Tiểu luận Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án

MỤC LỤC

 

Lời mở đầu

I. Khái quát chung về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án.

II. Quy định của pháp luật TTHS hiện hành về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án.

1. Thẩm quyền xét xử theo vụ việc

1.1.Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án cấp huyện

1.2. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án cấp quân khu.

2. Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ

3. Thẩm quyền xét xử theo đối tượng.

III. Một số bất cập vướng mắc khi áp dụng quy định của pháp luật Tố tụng hình về thẩm quyền xét xử sơ thẩm và việc hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề này.

1. Những bất cập vướng mắc khi áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thẩm quyền xét xử sơ thẩm.

2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quy định về thẩm quyền xét xử sở thẩm của Toà án

2.1Hoàn thiện về pháp luật

2.2Một số giải pháp khác

VI .Kết luận

 

 

doc15 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2811 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lý. Khoản 1 Điều 170 quy định: “1. Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực xét xử sơ thẩm những vụ án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, trừ những tội phạm sau đây: Các tội xâm phạm an ninh quốc gia; Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh ; Các tội quy định tại các điều 93, 95, 96, 172, 216, 217, 218, 219, 221, 222, 223, 224, 225, 226, 263, 293, 294, 295, 296, 322, và 323 của bộ luật hình sự” Quy định trên cho thấy thẩm quyền xét xử vụ việc của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại BLTTHS năm 2003 bao gồm các loại tội phạm có mức hình phạt có mức phạt cao nhất theo quy định của BLHS 1999 đến 15 năm tù, trừ những tội phạm quy định tại tội phạm a, b, c Điều 170 BLTTHS. Nghị quyết tại số 24/2003/ QH11 về việc thi hành BLTTHS năm 2003 đã ghi rõ tại mục 3: “Kể từ ngày BLTTHS có hiệu lực, những tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Tòa án quân sự có đủ điều kiện thực hiện thì giao thẩm quyền xét xử mới quy định tại khoản 1 Điều 170 BLTTHS. Những tòa án nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Tòa án quân sự khu vực chưa đủ điều kiện thì thực hiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về tội ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, trừ những tội quy định điểm a, b và c khoản 1 Điều 170 Bộ luật hình sự năm 2003 nhưng chậm nhất đến ngày 01/7/2009, tất cả các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Tòa án quân sự khu vực thực hiện thống nhất thẩm quyền mới quy định tại khoản 1 Điều 170 BLTTHS” Như vậy thẩm quyền xét xử của tòa án nhân dân cấp huyện đã được tăng cường, mở rộng. Việc mở rộng thẩm quyền xét xử vụ án cho Tòa án xuất phát từ những lý do sau: Thứ nhất, các Thẩm phán ở Tòa án cấp huyện đã được nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ so với trước đây, có khả năng xét xử các vụ án mà mức phạt cao nhất của khung phạt đối với tội ấy là 15 năm tù trở xuống; Thứ hai, việc tăng thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho tòa án cấp huyện sẽ tránh được viêc tồn đọng án ở Tòa án nhân dân cấp tỉnh, giành thời gian cho Tòa án cấp tỉnh tập trung giải quyết xét xử các vụ án phức tạp. Thứ ba, cơ sở vật chất của tòa án cấp huyện đã phần nào được cải thiện nâng cấp. Số lượng biên chế thẩm phán quy định cũng là lý do giúp cho cán bộ ngành tòa án cấp huyện có điều kiện làm việc tốt hơn và yên tâm công tác; Thứ tư, việc mở rộng thẩm quyền cho Tòa án cấp huyện giảm bớt được chi phí và thời gian tiến hành tố tụng, tránh được việc trì hoãn phiên tòa do lý do vắng mặt của những người tham gia tố tụng; Thứ năm, một trong những mục đích của việc xét xử đó là giáo dục quần chúng nhân dân chấp hành pháp luật và việc xét xử ở Tòa án cấp huyện có thể thực hiện tốt nhất mục đích này. 1.2.Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và tòa án quân sự quân sự cấp quân khu (khoản 2 Điều 170 BLTTHS 2003) So với quy định trước đây, thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và tòa án quân sự cấp quân khu được quy định trong BLTTHS không có gì khác nhau. Theo quy định tại khoản 2 Điều 170 –Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu có thẩm quyền xét xử hai vụ việc sau: - Những vụ án hình sự về tội phạm không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực; - Những vụ án thuộc thẩm quyền cấp dưới mà mình lấy lên xét xử. Bộ luật tố tụng hình sự không quy định cụ thể những vụ án nào thuộc thẩm quyền Tòa án cấp huyện nhưng Tòa án cấp tỉnh lấy lên để xét xử. Do đó, chánh án Tòa án, Viện trưởng Viện kiểm sát và thủ trưởng cơ quan cấp tỉnh cần căn cứ vào khả năng thực tế của các Thẩm phán, Kiểm sát viên và Điều tra viên ở cấp huyện mà xác đinh những loại vụ án nào cần lấy lên điều tra, truy tố và xét xử ở cấp tỉnh. Cơ quan điều tra, Viện kiểm xát và Tòa án cấp tỉnh lấy lên và để điều tra, truy tố xét xử các vụ án sau: - Vụ án phức tạp (có nhiều tình tiết khó đánh giá thống nhất về tính chất vụ án hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành). - Vụ án mà bị cáo là Thẩm phán, Kiểm sát viên, sĩ quân công an, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cấp huyện, người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy tín cao trong dân tộc ít người. 2. Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ là sự phân định thẩm quyền xét xử căn cứ vào nơi tội phạm được thực hiện và nơi kết thúc điều tra. Thông thường, vụ án hình sự được được xét xử ở tòa án ở tòa án nơi tôi phạm thực hiện. Hiện nay, BLTTHS năm 2003 quy định tại khoản 1 Điều 171 như sau: Vụ án hình sự được xét xử căn cứ vào nơi tội phạm được thực hiện và nơi kết thúc điều tra. Trong trường hợp tội phạm được thực hiện ở nhiều nơi khác nhau hoặc không xác định được nơi thực hiện tôi phạm thì Tòa án có thẩm quyền xét xử nơi xét xử là nơi kết thúc điều tra. Thông tư số 01/2005/TTLT- TANDTC-VKSNDTC- BQP- BCA ngày 18/4/2005 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ quốc phòng, Bộ công an hướng dẫn về thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự như sau: Vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự cấp nào thì do Tòa án quân sự cấp đó xét xử. Việc phân định địa bàn trong Quân đội để xác định thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự do Bộ quốc phòng quy định cụ thể. Trong hợp không xác định được nơi thực hiện tội phạm hoặc trường hợp có nhiều tòa án quân sự khác nhau có thẩm quyền xét xử do vụ án có nhiều người phạm tội thuộc nhiều đơn vị khác nhau hoặc do người thực hiện tội phạm ở nhiều nơi, nếu viện kiểm sát quân sự truy tố trước Tòa án quân sự nào thì Tòa án đó có quyền xét xử. Khoản 2 Điều 171 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định đối với trường hợp bị cáo phạm tội ở nước ngoài : - Nếu bị cáo xét xử ở Việt Nam thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước có thẩm quyền xét xử. - Nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước có thẩm quyền xét xử. - Nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước thì từng trường hợp được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định giao cho Tòa án nhân dân thành phố Hà nội hoặc Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử . - Nếu vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án Quân sự thì do Tòa án quân sự quân khu trở lên xét xử theo quyết định của Tòa án quân sự trung ương. - Nếu vụ án xảy ra trên tàu bay, tàu biển của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc hoạt động ở nước ngoài thì Tòa án Việt Nam nơi có sân bay cảng mà tàu bay, tàu biển đó trở