Tiểu luận Các công cụ phổ biến lưu thông trên thị trường tài chính Việt Nam

Mục lục

Lời nói đầu .3

Chương I:các công cụ lưu thông trên thị trường tiền tệ 4

1. Tín phiếu kho bạc .4

2. Kỳ phiếu thương mại 7

3. Hợp đồng mua lại .12

Chương II: Các công cụ lưu thông trên thị trường vốn .15

I .Khái niệm .15

II.Các công cụ chủ yếu lưu thông tại Viện Nam hiện nay . .15

1. Trái phiếu . 16

2. Cổ Phiếu . . . 22

3. Các khoản vay thế chấp . 25

4. Các khoản vay thương mại và tiêu dùng . .28

Kết luận .32

 

 

 

 

doc32 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5776 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Các công cụ phổ biến lưu thông trên thị trường tài chính Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đến thương phiếu được an toàn và thuận lợi. Mặc dù Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh thương phiếu có hiệu lực thi hành từ ngày 1.7.2000 và Chính Phủ đã ban hành nghị định 32/2001/NĐ -CP ngày 5.7.2001 hướng dẫn thi hành pháp lệnh trên nhưng vẫn còn nhiều bất cập như chưa rõ ràng, thiếu cụ thể, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế…  Giải pháp thứ hai, tổ chức tuyên truyền, phổ biến, thảo luận về thương phiếu và ích lợi của thương phiếu đến các doanh nghiệp, là những chủ thể chủ yếu trong quan hệ thương phiếu.  Giải pháp thứ ba, nâng cao hiệu lực hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) dể có thể cung cấp chính xác và kịp thời năng lực chi trả, uy tín của các doanh nghiệp có nghĩa vụ thanh toán thương phiếu, đảm bảo quyền lợi của người thụ hưởng.  Giải pháp thứ tư, trong thời gian đầu Nhà nước cần có những ưu đãi hợp lý cho các doanh nghiệp cũng như các Tổ chức tín dụng có tham gia vào quan hệ thương phiếu.  Và cuối cùng, Ngân hàng Nhà nước phải gấp rút ban hành các thông tư hướng dẫn để các ngân hàng có thể mạnh dạn thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến thương phiếu như bảo lãnh, chiết khấu và cầm cố thương phiếu. ngân hàng Nhà nước cũng phải nhanh chóng ban hành mẫu biểu cho thương phiếu, ban hành Luật về các công cụ chuyển nhượng…   Trên đây chỉ là một số giải pháp cơ bản được đưa ra, tuy nhiên, nếu thực hiện được, thì việc đưa thương phiếu vào đời sống kinh tế ở Việt Nam chắc chắn sẽ trở thành hiện thực 3. Hợp đồng mua lại a.. Khái niệm Hợp đồng mua lại (repurchase agreement hay repo hay Sale and Repurchase Agreement) cho phép người đi vay sử dụng một số chứng khoán tài chính như vật thế chấp cho 1 khoản vay tiền mặt với 1 mức lãi suất nhất định. Trong một hợp đồng mua lại, người đi vay thoả thuận sẽ bán cho người cho vay một số chứng khoán và kèm theo điều khoản mua lại số chứng khoán trên sau 1 khoảng thời gian nhất định(thường không quá 2 tuần) tại một mức giá cố định (cao hơn mức giá bán đi) . Một hợp đồng mua lại tương đương với một sự chuyển giao tiền mặt cộng với 1 hợp đồng kỳ hạn (forward contract).Kết quả của việc chuyển giao này la việc tiền mặt được chuyển đến người đi vay và việc chuyển chứng khoán hợp pháp đến người cho vay trong khi hợp đồng