Giáo dục quyết định đến sự biến đổi tư tưởng, tâm lý và nâng cao trình độ nhận thức của con người. Giáo dục trở thành điều kiện tiền đề cho việc hình thành và phát triển bản chất con người. Nó là vũ khí rất sắc bén để giúp chúng ta cải tạo con người. Thông qua hoạt động thực tiễn của con người, giáo dục có vai trò quan trọng tác động vào các hoạt động kinh tế văn hoá và quan hệ xã hội. Vai trò của giáo dục là cung cấp nguồn nhân lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội. Khi điều kiện vật chất được nâng cao tất yếu sẽ tạo cơ sở cho nền giáo dục phát triển. Giáo dục không phát triển thì không đủ cán bộ giúp cho kinh tế phát triển. Hai việc đó liên quan mật thiết với nhau. Trong thực tiễn xây dựng nền kinh tế, văn hoá, xã hội ở nước ta cho thấy nếu không phát triển, mở mang giáo dục để đào tạo ra đội ngũ những người lao động, những cán bộ có đủ năng lực, chuyên môn và phẩm chất đạo đức chính trị thì sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước sẽ không đạt kết quả cao. Do vậy, giáo dục được xem là một mặt trận quan trọng trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
11 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 12826 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Bằng sự hiểu biết về giáo dục làm sáng tỏ luận điểm: Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó nhân tài". Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Bây giờ xây dựng kinh tế, không có cán bộ không làm được. Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế, văn hóa. Trong việc đào tạo cán bộ, giáo dục là bước đầu"
Hồ Chí Minh quan niệm: "Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người" (câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân Hội nghị cán bộ giáo dục toàn quốc ngày 13.09.1958).
Đầu thế kỉ XXI, nền giáo dục của loài người có những bước tiến lớn với nhiều thành tựu mọi mặt. Hầu hết các quốc gia nhận thức sự cần thiết và cấp bách phải đầu tư cho giáo dục. Đầu tư cho giáo dục được coi là đầu tư có lãi lớn nhất cho tương lai của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng, mỗi gia đình, dòng tộc và mỗi cá nhân.
Hiện nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển ngày càng nhanh. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Trong bối cảnh đó, giáo dục đã trở thành nhân tố quyết định đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Các nước trên thế giới kể cả những nước đang phát triển đều coi giáo dục là nhân tố hàng đầu quyết định sự phát triển nhanh và bền vững của mỗi quốc gia.
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và coi trọng công tác giáo dục và đào tạo. Ngay từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, phát triển giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công nghệ được xác định là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Luật giáo dục 2005 của nước ta đã khẳng định: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” (điều 9). Tại điều 13 nhấn mạnh: “Đầu tư giáo dục là đầu tư phát triển, Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục. Khuyến khích bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước đầu tư cho giáo dục, trong đó ngân sách Nhà nước giữ vai trò chủ yếu trong tổng nguồn lực đầu tư cho giáo dục”.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, giáo dục và xã hội có một mối quan hệ ràng buộc, tất yếu, hữu cơ mang tính quy luật. Chính sự phát triển của mối quan hệ đó làm cho xã hội và giáo dục đều phát triển. Đặc biệt trong thời đại ngày nay giáo dục được xem không chỉ là sản phẩm của xã hội mà đã trở thành nhân tố tích cực - động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội loài người.
í Vai trò của giáo dục đối với kinh tế – sản xuất
Xã hội loài người muốn tồn tại và phát triển thì phải có việc thế hệ đi trước truyền lại những kinh nghiệm lịch sử - xã hội cho thế hệ đi sau để họ tham gia vào đời sống xã hội, phát triển sản xuất, thoả mãn ngày càng cao nhu cầu của con người. Công việc đó do giáo dục đảm nhận. Bất kỳ một nước nào muốn phát triển kinh tế, sản xúât thì phải có đủ nhân lực và nhân lực phải có chất lượng cao. Nhân lực là lực lượng lao động của xã hội, là đội ngũ những người lao động đang làm việc trong tất cả các ngành nghề, các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội… đảm bảo cho xã hội vận động và phát triển đúng quy luật.