về đầu tiên ở trong nước hoặc nơi tàu bay, tàu biển được đăng ký có thẩm quyền xét xử. Điều 172 BLTTHS năm 2003 quy định về thẩm quyền xét xử những tội phạm xảy ra trên tàu biển ,tàu bay của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang hoạt động ngoài lãnh hải Việt Nam đang hoạt động không phận hoặc lãnh hải Việt nam thuộc về Tòa án Việt Nam, nơi có sân bay, bến cảng trở về đầu tiên ở trong nước hoặc nơi máy bay, tàu biển được đăng ký.Theo Luật quốc tế thì tàu bay, tàu biển mang quốc tịch. Vì vậy, tội phạm xảy ra trên tàu bay đã rời khỏi không phận và lãnh hải của Việt Nam vẫn là tội phạm xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam. Do đó, tội phạm xảy ra trên tàu bay, tàu biển trong trường hợp này vẫn thuộc thẩm quyền của Tòa án Việt Nam. 3. Thẩm quyền xét xử theo đối tượng Thẩm quyền xét xử theo đối tượng là sự phân định thẩm quyền xét xử giữa Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự căn cứ vào đối tượng Bộ luật hình sự năm 2003 không có điều luật nào quy định cụ thể đối tượng nào thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân, đối tượng nào thuộc Tòa án quân sự. Tuy nhiên Điều 3 Pháp lệnh tổ chức tòa án quân sự năm 2002, có quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự như sau: 1.Quân nhân tại ngũ, công nhân viên quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu với quân đội và những người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý. 2.Những người không thuộc những quy định tại khoản 1 Điều này mà phạm tội liên quan đến bí mật quân sự chỉ thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự nếu phạm tội một trong các trường hợp sau: -Tội phạm mà họ thực hiện có liên quan đến bí mật quân sự -Tội phạm mà họ thực hiện gây thiệt hại cho quân đội. Trường hợp trong cùng một vụ án, vừa có người phạm tội hoặc tội phạm thuộc thẩm thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự, vừa có người phạm tội hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân, trong trường hợp này, Tòa án quân sự xét xử toàn bộ vụ án. Thông tư liên tịch 01/TTLT ngày 18/04/2005 của Tòa án tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ quốc phòng, Bộ công an “Hướng dẫn về thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự” như sau : - Quân nhân tại ngũ gồm hạ sĩ quan, hạ sĩ quân và quân nhân chuyên nghiệp được quy định trong Luật nghĩa vụ quân sự, luật sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam. - Công chức quốc phòng bao gồm những công dân đang được tuyển dụng vào phục vụ trong quân đội trực tiếp quản lý theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức và Luật quân đội nhân dân Việt Nam; Quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện, diễn tập hoặc đang kiểm tra tình trạng sẵn sang động viên, tình trạng sẵn sang chiến đấu theeo quy định của pháp luật về lực lượng dự bị động viên. Dân quân, tự vệ trong thời gian phối thuộc quân đọi chiến đấu theo quy định của pháp luật về dân quân tự vệ; Những người được tập trưng làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội quản lý bao gồm những công dân do nhu cầu chiến đấu, phục vụ chiến đấu hoặc do nhiệm vụ quân sự khác được các đơn vị quân đội trưng tập hoặc do nhiệm vụ nhiệm vụ quân sự khác được các đơn vị trưng tập và trực tiếp quản lý họ để đáp ứng các nhu cầu khác Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự năm 2002 quy định: quân nhân tại ngũ phạm tội trong quân đội và ngoài xã hội đều thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự. Trong trường hợp vụ án vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự, vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân thì Tòa án quân sự xét xử toàn bộ vụ án. Nếu có thể tách riêng ra để xét xử thì Tòa án quân sự và Tòa án nhân dân xét xử những bị cáo thuộc thẩm quyền của mình. tổ Điều 4, Điều 5 Pháp lệnh chức