kỳ hạn đảm bảo việc hoàn trả khoản vay tới người cho vay và trả lại tái sản thế chấp cho người đi vay(là sốchứng khoán đã bán đi). Điểm khác biệt giữa giá giao sau (forward price) và giá chi trả ngay lập tức (spot price) là lãi suất của khoản vay, trong khi ngày chi trả của hợp đồng kỳ hạn chính là ngày đáo hạn của khoản vay. b. Cấu trúc và thuật ngữ Về phương diện kinh tế, một hợp đồng mua lại tương tự như một khoản vay được bảo đảm, với việc người mua nhận được một số chứng khoán như vật thế chấp khi người đi vay không có khả năng thanh toán khoản nợ. Trong hợp đồng mua lại hầu hết các loại chứng khoán đều có thể dùng làm vật thế chấp chẳng hạn như tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty, cổ phiếu (là những khoản vay không có thế chấp).Tuy nhiên, quyền sở hữu lại chuyển trực tiếp từ người bán đến người mua (nhà đầu tư).Cu-pon (khoản tiền thanh toán định kỳ trả cho người chủ sở hữu của chứng khoán) vẫn được trả trực tiếp cho người bán. Điều này có lẽ ngược so với trực giác thông thường khi quyền sở hữu chứng khoán thuộc về người mua trong suốt thời gian của thoả thuận.Để thay cho việc cupon chuyển đến người bán thì 2 bên có thể thoả thuận về khoản tiền thanh toán khi kết thuc hợp đồng khi đó cupon có thể được chuyển đến người mua. Mặc dù bản chất bên trong của việc chuyển giao chứng khoán này chính là một khoản vay nhưng repo vẫn khác biệt so với khoản vay thông thường bởi vì người bán sẽ thực sự mua lại quyền sỡ hữu hợp pháp của số chứng khoán đó sau khi kết thúc hợp đồng. Vì vậy mặc dù tác dụng của toàn bộ việc chuyển giao này giống hệt như của 1 khoản vay tiền mặt thế nhưng điều được chú trọng ở đây chính là việc chuyển quyền sở hữu hợp pháp hiện thời của chứng khoán thế chấp bởi các bên tương ứng (thông qua việc sử dụng thuật ngữ “mua lại”) Phân biệt giữa hợp đồng mua lại (Repo) và hợp đồng mua lại đảo ngược (Reverse repo) Repo Reverse repo Người tham gia Người đi vay Người bán Người nhận tiền Người cho vay Người mua Người cung tiền Giai đoạn đầu Bán chứng khoán Mua chứng khoán Giai đoạn sau Mua chứng khoán Bán chứng khoán (Trong hợp đồng mua lại đảo ngược, người cho vay sẽ đề nghị mua một số chứng khoán với 1 mức giá cho trước và có thoả thuận bán lại số chứng khoán đó với mức giá cao hơn ) c. Các loại hợp đồng mua lại Có 3 loại thời gian đáo hạn của hợp đồng mua lại : qua đêm, theo định kỳ và đáo hạn mở. Đáo hạn qua đêm có thời gian đáo hạn của việc chuyển giao là 1 ngày. Đáo hạn theo định kỳ ứng với hợp đồng mua lại có ngày đáo hạn nhất định được định sẵn . Đáo hạn mở không có ngày kết thúc hợp đồng. Mặc dù hợp đồng đáo hạn thông thường là trong ngắn hạn (thường không quá 2 tuần), nhưng cũng có những hợp đồng đáo hạn với thời hạn khoảng 2 năm. Việc giao dịch hợp đồng đáo hạn thường xảy ra dưới các dạng sau: cung ứng trên danh nghĩa, hợp đồng đáo hạn qua đêm và hợp đồng đáo hạn được uỷ thác trong đó loại thứ 3 khá ít thấy trong những thị trường đang phát triển vì rủi ro cao. Các +) 1 Hợp đồng mua lại được giám hộ (Due bills, held in custody