Chức năng kinh tế - sản xúât của giáo dục thể hiện tập trung nhất thông qua việc đào tạo nhân lực. Cụ thể là giáo dục đào tạo những người lao động có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và phẩm chất nhân cách cao, giáo dục tạo ra sức lao động mới một cách khéo léo, tinh xảo, hiệu quả để vừa thay thế sức lao động cũ bị mất đi, vừa tạo ra sức lao động mới cao hơn, góp phần tăng năng suất lao động, đẩy mạnh sán xuất phát triển kinh tế – xã hội. Chính giáo dục đã tái sản xuất sức lao động xã hội, tạo ra lực lượng trực tiếp sản xuất và quản lý xã hội với trình độ, năng lực cao. Gíao dục giúp cho mọi thành viên trong xã hội các cơ hội được mở mang trí tuệ, trau dồi nhân cách, phát triển các sức mạnh tinh thần và thể chất để vươn lên làm chủ trong lao động, trong cuộc sống cộng đồng.... Khi mọi thành viên của xã hội đều được tiếp nhận một nền giáo dục đúng đắn thì xã hội thực sự được tái sản xuất sức lao động với chất lượng cao hơn. Người lao động , do kết quả đào tạo của nhà trường sẽ được phát triển hài hòa các năng lực chung và riêng và do đó xã hội sẽ được tăng thêm sức lao động mới thay thế sức lao động cũ bị mất đi. Sức lao động mới có chất lượng hơn sẽ đem lại năng suất lao động nhiều hơn.
Đặc biệt trong xã hội hiện đại, khi trình độ phát triển của nền kinh tế là do trình độ của con người được giáo dục và đào tạo ra quyết định thì vai trò của giáo dục càng được khẳng định. Trong nền kinh tế thị trường, nguồn nhân lực còn được gọi là nguồn vốn nhân lực (cùng với nguồn vốn tài nguyên, nguồn vốn sản xúât và nguồn vốn khoa học – công nghệ) với tư cách là một nhân tố tăng trưởng kinh tế. Trong các nguồn vốn thì vốn nhân lực được coi quan trọng nhất bởi lẽ nó không đơn thuần là một nguồn vốn mà nó còn giữ vai trò chủ thể đối với các nguồn vốn khác, nó quyết định khả năng khai thác và hiệu quả sử dụng các nguồn vốn khác. Theo lí thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại, tỉ lệ tăng GDP phụ thuộc vào tốc độ tăng của các yếu tố đầu vào: nhân lực, vốn sản xuất, tài nguyên, khoa học – công nghệ và hiệu quả sử dụng chúng. Tuy nhiên những nghiên cứu của các nhà kinh tế học, quản lý xã hội và quản lý kinh tế đã thừa nhận vốn và kỹ thuật chỉ góp một phần nhỏ vào tăng trưởng kinh tế, còn phần rất quan trọng của “sản phẩm thặng dư” gắn liền với chất lượng nguồn nhân lực (trình độ được giáo dục về thể lực, trí lực, tâm lực). Vai trò của nhân lực ở chỗ, trước hết nó là một đầu vào của tăng trưởng GDP, sau nữa nó còn có ý nghĩa quyết định đối với tỷ lệ tăng của các nguồn lực khác.
Như vậy, với chức năng kinh tế - sản xúât giáo dục là động lực chính thúc đẩy nền kinh tế phát triển và giáo dục phải đi trước sự phát triển kinh tế - xã hội. Khi nền khoa học và công nghệ đạt đến trình độ phát triển cao, nhu cầu xã hội đa dạng, người lao động phải là những người có trình độ học vấn cao, có kiến thức rộng, có tay nghề vững, có tính năng động, sáng tạo… thì giáo dục phải đào tạo nhân lực một cách có hệ thống, chính qui ở trình độ cao.