Tòa án quân sự quy định : Những người không còn phục vụ trong quân đội mà phát hiện tội phạm của họ được thực hiện trong thời gian phục vụ quân đội; hoặc những người bị phát hiện là phạmtội khi nhập ngũ thì thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự về những tội phạm liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội. Những tội phạm khác do Tòa án nhân dân xét xử. Qua những quy định nêu trên có thể thấy thẩm quyền xét xử rộng hơn so với Tòa án quân sự, cụ thể là xét xử hầu hết các đối tượng phạm tội, trừ trường hợp đối tượng thuộc thầm quyền xét xử của tòa án quân sự được quy định trong pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự năm 2002. III- Những bất cập vướng mắc khi áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án và việc hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề này. 1.Những bất cập vướng mắc khi áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án. Thứ nhất, theo quy định tại khoản 2 Điều 170 BLTTHS thì: Tòa án nhân dân cấp tỉnh có quyền lấy những vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp dưới lên xét xử. Nhưng cho nay, khi văn thông tư liên ngành số 02/ TTLN ngày 12/01/1989 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp, Bộ nội vụ hướng dẫn thi hành một số quy định về trường hợp TAND cấp tỉnh được phép lấy vụ án thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện lên xét xử đã hết hiệu lực thì vẫn chưa có bất kỳ một văn bản nào hướng dẫn về vấn đề này. Thông thường, TAND cấp tỉnh lấy vụ án những vụ án mà người phạm tội là Kiểm sát viên, Thẩm phán, sĩ quan công an, cán bộ chủ chốt ở cấp huyện, những người có chức sắc tôn giáo … lên để xét xử. Thứ hai, khi tòa án thấy vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của mình thì tòa án chuyển vụ án cho thẩm quyền xét xử. Tuy nhiên BLTTHS lại chưa có những quy định cụ thể về thủ tục chuyển vụ án như thế nào và cũng chưa có văn bản nào dưới điều chỉnh về vấn đề này. Vì vậy trên thực tế áp dụng quy định này còn chưa thực sự thống nhất, có trường hợp sau khi tòa án nhận thấy vụ việc không thuộc thẩm quyền xét xử của mính thì chuyển trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để Viện kiểm sát chuyển cho cấp có thẩm truy tố; có Tòa án lại chuyển thẳng cho tòa án cấp có thẩm quyền. Thứ ba, hiện nay BLTTHS 2003 mới chỉ quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm đối với người việt Nam phạm tội ở nước ngoài bị đưa về xét xử nhưng chưa có quy định cụ thể về việc người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam hoặc trường hợp phạm tội vừa thực hiện ở trong nước vừa thực hiện tội phạm ở nước ngoài thì thuộc thẩm quyền của Tòa án nào? Vì vậy các cơ quan tiến hành vẫn còn lung túng trong việc điều tra, truy tố, xét xử. Trên thực tế, các vụ án mà bị can, bị cáo là người nước ngoài hoặc trường hợp vừa thực hiện trong nước vừa thực hiện ở nước ngoài hiện nay do Tòa án cấp tỉnh xét xử. Còn các vụ mà người bị bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có lợi ích liên quan đến vụ án là người nước ngoài thì vẫn chưa có sự hướng dẫn thống nhất. Thứ tư, hiện nay sự phân định thẩm quyền xết xử trong tòa án nhân dân và Tòa án quân sự vẫn chưa được quy định trong BLTTHS năm 2003 mà mới chỉ quy định trong pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự là văn bản có hiệu lực pháp lý thấp hơn. Theo quy định tại Điều 5 Pháp lệnh tổ chức tòa án quân sự thì nếu vụ án vừa có tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân vừa có tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự nếu tách được vụ án thì Tòa nào xét xử thuộc thẩm quyền của Tòa đó; nếu vụ án không tách được thì Tòa án quân sự xét xử toàn bộ vụ án đó. Thứ năm, những bất cập về tổ chức cán bộ và cơ sở vật chất: Trình độ của những người tham gia xét xử vẫn còn hạn chế; cơ sở về vật chất còn thiếu thốn,chưa có khả năng xét xử lưu động nhiều. 