bills) Trong hợp đồng mua lại được uỷ thác, vật thế chấp được cầm cố bởi người mua không trực tiếp được chuyển giao tới người cho vay mà được chuyển vào một tài khoản nội bộ (held in custody) bởi người đi vay dành cho người cho vay trong suốt quá trình của hợp đồng. Tuy nhiên khi thị trường càng phát triển thì hình thức này ngày càng ít trở nên phổ biến +) Hợp đồng mua lại có sự tham gia của bên thứ 3 ( Tri-party Repo) Đặc trưng của hợp đồng mua lại có sự tham gia của bên thứ 3 đó chính là có sự tham gia của 1 ngân hàng hoặc tổ chức quốc tế đóng vai trò là người giám hộ, như một trung gian giữa 2 bên của hợp đồng (bên bán và bên mua). Trách nhiệm của bên thứ 3 là quản lý việc chuyển giao bao gồm việc phân phối tài sản thế chấp, đưa ra thị trường và thay thế vật thế chấp. +) Hợp đồng mua lại toàn bộ khoản vay Hợp đồng mua lại toàn bộ khoản vay là loại hợp đồng mua lại mà sự chuyển giao được thế chấp bằng 1 khoản vay hoặc 1 nghĩa vụ khác (như văn tự cầm cố) hơn là dùng chứng khoán để thế chấp +) Hợp đồng mua lại vốn Chứng khoán được ưu tiên sử dụng trong việc thực hiện hợp đồng mua lại hầu hết là ở dạng trái phiếu chính phủ hoặc trái phiếu công ty (hoặc tín phiếu Kho bạc). Hợp đồng mua lại vốn là hợp đồng mua lại dựa trên vật thế chấp là chứng khoán vốn như các cổ phiếu phổ thông. Điều này có thể dẫn đến 1 số rắc rối do sự phức tạp trong các điều khoản thuế đối với cổ tức cũng như đối với cupon. Tín phiếu kho bạc, thương phiếu và hợp đồng mua lài là 3 công cụ lưu thông rất phổ biến trên thị trường tiền tệ . Nhờ các công cụ này mà việc lưư chuyển vốn từ người thừa vốn sang người thiếu vốn được thực hiện dễ dàng nhanh chóng hơn và có độ rủi ro thấp cùng tính thanh khoản cao. Chương II Các công cụ lưu thông trên thị trường vốn I.Khái niệm Công cụ thị trường vốn là công cụ nợ và cổ phần với kỳ hạn thanh toán trên 1 năm. Chúng có dao động giá rộng hơn nhiều so với công cụ thị trường tiền tệ và được coi là những đầu tư thực sự có rủi ro nhưng mức sinh lời cao hơn vì chứng khoán dài hạn thường đem lại lợi tức lớn.Nhìn chung, các công cụ trên thị trường vốn giờ đây đã trở lên khá phổ biến trên trị trường Việt Nam, các công cụ được sử khá linh hoạt phù hợp với tình hình phát triển của thị trường.Các công cụ trên thị trường dụng này đã phát triển rõ nét trở thành một kênh huy động vốn không thể thiếu trong nền kinh tế cũng như là một giải pháp để chính phủ cân bằng ngân sách của mình. II. Các công cụ phổ biến lưu thông trên thị trường vốn ở Việt Nam hiện nay Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu một số loại công cụ lưu thông trên thị trường vốn phổ biến ở Việt Nam hiện nay: 1.Trái phiếu Nền kinh tế Việt Nam trong thời gian vừa qua đã đạt được tốc độ tăng trưởng GDP bình quân trên 8%/năm. Để đạt được tốc độ tăng trưởng như vậy, thì yếu tố nguồn vốn phục vụ cho việc phát triển kinh tế chiếm giữ vai trò quan trọng. Việc huy động nguồn vốn trong và ngoài nước của Việt Nam đã đạt được kết quả hết sức khả quan. Nếu như nguồn vốn trong nước, gồm nguồn vốn huy động