa dạng
và phổ biến về mức độ nghiêm trọng của hậu quả.
Tác động bất lợi được đánh giá thông qua các nhân tố
chính như:
a) Độ nghiêm trọng của mỗi tác động bất lợi tiềm ẩn;
b) Chúng có gây ra sự thay đổi lớn? Mức độ thay đổi có
nhanh (sự thay đổi lớn trong một khoảng thời gian ngắn)?
Các ảnh hưởng có dài hạn? Sự thay đổi có thể chấp nhận
được không?
c) Phạm vi không gian (địa phương, vùng, quốc gia, toàn
cầu) trong đó tác động bất lợi tiềm ẩn lan rộng và ảnh
hưởng đến các sinh vật khác;
d) Phạm vi thời gian của tác động bất lợi, đó là thời hạn
Phân tích rủi ro của sinh vật biến đổi gen 27
(độ dài là ngày, năm hay thập kỷ), tần suất và bản chất
của tác động qua thời gian (chúng gián đoạn hay lặp đi
lặp lại? Nếu lặp đi lặp lại, thì mức độ thường xuyên và
tần suất như thế nào?);
e) Tác động bất lợi tích lũy;
f) Sự giảm ảnh hưởng - khi nào thì tác động bất lợi sẽ giảm bớt?
Bảng 2 trình bày một số ví dụ về những mô tả liên quan đến
quy mô của các tác động bất lợi đối với sức khỏe con người và
môi trường. Những dẫn giải về hậu quả đối với sức khỏe con
người tập trung vào tổn thương như là tác động bất lợi nhưng
cũng có thể tập trung vào số lượng người bị ảnh hưởng hoặc
quy mô không gian (địa phương, khu vực, quốc gia) của tác
động bất lợi. Các hậu quả bất lợi đối với môi trường bao gồm
rất nhiều ảnh hưởng và những mô tả này bao gồm một số vấn
đề đã được liệt kê ở trên.
Bảng 2. Các hậu quả bất lợi đối với sức khỏe con người và
môi trường
Các hậu quả
Rất nhỏ
Nhỏ hoặc không gây thương tổn, trừ một vài cá thể có thể cần
sự trợ giúp y tế;
Nhỏ hoặc không tác động tới môi trường.
Nhỏ
Gây thương tổn nhẹ cho một số người và những người này có
thể cần trợ giúp y tế;
Phá hủy các hệ sinh thái; hoặc có thể ở mức độ nhẹ, chỉ xảy ra
ở một thời điểm và trong một khu vực nhất định (giới hạn về
thời gian và không gian), và gây ảnh hưởng tới một số cá thể/
quần thể.
Phân tích rủi ro của sinh vật biến đổi gen28
Các hậu quả
Trung
bình
Gây thương tổn một số người và những người này cần sự trợ
giúp y tế mức độ cao;
Phá hủy các hệ sinh thái, có ảnh hưởng lan rộng và khó có thể
hạn chế mức độ nghiêm trọng.
Lớn
Gây thương tổn nặng cho một số người và những người này có
thể cần nhập viện hoặc có thể bị tử vong;
Phá hủy toàn bộ hệ sinh thái, cộng đồng hoặc một số loài đang
tồn tại, và không có khả năng giảm nhẹ.
Cần nhấn mạnh rằng, sự thay đổi là một phần vốn có của
bất kỳ một hệ thống động phức tạp, trong đó có các hệ thống
sinh học. Sự thay đổi có thể xảy ra khi không có mặt GMO và
sự thay đổi có thể xảy ra là kết quả của GMO. Vì vậy, để đánh
giá các hậu quả bất lợi phát sinh từ GMO cần tìm hiểu và nhận
dạng rõ sự thay đổi cũng như cần cân nhắc xem sự thay đổi đó
có phải là không mong muốn. Những sự thay đổi này tương đối
đa dạng tùy thuộc vào môi trường.