2.Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án. 2.1. Hoàn thiện về pháp luật - Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992 Điều 126 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy định: “Tòa án nhân dân và Viên kiểm sát nhân dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập thể, bỏa vệ tính mạng, tìa sản, tự do,danh dự và nhân phẩm của công dân”. Hệ thống tòa án ở nước ta được tổ chức theo nguyên tắc hành chính –lãnh thổ. Tuy nhiên, theo tinh thần của Nghị quyết số 49 – NQ/TW của Bộ chính trị về cải cách tư pháp đến năm 2020, để thực hiện cải cách tư pháp, nâng cao hiệu quả xét xử, hệ thống Tòa án nước ta được tổ chức theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào các đơn vị hành chính, gồm: Tòa án sơ thẩm khu vực, Tòa án Phúc thẩm, Tòa thượng thẩm và Tòa án nhân dân tối cao.H Do vậy, để có thể thực hiện được chủ trương đúng đắn này, việc sửa đổi quy định tại Điều 126 Hiến pháp 1992 là cần thiết và hoàn toàn phù hợp với tinh thần của Nghị quyết số 49 nói trên. Điều 135 Hiến Pháp quy định: “ Chánh án Tòa án nhân dân địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân”. Khi hệ thống Tòa án được tổ chức theo khu vực và theo thẩm quyền xét xử không phụ thuộc vào một địa bàn hành chính nhất định thì việc báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân địa phương phải được xem xét. Theo pháp luật hiện hành, Tòa án cấp huyện phải báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cấp huyện. Điều này là chưa phù hợp với tinh thần của Nghị quyết số 49- NQ/TW là tổ chức lại hệ thống Tòa án là thành lập các Tòa án sơ thẩm khu vực, các mối quan hệ trên về cơ bản cũng phải có sự thay đổi cho phù hợp. Về lý luận cũng như thực tiễn, để đảm bảo cho mọi hoạt động của Tòa án các cấp được thực hiện theo đường lối và chính chính của Đảng và pháp luật Nhà nước, các cấp ủy Đảng, Hội đồng nhân dân địa phương giữ vai trò chủ đạo, giám sát các vấn đề có tính nguyên tắc. Vì vậy, việc sửa đổi Điều 135 Hiến pháp năm 1992 là cần thiết. Hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thẩm quyền xét xử sơ thẩm Quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án các cấp hiện nay tại Điều 170 BLTTHS, về cơ bản là phù hợp và có tính khả thi, điều đó được chứng minh cụ thể qua thực tiễn xét xử trong thời gian vừa qua. Tuy nhiên, quá trình áp dụng các quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án các cấp cũng đã cho thấy một số bất cập sau: Thứ nhất: Bộ luật TTHS hạn chế nhiều trường hợp vụ án hình sự mà Tòa án cấp huyện không được xét xử tại khoản 1 Điều 170, đó chủ yếu là các tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng. Quy định đó chỉ phù hợp với trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người tiến hành tố tụng thời kỳ trước khi BLTTHS ban hành. Hiện nay, những hạn chế về cơ sở vật chất cũng như về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người của cán bộ các cơ quan tiến hành tố tụng đã dần được khắc phục. Đối với các tội quy định tại điểm c khoản 1 Điều 170 BLTTHS, trong thời điểm hiện tại, các Tòa án cấp huyện đã có khả năng xét xử hầu hết các tội phạm này. Vì vậy,chỉ nên quy định Tòa án cấp huyện không được xét xử một só tội phạm quy định tại 9 điều luật thay vì 21 Điều luật như hiện nay, đó là các tội quy định tại các điều : Điều 172; Điều 216; Điều 217; Điều 218; Điều 219; Điều 221; Điều 222; Điều 223 và Điều 263 của BLHS. Thứ hai, Về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân khu quy định tại khoản 2 Điều 170 tương đối hợp lý tuy nhiên vấn còn bất cập ở chỗ: Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự quân khu có thể lấy vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp dưới lên xét xử. Bởi lẽ, nếu quy định một cách chung chung như vậy dễ dẫn đến sự tùy tiện