từ dân cư, cá tổ chức kinh tế,... giữ vai trò chủ đạo thì nguồn vốn nước ngoài, gồm vốn FDI, ODA, FPI,... là động lực và cơ sở để thay đổi công nghệ. Điều này thể hiện chính sách, thể chế, luật pháp của Đảng và Nhà nước ta đã có những đổi mới kịp thời nhằm phù hợp hơn với xu thế quốc tế hóa. Tuy nhiên, việc huy động vốn trong nước cũng chưa thật sự phát triển mạnh, đặc biệt là nguồn vốn dài hạn. Do đó, để đẩy nhanh việc huy động nguồn huy động dài hạn thì việc phát triển thị trường vốn trong thời gian sắp tới là rất cần thiết. Đặc biệt là phát triển thị trường chứng khoán, đây là kênh dẫn vốn quan trọng để phát triển nhanh nền kinh tế đất nước. Vừa qua, thị trường chứng khoán đã có những bước phát triển đáng kể cả về quy mô và chất lượng hàng hóa trên thị trường. Tuy nhiên, hiện nay chỉ tập trung phát triển thị trường cổ phiếu mà chưa đặc biệt quan tâm đến việc phát triển thị trường trái phiếu. Do vậy, thị trường trái phiếu là thị trường hết sức tiềm năng, cần có cơ chế, chính sách để đẩy mạnh phát triển thị trường này trong tương lai. a.Định nghĩa Trái phiếu là một chứng thư xác nhận nghĩa vụ trả những khoản lãi theo định kỳ và vốn gốc đến hạn của tổ chức phát hành.Nó có bản chất là một công cụ nợ, phản ánh mối quan hệ vay mượn giữa người đi vay là nhà phát hành và người cho vay là các nhà đầu tư. Các đặc tính kỹ thuật của trái phiếu cần lưu ý khi giao dịch là: 1.Thời hạn của trái phiếu (ngày phát hành, ngày đáo hạn) 2. Mức lãi được trả (coupon) 3. Kỳ trả lãi (nửa năm hay một năm, hay một lần duy nhất) 4. Địa điểm và loại mệnh giá phát hành 5. Có được niêm yết và chuyển nhượng dễ dàng hay không (tính thanh khoản) b. Các phương thức phát hành trái phiếu VN hiện nay - Phát hành thông qua hình thức bảo lãnh phát hành: bao gồm các hình thức bảo lãnh từng phần, đồng bảo lãnh, tổ hợp bảo lãnh và bảo lãnh toàn bộ. - Phát hành thông qua Đại lý phát hành. - Phát hành thông qua phương thức đấu thầu: Đấu thầu cạnh tranh lãi suất và không cạnh tranh lãi suất. Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi phát hành trái phiếu ra thị trường chứng khoán, phân phối trái phiếu cho các nhà đầu tư, nhận mua trái phiếu để bán lại hoặc mua số trái phiếu còn lại chưa phân phối hết. Đại lý phát hành là việc tổ chức phát hành uỷ thác cho các tổ chức khác thực hiện bán trái phiếu cho các nhà đầu tư. Trường hợp không bán hết, tổ chức đại lý phát hành được trả lại số trái phiếu còn lại cho tổ chức phát hành. Tổ hợp bảo lãnh phát hành là nhóm các tổ chức bảo lãnh phát hành có từ hai tổ chức trở lên cùng tham gia bảo lãnh phát hành trái phiếu trên cơ sở hợp đồng giữa các tổ chức bảo lãnh phát hành. Tổ chức bảo lãnh phát hành chính là tổ chức đại diện về quyền lợi và nghĩa vụ cho tổ hợp bảo lãnh trong hoạt động bảo lãnh phát hành trái phiếu với tổ chức phát hành. Đồng bảo lãnh phát hành chính là các tổ chức bảo lãnh phát hành chính đồng đại diện về quyền lợi và nghĩa vụ cho tổ hợp bảo lãnh trong hoạt động bảo lãnh phát hành trái phiếu với tổ chức phát hành. Đồng bảo lãnh là các tổ chức bảo lãnh phát hành trong tổ hợp bảo lãnh phát hành có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau trong hoạt động bảo lãnh phát hành trái phiếu với tổ chức phát hành. c.Các loại trái phiếu thông thường -Trái phiếu chính phủ: - Trái phiếu chính phủ, trái phiếu kho bạc Nhà nước: Hàng hoá giao dịch trên thị trường trái phiếu chủ yếu là Trái phiếu Chính phủ nên chưa tạo được sức hấp dẫn cho nhà đầu tư. Trong khi thị trường CP có nhiều phát triển vượt bậc thì thị trường TP đang "bò đi" từng bước. Nhiều đợt đấu giá TP CP gần đây mặc dù khối lượng đăng ký đấu thầu tương đối cao, bình quân gấp 3 lần khối lượng gọi thầu, nhưng tỉ lệ thành công lại có xu hướng giảm dần. Gần đây nhất là chính phủ đã thất bại việc chào bán 1 tỷ USD trái phiếu khi chào bán lần 2 ra công chúng. Nguyên nhân chủ yếu do việc đưa ra  mức lãi suất trần thấp,như với lần thất bại trên là do trái phiếu kỳ hạn 3 năm chính phủ chỉ trải lãi là 9% trong khi nhà đầu tư yêu cầu 9,5% còn kỳ hạn 5 năm là 9,1% trong khi đó họ yêu cầu là 10%.Cùng với sự ra đời của hai trung tâm giao dịch chứng khoán là tại Tp.HCM và Hà Nội, các trái phiếu chính phủ phát hành bằng đồng nội tệ cũng bắt đầu được giao dịch một cách rộng rãi hơn so với trước đây nhưng vẫn chưa tạo được sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư có tổ chức, do đó, khối lượng giao dịch rất ít.Điều này có thể bắt nguồn từ quy mô của thị trường, cơ sở vừa yếu vừa thiếu của hạ tầng thanh toán trong hệ thống tài chính Việt Nam. Cụ thể bao gồm một số điểm sau:Trước hết, quy mô của trái phiếu nói chung và trái phiếu chính phủ nói riêng hiện chiếm tỉ lệ rất thấp trong tổng tài sản tài chính cả nước với chỉ bằng 8% so với GDP, con số này khoảng 5 tỷ USD rất nhỏ bé nếu so với mức đủ để đạt tính thanh khoản 100-200 tỷ USD.Huy động vốn thông qua loại hình trái phiếu hiện chưa phải là kênh phổ biến mà chủ yếu là thông qua hệ thống ngân hàng với tổng tài sản chiếm đến 80% cơ cấu tài sản tài chính. Điều này tạo sự bất cân xứng trong kỳ hạn huy động vốn và cho vay của hệ thống ngân hàng, thiếu một kênh huy động vốn dài hạn để phục vụ cho các mục tiêu phát triển lâu dài. Cả hai yếu tố này đều góp phần làm tăng chi phí vốn cho nền kinh tế. Mặt khác, lượng trái phiếu phát hành bằng đồng nội tệ hiện chủ yếu được giao dịch hoặc nắm giữ bởi các ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính tương đương cũng làm cản trở sự phát triển của thị trường trải phiếu. Điều này tạo sự đơn điệu trong danh mục đầu tư, dẫn đến giá trái phiếu có mức biến động đáng kể khi các nhà đầu tư này thực hiện bán ra hoặc mua vào. Khối lượng phát hành mỗi đợt tương đối nhỏ chỉ khoảng 20 - 30 triệu USD/đợt khó thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư có tổ chức và vì vậy cũng làm giảm sức hấp dẫn của trái phiếu chính phủ. Thể chế pháp luật còn thiếu các qui định cần thiết nên hạn chế sử dụng các công cụ bảo hiểm rủi ro như hoán đổi lãi suất, mua bán kỳ hạn hay tái mua lại nhằm giúp nhà đầu tư có thể bảo vệ rủi ro cho mình. Hệ thống thanh toán