Khả năng xảy ra
Khả năng là xác suất xảy ra một điều gì đó. Đánh giá khả
năng xảy ra tập trung vào câu hỏi: Chúng sẽ xảy ra? Cụ thể hơn,
khả năng chúng sẽ xảy ra như thế nào? Đánh giá khả năng xảy
ra cũng là một thành phần của đánh giá rủi ro. Khả năng có liên
quan đến tần suất (số lượng các lần xuất hiện trong một đơn vị
thời gian) và khả năng xuất hiện (từ 0 đến 1, trong đó 0 là tác
động không thể có và 1 là một tác động nhất định).
Các yếu tố quan trọng để cân nhắc khả năng một nguy cơ
dẫn đến một tác động bất lợi:
Phân tích rủi ro của sinh vật biến đổi gen 29
a) Hoàn cảnh để xảy ra hay xuất hiện nguy cơ;
b) Hoàn cảnh để xuất hiện một tác động bất lợi;
c) Sự xuất hiện trên thực tế và sự nghiêm trọng của tác động
bất lợi;
d) Sự bền vững hoặc lan rộng của tác động bất lợi.
Các yếu tố góp phần vào khả năng xảy ra của một tác động
bất lợi bao gồm:
a) Sự sống sót, khả năng tái sinh và tính bền vững của GMO;
b) Các hoàn cảnh giải phóng, bao gồm môi trường, các yếu
tố sinh học, vô sinh và các sinh vật khác.
Tần suất hoặc khả năng xảy ra một sự kiện đầu tiên không
nên cân nhắc đơn lẻ nếu một chuỗi sự kiện dẫn đến tác động bất
lợi. Đánh giá khả năng xảy ra phức tạp hơn đối với các nguy cơ
“xa” vì có thể có nhiều liên kết trong chuỗi các sự kiện nguyên
nhân. Ví dụ, việc chuyển gen từ cây trồng biến đổi gen hoặc thực
vật sang các vi sinh vật là mầm bệnh cần một số sự kiện xuất
hiện trước khi nguy cơ sẽ xảy ra. Tuy nhiên, sự xuất hiện một sự
kiện (ví dụ, chuyển gen) không có nghĩa là gây ra tác hại mà cần
các sự kiện tiếp theo xảy ra như khả năng vi sinh vật biến đổi gen
mới được tạo ra có khả năng sống sót, sinh sản và gây ra một số
tác hại có thể nhận biết. Ngược lại, các nguy cơ “gần” với tác
động bất lợi tiềm ẩn như một sản phẩm của gen là độc tố đối với
các sinh vật không phải là sinh vật đích, có thể giúp ước lượng
thô hơn về khả năng. Trong trường hợp các thử nghiệm đồng
ruộng, thời gian giải phóng là cố định nhưng các ảnh hưởng bất
lợi tiềm ẩn vượt ra khỏi giai đoạn này cũng phải được cân nhắc.
Như trong bất kỳ quy trình dự đoán nào, sự chính xác đạt được
cao nhất ở tương lai gần và giảm dần ở tương lai xa.
Phân tích rủi ro của sinh vật biến đổi gen30
Bằng chứng
Chỉ những hồ sơ đăng ký xin cấp phép cho một hoạt động
liên quan đến GMO có đủ thông tin mới được cơ quan quản lý
xem xét. Khi không đủ thông tin, cơ quan quản lý có thể từ chối
hồ sơ, yêu cầu bên nộp hồ sơ bổ sung thông tin. Nếu không thể
tiến hành đánh giá, thì hồ sơ có thể bị dừng cho đến khi thông
tin được cung cấp đầy đủ.
Các câu hỏi quan trọng liên quan đến bằng chứng là bao
nhiêu thông tin là đủ và thông tin nào cần phải cung cấp. Cần
phân biệt giữa dữ liệu cần để đánh giá rủi ro và thông tin cơ bản
không liên quan trực tiếp đến ước lượng rủi ro. Việc thu thập dữ
liệu, đơn giản chỉ là để có thông tin, trong khi những thông tin
đó không phục vụ mục đích ước lượng rủi ro chỉ gây mất thời
gian và không hiệu quả.
Bằng chứng được sử dụng để đánh giá hồ sơ đăng ký có từ
nhiều nguồn khác nhau. Các quy chế quản lý GMO thường quy
định chi tiết thông tin bên nộp hồ sơ đăng ký cần phải cung cấp
trong hồ sơ. Bằng chứng bao gồm các dữ liệu thực nghiệm từ
các công bố khoa học liên quan đến hồ sơ, kinh nghiệm thực tế,
các bài tổng quan, học thuyết, mô hình và quan sát. Bằng chứng
cũng có thể là các đánh giá về GMO cùng loại hoặc tương tự
trước đó của các cơ quan quản lý khác ở trong nước và quốc tế.
Ở đây, việc thiết lập các mối quan hệ của cơ quan quản lý quốc
gia với các cơ quan liên quan nhằm triển khai trao đổi thông tin
là hết sức cần thiết.
Các nguồn thông tin chất lượng khác bao gồm:
a) Ý kiến chuyên gia;
b) Thông tin về các nguy cơ và bất lợi tiềm ẩn thu thập được
thông qua tư vấn cộng đồng;
Phân tích rủi ro của sinh vật biến đổi gen 31
Cơ quan quản lý tiếp nhận thông tin do bên nộp hồ sơ đăng
ký cung cấp, tuân theo các tiêu chuẩn khoa học nghiêm ngặt,
trong đó tập trung vào dữ liệu định lượng. Các nghiên cứu khoa
học sẽ được đánh giá về mức độ phù hợp và chất lượng của các
thí nghiệm thực nghiệm. Mọi khía cạnh liên quan được nhân
viên có năng lực thích hợp của cơ quan quản lý đánh giá độc
lập. Các tiêu chuẩn quốc tế phải được sử dụng cho các loại
nghiên cứu cụ thể và dữ liệu được đánh giá trên cơ sở những
tiêu chuẩn đó. Ví dụ, trong các đánh giá độc tố, dữ liệu thực
nghiệm từ các nghiên cứu trên động vật được sử dụng để ngoại
suy cho người và đánh giá rủi ro môi trường thường dựa trên
các ảnh hưởng đối với các loài thử nghiệm được chấp nhận.
Các bằng chứng được đánh giá qua nguồn gốc (ví dụ, bài
báo được thẩm định trong tạp chí quốc tế được công nhận sẽ có
giá trị hơn nhận định không được xác định trên mạng internet
của một cá nhân) và qua nội dung của chúng. Các nhận định
không đủ bằng chứng có thể có ít trọng lượng hơn hoặc không
đáng tin. Trong những trường hợp, khi có thể có bằng chứng
mâu thuẫn về các tác động bất lợi, ví dụ một số thông tin cho
thấy tác động bất lợi và một số lại cho thấy không có ảnh
hưởng, thì chúng sẽ được cân nhắc trong kết luận cuối cùng.
Các bằng chứng có thể được đánh giá dựa trên mức độ được
công nhận và giá trị của thông tin đưa ra. Về giá trị, chúng có
thể được đánh giá bởi một số nghiên cứu, một số bằng chứng
yếu hơn có thể được xem có giá trị ngang như một bằng chứng
mạnh đơn lẻ, hoặc thông qua độ sâu của các nghiên cứu, nghiên
cứu chi tiết có thể có giá trị hơn so với một nghiên cứu không
sâu. Độ mạnh của bằng chứng có thể được cân nhắc thông qua
mối quan hệ với vấn đề quan tâm. Nếu bằng chứng trực tiếp
Phân tích rủi ro của sinh vật biến đổi gen32
liên quan đến vấn đề chúng sẽ mạnh hơn so với bằng chứng chỉ
liên quan gián tiếp đến vấn đề đó. Vì vậy, nếu các nghiên cứu
về cỏ dại của một loài cụ thể, chúng sẽ mạnh hơn so với thông
tin về cỏ dại của một loài liên quan.