í Vai trò của giáo dục đối với chính trị – xã hội
Bên cạnh chức năng tái sản xuất sức lao động xã hội, giáo dục còn mang chức năng chính trị -xã hội. Giáo dục không đứng ngoài chính trị mà nó là phương thức tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách… của một chế độ chính trị, giai cấp hay chính đảng cầm quyền. Giáo dục trực tiếp truyền bá hệ tư tưởng chính trị, đường lối chính sách của giai cấp nắm quyền và trực tiếp đào tạo chuẩn bị cho thế hệ trẻ tham gia vào cuộc sống, bảo vệ chế độ chính trị, xã hội đương thời.
Xã hội nào cũng có cấu trúc của nó, đó là một tổng thể, một tập hợp bao gồm các bộ phận, các yếu tố tạo thành xã hội như cộng đồng xã hội, dân tộc, giai cấp, tầng lớp, nhóm xã hội.v.v… đã được hình thành một cách lịch sử – tự nhiên, tất yếu khách quan trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Giáo dục tác động đến cấu trúc xã hội là tác động đến tập hợp các bộ phận xã hội và tính chất của các mối quan hệ giữa các bộ phận đó. Trong xã hội phong kiến, giáo dục góp phần không nhỏ trong việc khoét sâu thêm sự phân chia giai cấp, xây dựng một cấu trúc xã hội mang tính chất giai cấp và đẳng cấp rõ rệt. Những chính sách giáo dục phân biệt, bất bình đẳng trong xã hội phong kiến đã duy trì vị trí đối kháng giữa các đẳng cấp và giai tầng xã hội. Giáo dục xã hội chủ nghĩa góp phần làm cho cấu trúc xã hội trở nên thuần nhất hơn bằng cách xoá bỏ sự phân chia giai cấp và làm cho các tầng lớp xích lại gần nhau. Nền Giáo dục xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền giáo dục “của dân, do dân, vì dân”, nền giáo dục bình đẳng cho tất cả mọi người, giáo dục góp phần nâng cao trình độ học vấn chung đã làm cho các tầng lớp xã hội được xích lại gần nhau. Nhờ đó, trong xã hội ta các tầng lớp xã hội tuy khác nhau về lợi ích xã hội, về tính chất và trình độ xã hội, về hoạt động và phát triển xã hội, song cùng đoàn kết, hợp tác đấu tranh xây dựng xã hội nhằm đạt tới mục tiêu chung: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
í Vai trò của giáo dục đối với tư tưởng – văn hóa
Giáo dục có tác dụng to lớn đến việc xây dựng một hệ tư tưởng chi phối toàn xã hội, hình thành ở mỗi cá nhân thế giới quan, tư tưởng chính trị, ý thức, tình cảm và hành vi đạo đức phù hợp với các chuẩn mực xã hội. “Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng” (Điều 3, chương I, Luật giáo dục 2005). Nền giáo dục Việt Nam phải phục vụ mục đích chính trị tốt đẹp và tư tưởng cao quý của Đảng Cộng sản Việt Nam, hướng tới mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước giàu mạnh.
Giáo dục là quá trình truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử – xã hội của các thế hệ, quá trình này giúp cho mỗi cá nhân tích lũy kiến thức, mở mang trí tuệ, hình thành và nâng cao trình độ văn hóa, đạo đức, thẩm mỹ cho mỗi cá nhân và cho toàn xã hội. Một quốc gia giàu mạnh là một quốc gia có nền kinh tế vững mạnh, khoa học công nghệ tiên tiến, chính trị bền vững và trình độ dân trí cao. Giáo dục góp phần xây dựng và nâng cao trình độ dân trí – trình độ văn hóa chung cho toàn xã hội. Nền giáo dục không chỉ hướng vào việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực mà còn hướng vào quá trình phát hiện và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Giáo dục không chỉ thực hiện sứ mệnh lịch sử là chuyển tải nền văn hóa của thế hệ này cho thế hệ kia mà còn là phương thức đặc trưng cơ bản để bảo tồn và phát triển nền văn hóa của dân tộc và nhân loại. Giáo dục bảo tồn, phát triển nền văn hoá dân tộc và nhân loại thông qua các con đường giáo dục, trong đó dạy học là con đường cơ bản nhất. Thông qua các con đường giáo dục học sinh không chỉ biết gìn giữ mà còn có khả năng làm phong phú, sáng tạo thêm những giá trị văn hóa, những loại hình văn hóa đa dạng, đậm đà bản sắc dân tộc…
í Vai trò của giáo dục đối với xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa
Trong những nhân tố tạo nên sức mạnh tổng hợp để đưa đất nước tiến lên, con người là nhân tố quan trọng bậc nhất, là nhân tố quyết định. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa". Chúng ta sẽ tiến lên, sẽ chiến thắng trong cuộc thách thức mới của thời đại, chủ yếu là bằng sức mạnh sáng tạo của con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Bởi vì, đối tượng của sự thách thức chính là con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam, và người đứng ra gánh vác nhiệm vụ phải giành thắng lợi trong cuộc thách thức ấy cũng không phải là ai khác, mà chính là con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Con người luôn đứng ở trung tâm của mọi quá trình lịch sử, trên đất nước ta đã như vậy, ở các nước khác trên thế giới và trong toàn bộ lịch sử loài người cũng như vậy.