chưa có sự liên thông giữa các thị trường trong khu vực, dẫn đến nhà đầu tư gặp khó khăn khi giao dịch xuyên biên giới và điều này cũng làm cho nhà đầu tư không mặn mà mấy với loại hình chứng khoán này. Tuy vậy, những đợt phát hành vừa qua cho thấy nhu cầu của nhà đầu tư đang rất quan tâm đến thị trường trái phiếu chính phủ phát hành bằng đồng nội tệ, khối lượng đặt mua thường từ 2000 - 3000 tỷ VND, gấp 4 - 5 lần mức phát hành. Rất may là xu hướng này đang dần được khắc phục (với lãi suất trái phiếu phát hành đang giảm dần trong những đợt gần đây. Điều này có thể thấy rõ qua định mức tín nhiệm quốc gia được các tổ chức trên thế giới nâng lên cao hơn so với trước. Tính đến này,đã có hàng trăm nghìn tỉ đồng trái phiếu được niêm yết giao dịch trên Sở GDCK TPHCM (HOSE) và Trung tâm GDCK Hà Nội (HASTC), tăng gấp nhiều lần so với giá trị niêm yết năm 2000. Bên cạnh trái phiếu Chính phủ niêm yết với tỷ trọng trên 90% tổng giá trị trái phiếu niêm yết còn có trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu của các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, mức vốn hóa thị trường trái phiếu hiện nay khoảng 8% GDP là khá thấp nếu như so sánh với thị trường trái phiếu của các nước trong khu vực (bình quân khoảng 50-70%, trừ Nhật Bản trên 100% GDP ). Điều đó có nghĩa là kênh huy động vốn của Chính phủ thông qua thị trường trái phiếu để đáp ứng nhu cầu đầu tư của ngân sách còn hạn chế và vì vậy cần có sự đầu tư thích đáng hơn cho thị trường này. Trên thị trường trái phiếu Chính phủ hiện nay, được chào đón và thu hút nhiều nhất các nhà đầu tư là trái phiếu phát hành bằng ngoại tệ trên thị trường quốc tế.VN đã tăng gấp rưỡi lượng trái phiếu phát hành, lên 750 triệu USD trị giá trái phiếu thay vì 500 triệu USD như dự tính ban đầu được giao dịch ở thị trường này. Lãi suất trái phiếu Chính phủ trong đợt phát hành này đã được điều chỉnh giảm xuống mức 7,125%, thay cho mức dự tính ban đầu là 7,250%. Lãi suất này cao hơn so với Trái phiếu kho bạc Mỹ là 4,561%/trái phiếu 10 năm.Đây là bước đầu tiên giúp VN bước chân vào thị trường tài chính quốc tế. Điều đáng mừng là cầu trái phiếu này cao hơn mong đợi rất nhiều. Các nhà đầu tư quốc tế đã đưa ra các đề nghị đặt mua với tổng số lên tới 4,5 tỷ USD, cao gấp 6 lần trị giá chào, để dành quyền mua số trái phiếu nói trên.Theo thống kê ban đầu của Ngân hàng Credit Suisse First Boston, các nhà đầu tư đặt mua lớn trái phiếu VN chủ yếu đến từ châu Á, châu Âu và tại nước Mỹ. Một nửa trong số đó là các hãng quản lý tài sản. Các ngân hàng và hãng bảo hiểm cũng chiếm phần lớn.Sự đón nhận nhiệt tình đến bất ngờ đó được nhận định là do nhiều nguyên nhân từ chính VN. Thứ nhất, các nhà đầu tư quốc tế tin tưởng vào tương lai sáng sủa của nền kinh tế VN sau khi chứng kiến hơn 10 năm đổi mới vừa qua. Đến nay, hầu như toàn thế giới biết đến công cuộc cải cách đổi mới ở VN. UNDP còn coi VN là một trong những ví dụ thành công nhất về chuyển đổi kinh tế trong lịch sử đương đại, đổi mới làm thay đổi gần như tất cả mọi mặt của cuộc sống kinh