trong áp dụng và trong thực tế sẽ gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án do khi chuyển vụ án từ cấp dưới lên sẽ phải làm lại cáo trạng truy tố. Bởi vì VKS cấp dưới không thể ủy nhiệm cho VKS cấp trên thực hành qyền công tố và kiểm sát xét xử được. Do đó hồ sơ vụ án sẽ chuyển qua chuyển lại nhiều lần giữa VKS và Tòa án, mất nhiều thời gian không cần thiết. Mặt khác , do không quy định cụ thể cũng chưa có sự giải thích, hướng dẫn về vấn đề này nên cũng khiến cho việc nhận thức và áp dụng trong thực tiễn khó có sự thống nhất và không thể tránh khỏi tình trạng mỗi nơi sẽ có cách vận dụng riêng của mình, có thể ảnh hưởng đến việc giải quyết nhanh chóng vụ án. Vì vậy, nên chăng bỏ quy định việc Tòa án cấp tỉnh và Tòa án quân khu có thể lấy vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới lên xét xử và bổ sung vào điểm c khoản 1 Điều 170 BLTTHS một số trường hợp vụ án hình sự mà tội phạm do một số đối tượng nhất định thực hiện không thuộc thẩm xét xử của TAND cấp huyện, để ngay khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can, giao cho cơ quân điều tra cấp tỉnh điều tra ngay từ đầu đảm bảo sự thống nhất về thẩm quyền giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, tránh trường hợp sau khi truy tố ra Tòa án cấp huyện, vụ án mới bị lấy lên Tòa án cấp trên xét xử. Theo ý kiến cá nhân em, đối với những vụ hình sự mà tội phạm do các đối tượng sau đây thực hiện, để đảm bảo việc giải quyết vụ án được khách quan với mô hình tổ chức Tòa án theo nguyên tắc hành chính lãnh thổ như hiện nay, sẽ không thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện: Thẩm phán Tòa án các cấp, KSV VKS các cấp, cán bộ chủ chốt cấp huyện, người nước ngoài, người có chức sắc trong tôn giáo, có uy tín cao trong các dân tộc ít người. Tuy nhiên, nếu sau này chúng ta tổ chức lại hệ thông Tòa án theo cấp xét xử và thẩm quyền xét xử theo yêu cầu cải cách tư pháp với mô hình Tòa án sơ thẩm khu vực không lệ thuộc vào một đơn vị hành chính như hiện nay, thì việc xét xử đối tượng nói trên có thể giao cho các Tòa án này vẫn đảm bảo việc xét xử khách quan. Đến thời điểm này hoàn toàn có thể bỏ điểm d của khoản 1 Điều 170 sửa đổi này. Từ nhưng phân tích trên, trong giai đoạn trước mắt có thể sửa đổi, bổ sung Điều 170 như sau: Điều 170. Thẩm quyền xét xử của Tòa án các cấp Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm đăc biệt nghiêm trọng và tội phậm đặc biệt nghiêm trọng trừ những tội phạm sau đây: Các tội xâm phạm an ninh quốc gia; Các tội phá họa hòa bình, chông phá loài người và tội phạm chiến tranh; Các tội quy định tại các Điều 172, 216, 217, 218, 219, 221, 222, 223, và 263 của Bộ luật hình sự. Các tội mà người thực hiện tội phạm là: Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cấp huyện, người nươc ngoài, người có chức sắc cao trong tôn giáo hoặc có uy tín cao trong các dân tộc ít người. Tòa án nhân dân cấp tỉnh xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm không thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện, Tòa án quân sự cấp quân khu xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về tội phạm không thuộc thẩm quyền của tòa án quân sự khu vực. Theo quy định tại đoạn ba Điều 171 BLTTHS, trường hợp bị cáo phạm tội ở nước ngoài bị đưa về nước xét xử, nếu thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự thì do Tòa án quân sự cấp quân khu trở lên xét xử theo quyết định của Chánh án Tòa án quân sự trung ương. Quy định như vậy làchưa phù hợp chính xác. Bởi lẽ, hiện nay theo quy định của BLTTHS, không có một cấp Tòa án nào quân sự nào cao hơn Tòa án cấp quân khu có thẩm quyền xét xử sơ thẩm cả, vì ngay từ năm 2000 chúng ta đã bỏ quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm của Tòa án hình sự TANDTC và Tòa án quân sự trung ương. Vì vậy nên bỏ hai từ “ trở lên” tại đoạn này và