Con người Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã sáng tạo ra lịch sử của dân tộc, làm nên những sự tích phi thường, xây dựng nên truyền thống vẻ vang trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Con người ấy sớm có tinh thần độc lập tự chủ, lòng yêu nước nồng nàn, chí khí đấu tranh bất khuất, dũng cảm và thông minh trong chiến đấu, cần cù và sáng tạo trong lao động. Vì vậy giáo dục có vai trò hết sức quan trọng trong xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.
Thời đại ngày nay đòi hỏi con người Việt Nam mới phải là con người vừa cách mạng vừa khoa học, vừa có tinh thần làm chủ, vừa có năng lực làm chủ. Con người ấy kế thừa và không ngừng nâng cao những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và của Đảng, phải thường xuyên đổi mới kiến thức văn hoá, nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ, có thể lực mạnh khoẻ, tâm hồn trong sáng, trí tuệ và tài năng ngày càng được phát huy, có tầm hiểu biết rộng lớn về chính trị, tư tưởng, về kinh tế và xã hội. Muốn được như vậy thì phải thông qua hoạt động giáo dục.
"Giáo dục toàn diện", "giáo dục thường xuyên", "giáo dục liên tục". Giáo dục trong nhà trường, trong gia đình, trong xã hội, trong các cơ sở sản xuất, trong lực lượng vũ trang, trong các đoàn thể quần chúng. Nội dung của cuộc cách mạng giáo dục phải kết hợp chặt chẽ khoa học - kỹ thuật với lao động sản xuất; "kết hợp lao động sản xuất của tất cả mọi người với việc giáo dục cho tất cả mọi người" . Làm cho con người mới Việt Nam, từ giai cấp công nhân, nông dân lao động, trí thức xã hội chủ nghĩa, mọi công dân thuộc các tầng lớp, các dân tộc đều trở thành những con người mới, vừa cách mạng, vừa khoa học. Với trình độ khác nhau và ngày càng được nâng cao, mọi người đều tiếp cận với những kiến thức về văn hoá và khoa học, những tri thức về kỹ thuật và công nghệ mà xã hội cần đến trong những năm trước mắt, đồng thời có được những dự trữ về kiến thức văn hoá và khoa học cao hơn, trình độ kỹ thuật và công nghệ hiện đại hơn, đáp ứng yêu cầu sau này của sự nghiệp công nghiệp hoá nước nhà.