tế. Thứ hai, các nhà đầu tư tỏ ra lạc quan với việc VN được coi là nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định thứ hai châu Á, chỉ sau Trung Quốc. Bên cạnh đó, phải kể đến việc sụt giảm lòng tin của nhà đầu tư đối với trái phiếu cùng loại của Indonesia và Phillipines do tình hình kinh tế chính trị các nước này thời gian qua không ổn định lắm.Thứ ba, việc các tổ chức định mức tín nhiệm quốc tế như gần đây liên tiếp nâng mức xếp hạng của VN cũng là một nguyên nhân quan trọng. S&P đã nâng mức tín nhiệm của VN từ BB- lên BB. Moody cũng nâng lên mức Ba3 trong khi một tổ chức định mức tín nhiệm quốc tế nổi tiếng khác là Fitch cũng xếp VN hạng BB-. Số tiền thu được sẽ được bơm thêm vào nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh với tốc độ trung bình từ 7 – 8% của Việt Nam, cùng với việc đầu tư nước ngoài đang tăng nhanh tại đây. - Trái Phiếu chính quyền địa phương: Chủ yếu cho các địa phương huy động vốn phục vụ cho việc xây dựng các công trình cơ sở vật chất hạ tầng tại địa phương của mình, chủ yếu phát hành thông qua công chúng của chính địa phương đó thông qua KBNN. Hiện nay, chỉ có hai địa phương là Hà nội và TP.HCM là thực hiện phát hành trái phiếu chính quyền địa phương thường xuyên, với số lượng lớn nhằm huy động vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi tại địa phương. -Trái Phiếu doanh nghiệp: Sau khi Chính phủ ban hành nghị định 120/CP ngày 17/9/1994 về phát hành cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp nhà nước, thị trường trái phiếu bắt đầu manh nha hình thành. Tuy nhiên, phải đến năm 1996, thị trường trái phiếu doanh nghiệp mới có những bước đột phá mới, khởi đầu bằng việc Công ty Cổ phần Cơ điện lạnh (REE) huy động được 5 triệu USD. Năm 1998, Công ty Cổ phần Công nghệ thông tin EIS huy động được 10 tỷ. Năm 2003, Tổng công ty Dầu khí huy động được 300 tỷ; Tổng công ty Xi măng được 200 tỷ đồng; EVN được 300 tỷ. Việc huy động vốn trên thị trường trái phiếu trong giai đoạn này hầu như chưa phát triển. Các tổ chức phát hành chủ yếu là các tổ chức tín dụng và rất ít các doanh nghiệp phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Năm 2006 đánh dấu một bước ngoặc mới cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam khi Nghị định 52/2006/NĐ-CP chính thức được ban hành. Theo đó, chủ thể phát hành trái phiếu không chỉ là các doanh nghiệp Nhà nước như trước đây mà còn có các công ty TNHH, công ty cổ phần và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với một nguyên tắc chung là các doanh nghiệp phải tự vay, tự trả, tự chịu trách nhiệm và công khai minh bạch thông tin. Trong năm 2006, Công ty Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam (Vinashin) huy động được 800 tỷ đồng, Tập đoàn EVN: 5.000 tỷ đồng. Đến tháng 7/2007, Vinashin phát hành thêm được 3.000 tỷ đồng, Vilexim được 5 tỷ, Tổng công ty thép được 400 tỷ đồng, Vinaconex huy động được 1.000 tỷ đồng. Hiện nay Nhà nước rất ưu ái trong việc phát hành TP DN nên chỉ mất khoảng 6 đến 8 tuần DN có thể hoàn tất hồ sơ phát hành. Tuy