cả đoạn ba Điều 171 BLTTHS sẽ có nội dung sau: Bị cáo phạm tội ở nước ngoài, nếu thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án thì do Tòa án quân sự cấp quân khu xét xử theo quyết định của Chánh án Tòa án quân sự trung ương. Tại Điều 172 BLTTHS hiện hành quy định: đối với tội phạm xảy ra trên tàu bay, tàu biển đã dời khỏi sân bay, bến cảng Việt Nam sẽ thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nơi có sân bay, bến cảng mà tàu bay, tàu biển trở về đầu tiên trong nước hoặc Tòa án nơi tàu bay, tàu biển đó đăng ký. Quy định như vậy dễ dẫn đến việc tranh chấp hoặc đùn đẩy nhau giữa các tòa án nói trên. Mặt khác, việc quy định cả Tòa án nơi đăng ký tàu bay, tàu biển có thẩm quyền xét xử chắc chắn sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, thu thập chứng cứ. Bởi vì trong thực tế nếu có tội phạm xảy ra trên tàu bay, tàu biển trở về sân bay, bến cảng đầu tiên ở trong nước, do không có thẩm quyền điều tra vụ án nên người chỉ huy tàu biển, tàu biển phải giao ngay người bị bắt cho cơ quan điều tra có thẩm quyền, chính cơ quan điều tra sở tại,cho nên thực chất hoạt động điều tra ban đầu như: lập biên bản phạm tội quả tang, biên bản nhận người bị bắt, nhận bàn giao vật chứng (nếu có) đã được thực hiện ngay khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Vì vậy, không nên quy định cho Tòa án nơi tàu bay, tàu biển đăng ký có thẩm quyền xét xử các tội phạm xảy ra trên tàu bay, tàu biển khi tàu bay tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng Việt Nam để xác định nhanh chóng thẩm quyền điều tra đối với tội phạm đó, nhằm giải quyết nhanh chóng vụ án. Từ lập luận trên có thể sửa đổi Điều 172 theo hướng sau: Điều 172. Thẩm quyền xét xử những tội phạm xảy ra trên tàu bay hay tàu biển của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang hoạt động ngoài không phận hoặc lãnh hải của Việt Nam. Cần hoàn thiện quy định về chuyển vụ án: Để tránh trường hợp Tòa án sau khi thụ lý vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án mình nhưng ngại phức tạp nên không chuyển vụ án cho Tòa án cùng cấp có thẩm quyền giữ lại xét xử. Đồng thời để tạo ra sự thống nhất về nhận thức trong việc thực hiện thẩm quyền xét xử của mình thì phải chuyển cho Tòa án có thẩm quyền xét xử. Hoàn thiện các văn bản pháp luật có liên quan. Sửa đổi Luật tổ chức Hội đồng nhân dân: cần sửa đổi, bổ sung các quy định có liên quan đến việc bầu Hội thẩm nhân dân của Tòa án cho phù hợp với tổ chức và hoạt động của Tòa án sơ thẩm khu vực và Tòa án phúc thẩm. Sửa đổi Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và pháp lệnh Điều tra hình sự: Tác động của các cơ quan tư pháp có liên quan chặt chẽ đến việc điều tra, truy tố của các cơ quan tiến hành tố tụng cùng cấp. Vì vậy, việc xây dựng các cơ quan điều tra và VKS đông bộ về tổ chức và hoạt động tương ứng với hệ thống các Tòa án sơ thẩm khu vực là một điều kiện cần thiết đối với việc thay đổi thẩm quyền xét xử và thành lập các tòa án sơ thẩm . Một số giải pháp khác Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ ngành Tòa án Theo tinh thần Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ chính trị, ngành Tòa án đã và đang triển khai thực hiện các nhiệm vụ được đặt ra. Toàn ngành cần tích cực tham gia vào việc xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật; tăng cường công tác đào tạo, huấn luyện chuyên môn cho cán bộ, công chức Tòa án các cấp. Để hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp huyện, bên cạnh đó việc hoàn thiện pháp luật, còn có những giải pháp khác để nâng cao hơn cơ sở vật chất và chất lượng Thẩm phán của ngành Tòa án. Những giải pháp đó là: cần khẩn trương tuyể

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuy định của pháp luật TTHS hiện hành về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án ( 85 Đ).doc
Tài liệu liên quan