Giáo dục quyết định đến sự biến đổi tư tưởng, tâm lý và nâng cao trình độ nhận thức của con người. Giáo dục trở thành điều kiện tiền đề cho việc hình thành và phát triển bản chất con người. Nó là vũ khí rất sắc bén để giúp chúng ta cải tạo con người. Thông qua hoạt động thực tiễn của con người, giáo dục có vai trò quan trọng tác động vào các hoạt động kinh tế văn hoá và quan hệ xã hội. Vai trò của giáo dục là cung cấp nguồn nhân lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội. Khi điều kiện vật chất được nâng cao tất yếu sẽ tạo cơ sở cho nền giáo dục phát triển. Giáo dục không phát triển thì không đủ cán bộ giúp cho kinh tế phát triển. Hai việc đó liên quan mật thiết với nhau. Trong thực tiễn xây dựng nền kinh tế, văn hoá, xã hội ở nước ta cho thấy nếu không phát triển, mở mang giáo dục để đào tạo ra đội ngũ những người lao động, những cán bộ có đủ năng lực, chuyên môn và phẩm chất đạo đức chính trị thì sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước sẽ không đạt kết quả cao. Do vậy, giáo dục được xem là một mặt trận quan trọng trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
í Vai trò của giáo dục đối với xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng giáo dục phải phục vụ sự nghiệp xây dựng quân đội, mục đích của giáo dục phải phục vụ mục đích quân sự. Người nói: “Học chính cương, chính sách rồi thì phải thực hiện. Nếu thuộc lầu mà không biết đánh giặc thì vô dụng”. Người luôn nhắc nhở rằng, giáo dục phải luôn bám sát nhiệm vụ chiến đấu và công tavs của các quân nhân. Phải thông qua các trận đánh, các chiến dịch mà rút ra kinh nghiệm và rèn các chỉnh quân cho kịp thời.
Xác định giáo dục phục vụ quân sự có ý nghĩa định hướng cho mọi hoạt động giáo dục, từ khâu xác định mục tiêu, lựa chọn nội dung, phương pháp,phuong tiện và hình thức tổ chức giáo dục.
Trước hết giáo dục phải đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của quân đội và của người học sau khi ra trường. Nghĩa là dạy và học những cái gì thiết thực cho hoạt động quân sự. Giáo dục phục vụ quân sự cũng có nghĩa là giáo dục phải hướng vào xây dựng quân đội vững mạnh về mọi mặt. Người nói: “Quân đội mạnh nhờ có giáo dục khéo, chính sách đúng và kỷ luật nghiêm”. Trong các nhân tố tạo nên sức mạnh của quân đội, giáo dục được Người đặt lên vị trí hàng đầu.
Hoạt động quân sự là hoạt động dặc biệt. Đòi hỏi các quân nhân phải có trình độ giác ngộ cao về mục tiêu lý tưởng chiến đấu, có hiểu biết tinh thông và ứng dụng thành thạo các loại vũ khí, kỹ thuật, chiến thuật, có sức khỏe bền bỉ dẻo dai và mạnh mẽ. Tất cả những điều đó chỉ có thể đạt được bằng giáo dục, thông qua giáo dục. Như vậy giáo dục xây dựng quân đội là đi vào xây dựng nhân tố con người và xét đến cùng đó là nhân tố quyết định tất cả.
Tóm lại, thông qua các chức năng xã hội, giáo dục đã góp phần vào sự phát triển của xã hội, đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao về sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ xã hội, ý thức xã hội… Đặc biệt, trong thời đại ngày nay, giáo dục được quan niệm không chỉ là một bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng, mà nó còn là một bộ phận thuộc hạ tầng cơ sở, “Giáo dục không chỉ là sự phản ánh đơn thuần các lực lượng kinh tế và xã hội đang họat động trong một xã hội. Nó còn là một phương tiện quan trọng để cấu thành các lực lượng kinh tế - xã hội và văn hóa và quyết định chiều hướng phát triển của các lực lượng này. Đến lượt mình động lực của các lực lượng này lại tác động đến đặc điểm của giáo dục. Do vậy, có một mối quan hệ vòng tròn trong mối quan hệ qua lại giữa giáo dục và một lọat các nhân tố xã hội và con người khác”. (Raja Roy Singh). Thế giới coi giáo dục là động lực cơ bản, là đòn bẩy mạnh mẽ, là điều kiện tiên quyết thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định phát triển giáo dục là “quốc sách hàng đầu” và “ đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển bền vững nhất”. Điều đó rất trúng với xu thế phát triển của thời đại và đã được thể chế hóa bước đầu thành pháp luật và các chủ trương, chính sách. Nhờ vậy, sự đầu tư cho giáo dục ngày càng tăng.