Hình 4. Các bằng chứng và độ mạnh trong công nhận
Các nghiên cứu có giá trị được tiến hành theo các
phương pháp quốc tế đạt các tiêu chuẩn xác định
Dữ liệu thực nghiệm được thẩm định về GMO
trong môi trường quốc gia
Dữ liệu thực nghiệm được thẩm định về GMO
trong các môi trường khác
Dữ liệu thực nghiệm được thẩm định về sinh vật
bố mẹ, các tính trạng biến đổi hoặc sinh thái
Công bố được thẩm định – các báo cáo, mô hình,
học thuyết
Công bố được thẩm định – các báo cáo đơn lẻ,
mô hình, học thuyết
Dữ liệu nghiên cứu
Các nguyên lý sinh học
Ý kiến của chuyên gia về GMO, sinh vật bố mẹ,
các tính trạng biến đổi, sinh thái, các báo cáo
khoa học khác, các báo cáo Chính phủ…
Không có thông tin
Các nhận định không có căn cứ
Phân tích rủi ro của sinh vật biến đổi gen 33
Khi không có bằng chứng trực tiếp thì bằng chứng gián tiếp
sẽ được cân nhắc, đánh giá thích hợp. Nếu dữ liệu không có
hoặc không hoàn thiện sẽ được cân nhắc khi xem xét hồ sơ.
Nếu cơ quan quản lý cân nhắc thấy việc thiếu dữ liệu dẫn đến
sự không chắc chắn về mức độ của một rủi ro có thể quản lý thì
có thể yêu cầu bổ sung dữ liệu, thông tin về nghiên cứu khảo
nghiệm hạn chế. Cơ quan quản lý sẽ không cấp phép nếu xác
định rằng rủi ro không thể quản lý được.
Ước lượng rủi ro
Rủi ro, về mặt thuật ngữ, được đo bằng sự kết hợp khả năng
một nguy cơ sẽ gây ra tác động bất lợi và mức độ nghiêm trọng
(hậu quả) của tác động bất lợi đó. Để giảm tính mơ hồ của thuật
ngữ sử dụng trong các đánh giá rủi ro, cơ quan quản lý thường
áp dụng một bộ các chỉ thị nhằm đánh giá khả năng xảy ra,
đánh giá hậu quả và ước lượng rủi ro, trong đó bao trùm mọi
lĩnh vực của các hồ sơ đăng ký cấp phép có thể có. Ví dụ, hậu
quả của một rủi ro liên quan đến sức khỏe con người sẽ rất khác
so với hậu quả của rủi ro đối với môi trường (xem Bảng 3).
Bảng 3. Ma trận ước lượng rủi ro
Uớc lượng rủi ro
Đánh
giá
khả
năng
Khả năng cao Thấp Trung bình Cao Cao
Có khả năng Thấp Thấp Trung bình Cao
ít có khả năng Không đáng kể Thấp Trung bình Trung bình
Không có khả năng Không đáng kể Không đáng kể Thấp Trung bình
Rất nhỏ Nhỏ Trung bình Cao
Đánh giá hậu quả
Phân tích rủi ro của sinh vật biến đổi gen34
Đánh giá khả năng
Khả năng cao Dự đoán xảy ra trong hầu hết các trường hợp
Có khả năng Có thể xảy ra trong nhiều trường hợp
ít có khả năng Có thể xảy ra trong một số trường hợp
Không có khả năng Có thể xảy ra trong rất ít trường hợp
Đánh giá hậu quả
Rất nhỏ Tác động bất lợi rất nhỏ hoặc không có
Nhỏ Có một số tác động bất lợi
Trung bình Tác động bất lợi là đáng kể
Cao Tác động bất lợi là nghiêm trọng
Ước lượng rủi ro
Không đáng kể
Rủi ro không đáng kể và hiện tại không cần các
hành động hỗ trợ để giảm thiểu
Thấp
Rủi ro là ở mức độ thấp, nhưng có thể cần các
hành động hỗ trợ để giảm thiểu
Trung bình
Rủi ro đáng lo ngại, cần các hành động để giảm
thiểu và chứng minh tính hiệu quả
Cao
Rủi ro không thể chấp nhận được trừ khi có các
hành động khả thi và hiệu quả cao
Phân tích rủi ro của sinh vật biến đổi gen 35
Các ma trận rủi ro thường không đối xứng bởi vì không phải
tất cả rủi ro có cùng mối quan hệ giữa khả năng và hậu quả.