Nhân loại đã đi vào thế kỷ mới với những điều lo âu và những niềm hy vọng. Ở mọi quốc gia dù là quốc gia phát triển hay đang phát triển, giáo dục luôn được ở vị trí tiêu điểm của sự phát triển. Nó là chìa khoá để đất nước phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá, khoa học, chính trị hài hoà đồng bộ cân đối với nhau. Thông điệp mà Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (tiếng Anh: United Nations Educational Scientific and Cultural Organization, viết tắt UNESCO) gửi đến cho toàn nhân loại là: Học để nhận thức (con người có tri thức chuyên sâu, có trình độ học vấn và trình độ văn hoá cao, có khả năng cống hiến), Học để hành động (biết tạo ra những sản phẩm vật chất và tinh thần có chất lượng cao cho xã hội, sự năng động sáng tạo trong công việc), Học để biết tồn tại (để có khả năng thích nghi với nhịp điệu của xã hội hiện đại trong môi trường sống rộng mở phức tạp, đa chiều. Nhất là trong xu thế hội nhập hiện nay), Học để biết cách chung sống với mọi người (có kiến thức về bản sắc riêng của từng dân tộc, am hiểu văn hoá thế giới, đáp ứng xu thế quốc tế toàn cầu hoá. Con người chung sống trong đối thoại hoà bình) – cũng là mục tiêu của giáo dục Việt Nam nhằm đào tạo những con người phát triển toàn diện.
Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, cùng với việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng khẳng định: “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Bởi vì công nghiệp hóa, hiện đại hóa không chỉ là công cuộc xây dựng kinh tế mà phải xây dựng, phát triển trên tất cả lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa… Do đó cần phải có nguồn nhân lực đủ về số lượng, mạnh về chất lượng. Muốn có nguồn nhân lực đó nhất thiết phải chú trọng phát triển giáo dục - đào tạo vì giáo dục - đào tạo trực tiếp giúp con người nâng cao trí tuệ, hiểu biết và khả năng vận dụng tri thức khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nên giáo dục - đào tạo trở thành mối quan tâm hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân ta.
Phải có đầu tư cho giáo dục đào tạo là đầu tư phát triển phải tạo điều kiện cho giáo dục đi trước để phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội.
Thực trạng nền giáo dục nước ta hiện nay
Trong thời gian qua giáo dục Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực:
- Hệ thống giáo dục quốc dân được hoàn thiện hơn với các cấp, bậc học, trình độ đào tạo, các loại hình và phương thức giáo dục. Quy mô giáo dục tăng nhanh, nhất là ở bậc đại học và đào tạo nghề.
- Công bằng xã hội trong giáo dục được cải thiện, đặc biệt là tăng cơ hội tiếp cận giáo dục đối với trẻ em gái, người dân tộc thiểu số và con em các gia đình nghèo, các đối tượng bị thiệt thòi trong xã hội; giáo dục ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa tiếp tục phát triển.
- Các loại hình nhà trường ngày càng được đa dạng hóa, thu hút được nhiều người học; các trường công lập đã giữ được vai trò nòng cốt trong phổ cập giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực, quy mô giáo dục ngoài công lập phát triển.
- Ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục tăng nhanh. Việc huy động nguồn lực trong xã hội đầu tư cho giáo dục thông qua chủ trương xã hội hoá đạt hiệu quả khá. Các nguồn lực đầu tư cho giáo dục ngày càng được kiểm soát và tăng dần hiệu quả sử dụng.
- Việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa phổ thông, chương trình và giáo trình ở dạy nghề và đại học đang được tích cực thực hiện, phương pháp dạy học dần từng bước được cải thiện, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng, đã có những đóng góp quan trọng cho sự nghiệp giáo dục.
Có được những kết quả trên trong hoàn cảnh đất nước còn nhiều khó khăn là do sự nỗ lực không ngừng của toàn Ðảng, toàn dân ta, sự đóng góp to lớn của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Những thành tựu nói trên đã khẳng định vai trò quan trọng của giáo dục trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế-xã hội, giữ vững an ninh chính trị của đất nước trong hơn 20 năm đổi mới, tạo điều kiện cho đất nước tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển của đất nước giáo dục Việt Nam vẫn còn nhiều yếu kém. Mặc dù được tăng đầu tư tài chính nhưng hiệu quả sử dụng chưa cao; công tác tổ chức, cán bộ, chế độ, chính sách chậm đổi mới. Chất lượng giáo dục còn thấp so với nhu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ hội nhập, không đồng đều giữa các vùng, miền; quan tâm đến phát triển số lượng nhiều hơn chất lượng. Việc thẩm định cho phép thành lập mới các trường cao đẳng, đại học chưa thật chặt chẽ, dẫn đến chất lượng đào tạo thấp, nhất là ở các trường ngoài công lập và các trường của địa phương. Hệ thống giáo dục thiếu đồng bộ, chưa liên thông giữa các cấp học, ngành học và trình độ đào tạo; mất cân đối về cơ cấu đào tạo theo vùng, miền, cơ cấu trình độ và ngành nghề đào tạo. Việc giáo dục tư tưởng đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên chưa đáp ứng mong muốn của các gia đình và đòi hỏi của sự phát triển đất nước.
Chương trình, giáo trình, phương pháp giáo dục chậm đổi mới, chưa chú trọng phát huy tính sáng tạo, năng lực thực hành của học sinh, sinh viên; áp lực thi cử còn nặng.
Công tác quản lý giáo dục còn nhiều yếu kém, cơ chế quản lý giáo dục chậm đổi mới, chưa theo kịp sự đổi mới của đất nước. Hệ thống luật pháp và các chính sách về giáo dục chưa hoàn chỉnh. Việc chia cắt các nhiệm vụ quản lý nhà nước về giáo dục giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo với các bộ ngành khác đã làm cho công tác quản lý nhà nước đối với hệ thống giáo dục còn chồng chéo, phân tán, thiếu thống nhất.
Những hạn chế nêu trên là do thiếu sự chỉ đạo chặt chẽ, thường xuyên của các cấp quản lý, chậm cụ thể hóa những quan điểm của Ðảng thành cơ chế, chính sách của Nhà nước; thiếu những quyết sách đồng bộ, hợp lý ở tầm vĩ mô. Tư duy giáo dục chưa theo kịp yêu cầu đổi mới, phát triển đất nước, trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Những tác động mặt trái của cơ chế thị trường và những khó khăn của đất nước đã ảnh hưởng nhiều đến sự nghiệp phát triển giáo dục. Tâm lý khoa cử, bằng cấp vẫn chi phối nặng nề việc học và thi cử. Chậm đổi mới cơ chế, chính sách tài chính giáo dục để động viên hợp lý các nguồn lực xã hội phát triển giáo dục và sử dụng các nguồn lực cho giáo dục hiệu quả cao.
Một số kiến nghị, đề nghị góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
Một là: Đổi mới mạnh mẽ quản lý nhà nước đối với giáo dục và đào tạo. Đổi mới căn bản chính sách sử dụng cán bộ theo hướng coi trọng phẩm chất và năng lực thực tế.
Hai là: Đổi mới mạnh mẽ phương pháp và nội dung đào tạo của các trường và khoa sư phạm; đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục ở tất cả các cấp học, bậc học đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ.
Ba là: phát triển năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, làm cho thế hệ trẻ có đủ khả năng và bản lĩnh thích ứng với những biến đổi nhanh chóng của thế giới. Bồi dưỡng cho thanh thiếu niên lòng yêu nước nồng nàn, tự hào, tự tôn dân tộc và khát vọng mãnh liệt về xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Bốn là: phát triển quy mô hợp lý cả giáo dục đại trà và mũi nhọn, xây dựng xã hội học tập, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người có thể học tập suốt đời; rà soát và bổ sung cơ chế, chính sách, tổ chức phát hiện, bồi dưỡng nhân tài ngay từ bậc học phổ thông. Tăng nhanh quy mô đào tạo công nhân và cán bộ kỹ thuật lành nghề ở lĩnh vực công nghệ cao, tiếp cận trình độ tiên tiến th
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_duc_va_dao_tao_la_mot_van_de_het_suc_quan_trong_trong_doi_song_chinh_tri_cua_moi_nuoc_3837.doc