Ngoài ra, một số nhân tố khác có thể ảnh hưởng đến mối quan
hệ như một nhóm quần thể mẫn cảm, một loạt phản ứng hoặc
loại tần suất của tác động.
Các chỉ thị về khả năng xảy ra, hậu quả và ước lượng rủi
ro đưa ra ở trên có thể được tham khảo cho mọi hồ sơ đăng ký
cấp phép. Tuy nhiên, chúng phải được cân nhắc trong bối cảnh
của hoạt động dự kiến tiến hành. Ví dụ, việc đưa một gen biểu
hiện một chất trị liệu vào trong giống khoai tây có thể coi là
rủi ro thấp hơn so với việc đưa gen đó vào một giống thực vật
lai chéo như đậu trắng, bởi vì giảm khả năng phát tán và tính
bền vững của gen đưa vào. Cần chú ý, sự không chắc chắn về
khả năng xảy ra và hậu quả sẽ ảnh hưởng đến ước lượng rủi ro.
Ma trận ước lượng rủi ro cho biết mối quan hệ giữa hậu quả và
khả năng xảy ra của các nguy cơ cụ thể. Ma trận rủi ro có thể
sử dụng làm công cụ để đưa ra ước lượng rủi ro.
2.3 Các vấn đề khác liên quan đến đánh giá rủi ro
So sánh tương đương
Các hồ sơ đăng ký cấp phép giải phóng có chủ đích GMO
vào môi trường thường được yêu cầu đánh giá rủi ro theo từng
trường hợp cụ thể và chọn lựa các đối tượng thích hợp để so
sánh. Các rủi ro gây ra bởi một GMO cụ thể thường được so
sánh với các rủi ro gây ra bởi sinh vật bố mẹ chưa biến đổi gen.
Lập luận phía sau đánh giá so sánh này là những sinh vật bố mẹ
chưa biến đổi gen có lịch sử sử dụng an toàn đối với người tiêu
dùng nói chung hoặc động vật và môi trường. Cây trồng này sẽ
có bản chất di truyền tương tự so với cây trồng biến đổi gen trừ
tính trạng được biến đổi. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng,
Phân tích rủi ro của sinh vật biến đổi gen36
lai tạo giống truyền thống cũng có thể tạo ra những sự thay
đổi về bản chất di truyền của các giống. Khi một giống truyền
thống là giống được trồng đại trà thì sẽ dễ dàng so sánh hơn.
Ví dụ, đối với cây cải dầu mang tính kháng thuốc diệt cỏ được
tạo ra bằng các phương pháp truyền thống và đang được trồng
rộng rãi ở một quốc gia cần được cân nhắc khi đánh giá các hồ
sơ đăng ký giải phóng thương mại các giống cây trồng biến đổi
gen kháng thuốc diệt cỏ ở quốc gia đó.
Môi trường nhận cũng có thể thay đổi qua thời gian và sự
thay đổi này cũng cần được cân nhắc khi đánh giá rủi ro. Ví
dụ, những thay đổi về tập quán canh tác nông nghiệp liên quan
đến gieo trồng hoặc sử dụng hóa chất có thể tác động đến môi
trường ở đó GMO được gieo trồng. Những nhân tố này rất quan
trọng trong đánh giá hậu quả của ước lượng rủi ro.
Đánh giá rủi ro định tính và đánh giá rủi ro định lượng
Mục đích của đánh giá rủi ro là áp dụng cách tiếp cận logic, hệ
thống, có thể dự đoán và có thể lặp lại vào ước lượng rủi ro. Điều
này vừa bao gồm đánh giá định tính và đánh giá định lượng.
Trong đó, đánh giá rủi ro định lượng là xác định khả năng
một nguy cơ sẽ xuất hiện và các hậu quả nếu nó xảy ra. Đây
là mối quan hệ trực tiếp giữa hai nội dung. Kiểu phân tích này
thích hợp với các tình huống trong sản xuất hóa chất và công
nghiệp với lịch sử lâu dài trong đó thông tin được thu thập dưới
dạng các loại và mức độ của các rủi ro. Các rủi ro tiềm ẩn được
đánh giá chính xác nhờ một lượng lớn dữ liệu và hiểu biết sâu
sắc từng quy trình riêng lẻ.
Các đánh giá rủi ro môi trường thường là định tính bởi vì
sự phức tạp của chúng, số lượng đầu vào và sự cần thiết phải
Phân tích rủi ro của sinh vật biến đổi gen 37
xử lý với nhiều chỉ thị có thể tạo ra nhiều tác động. Điều này
không có nghĩa là các đánh giá định tính không sử dụng các dữ
liệu định lượng, mà ngược lại, các đánh giá định tính sử dụng
thông tin định lượng.
Các đánh giá định lượng sử dụng một số giá trị số có thể
thu thập từ:
a) Dữ liệu thực nghiệm;
b) Thông qua ngoại suy từ các nghiên cứu thực nghiệm về
các hệ thống liên quan;
c) Dữ liệu lịch sử; hoặc
d) Phỏng đoán từ các mô hình đã sử dụng để mô tả các hệ
thống hoặc tương tác phức tạp.
Các đánh giá định tính sử dụng các mô tả liên quan đến khả
năng xảy ra, các tác động bất lợi và có thể kết hợp các dữ liệu từ
một số nguồn. Trong đó, một số dữ liệu có thể là định lượng.
Việc sử dụng cách tiếp cận định tính hay định lượng tùy
thuộc vào lượng, loại và chất lượng của dữ liệu; sự phức tạp
của rủi ro đang xem xét; mức độ chi tiết của yêu cầu để ra quyết
định.
Đối với GMO, các đánh giá định tính, trong hầu hết các
trường hợp, là cách thích hợp nhất, bởi vì:
a) Các loại sinh vật và các loại gen đưa vào rất đa dạng và
thường mới;
b) Các tác động bất lợi tiềm ẩn đối với sức khỏe con người
và môi trường rất đa dạng;
c) Các tác động đối với môi trường phát sinh trong các hệ
thống rất phức tạp và còn nhiều vấn đề chưa được hiểu rõ;
Phân tích rủi ro của sinh vật biến đổi gen38
d) Các tác động bất lợi có thể xuất hiện về lâu dài và khó
định lượng.
Vì vậy, các đánh giá rủi ro định tính đối với GMO là cơ
chế khả thi nhất để đánh giá rủi ro trong phần lớn các trường
hợp khi không có đủ dữ liệu để áp dụng các phương pháp định
lượng. Các mô hình có thể được sử dụng để cung cấp thông
tin cho quy trình phân tích định lượng nhưng không thể đưa ra
được các câu trả lời chính xác. Các đánh giá định tính cũng dễ
tiếp cận hơn cho trao đổi thông tin rủi ro.
Sự không chắc chắn
ít nhất 5 loại không chắc chắn có thể áp dụng cho phân tích
rủi ro GMO. Bao gồm:
Tri thức – không chắc chắn về kiến thức. Các ví dụ về sự
không chắc chắn của tri thức bao gồm kiến thức không hoàn
thiện, số lượng mẫu hạn chế, lỗi đánh giá (hệ thống hoặc ngẫu
nhiên), lỗi mẫu, số liệu mơ hồ hoặc gây tranh luận, số liệu
không thực tế, sử dụng dữ liệu thay thế. Đánh giá rủi ro các
hoạt động liên quan đến GMO dựa trên bằng chứng, chủ yếu
sử dụng thông tin từ nghiên cứu khoa học. Sự không chắc chắn
về kiến thức là thành phần chính của sự không chắc chắn trong
đánh giá rủi ro.
Mô tả – sự không chắc chắn về mô tả có thể ở dạng từ ngữ
(sự không chắc chắn về ngôn ngữ), mô hình, số liệu, hình ảnh
hoặc biểu tượng. Các dạng cơ bản của sự không chắc chắn về
mô tả bao gồm sự mơ hồ, không rõ ràng trong nội dung mô tả,
các đánh giá rủi ro định lượng có thể thuộc loại không chắc
chắn về ngôn ngữ. Ví dụ, từ ‘thấp’ có thể mơ hồ khi áp dụng cho
khả năng xảy ra, độ mạnh của tác động bất lợi và đánh giá rủi ro
tổng thể. Ngoài ra, từ ‘thấp’ có thể khó định nghĩa.
Phân tích rủi ro của sinh vật biến đổi gen 39
Nhận thức – bao gồm thành kiến, nhận thức và sự không
chắc chắn của cảm giác. Sự không chắc chắn về nhận thức có
thể ở một số dạng, trong đó có thành kiến, tính biến thiên trong
nhận thức về rủi ro, sự không chắc chắn do hạn chế về ý thức
(góp phần tạo ra lỗi đánh giá). Sự không đáng tin cậy về nhận
thức liên quan đến sự phỏng đoán, suy đoán, các suy nghĩ mơ
hồ, tranh cãi hoặc thay đổi.
Sự phức tạp – sự không chắc chắn liên quan đến bản chất
phức tạp của các hệ thống động như tế bào, sinh vật, hệ sinh
thái, các hệ thống sinh vật hoặc vật lý (ví dụ: thời tiết). Sự
không chắc chắn phát sinh do sự phức tạp khi thực hiện đánh
giá rủi ro trên sản phẩm phụ thuộc vào hai hoặc nhiều quy trình.
Sự phức tạp thường tăng gấp đôi khi kiến thức không đầy đủ
(không chắc chắn về kiến thức). Vì vậy, kiến thức bổ sung có
thể giảm mức độ không chắc chắn. Sự phức tạp được liệt kê
như là một trong bốn khó khăn chính trong xây dựng cách tiếp
cận phòng ngừa của châu Âu về quản lý rủi ro.
Bản chất – sự không chắc chắn biểu hiện gắn liền với sự
không cẩn thận, sự hay thay đổi. Sự không cẩn thận có thể phát
sinh từ sự thay đổi về không gian, sự dao động về thời gian, sự
thay đổi trong sản xuất, sự khác biệt di truyền hoặc trong biểu
hiện gen. Sự thay đổi phát sinh từ thay đổi qua quan sát hoặc dự
đoán giữa các cá thể trong quần thể liên quan như người, động
vật, thực vật, vi sinh vật, cảnh quan… Một đặc tính quan trọng
của sự không chắc chắn về bản chất là không thể thay đổi được
ngay cả khi bổ sung thêm thông tin. Trong quản lý rủi ro, các
yếu tố an toàn và các biện pháp ngăn ngừa khác được sử dụng
để phòng tránh sự không chắc chắn này.
Phân tích rủi ro của sinh vật biến đổi gen40
Tất cả 5 loại không chắc chắn kể trên có thể có trong một
phân tích rủi ro. Cần nhấn mạnh rằng, dù sử dụng đánh giá rủi
ro định tính hay định lượng thì đều phải dựa trên bằng chứng v
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phan tich rui ro cua sinh vat bien doi gen.pdf