nhiên, nếu đi vay NH hay phát hành CP, DN sẽ mất nhiều thời gian hơn cho khâu chuẩn bị và xét duyệt hồ sơ. Phát hành TP cho phép DN huy động được lượng vốn lớn. Nếu DN có nhu cầu trên 1.000 tỉ đồng thì họ có thể tiếp cận nguồn vốn từ phát hành TP dễ dàng hơn so với việc đi vay hay phát hành CP. Tuy nhiên tính đến thời điểm hiện nay, thị trường trái phiếu doanh nghiệp vẫn được đánh giá là hầu như chưa phát triển. Các nhà đầu tư chủ yếu “mua” và “giữ” trái phiếu tới khi đáo hạn. Các dịch vụ liên quan nhằm hỗ trợ thị trường hầu như chưa có. Một số chuẩn mực kế toán quốc tế quan trọng chưa được ban hành. 2. Cổ phiếu Với hàng trăm đợt phát hành cổ phiếu (CP) của các doanh nghiệp trên cả nước trong thời gian qua, gồm cả phát hành lần đầu và phát hành bổ sung, phát hành công khai và phát hành nội bộ (phát hành riêng lẻ), về cơ bản có thể nói, các hoạt động và các phương án phát hành CP của các doanh nghiệp đã diễn ra hợp pháp và mang lại hiệu quả tích cực cho đời sống kinh doanh của doanh nghiệp – tổ chức phát hành nói riêng, cũng như cho toàn bộ nền kinh tế nói chung. Điều này có thể thấy và được minh chứng qua những cải thiện rõ rệt a.Khái niệm Cổ phiếu là những chứng thư hay bút toán ghi sổ xác nhận trái quyền về vốn( quyền được hưởng lợi) đối với thu nhập và tài sản ròng của một công ty cổ phần. Đây có bản chất là một công cụ góp vốn cả chỉ do các công ty cổ phần phát hành. Khi cần huy động vốn, công ty chia cổ phần thành nhiều phần nhỏ bằng nhau, gọi đó là các cổ phần. Người mua cổ phần này được gọi là cổ đông. Với số cổ phần đã mua, các cổ đông được cấp một giấy chứng nhận sở hữu, giấy này được ọi là cổ phiếu. Vốn mà công ty cổ phần cần huy động được từ phát hành cổ phiếu là vốn thuộc sở hữu của công ty, nhưng cổ đông trở thành những người đồng sở hữu công ty, tỷ lệ sở hữu phụ thuộc vào vào số cổ phần họ lắm giữ. b. Tác dụng của việc phát hành Cổ phiếu: Đối với Công ty phát hành: Việc phát hành Cổ phiếu sẽ giúp cho Công ty có thể huy động vốn khi thành lập hoặc để mở rộng kinh doanh. Nguồn vốn huy động này không cấu thành một khoản nợ mà công ty phải có trách nhiệm hoàn trả cũng như áp lực về khả năng cân đối thanh khoản của công ty sẽ giảm rất nhiều, trong khi sử dụng các phương thức khác như phát hành trái phiếu công ty, vay nợ từ các tổ chức tín dụng ...thì hoàn toàn ngược lại. Tuy nhiên, mỗi phương thức huy động đều có những ưu nhược điểm riêng và nhà quản lý công ty phải cân nhắc, lựa chọn tùy từng thời điểm và dựa trên những đặc thù cũng như chiến lược kinh doanh của công ty để quyết định phương thức áp dụng thích hợp. Đối với nhà Đầu tư Cổ phiếu: Các nhà đầu tư trên thị trường sẵn sàng mua Cổ phiếu được công ty phát hành. Giấy chứng nhận sở hữu cổ phần được phát hành dưới dạng chứng thư có giá và được xác định thông qua việc chuyển dịch, mua bán chúng trên thị trường chứng khoán giữa các chủ thể đầu tư và được pháp luật bảo vệ. Mặt khác, người mua cổ phiếu nghĩ rằng đồng vốn họ đầu tư được các nhà quản lý công ty sử dụng có hiệu quả, tạo ra nhiều lợi nhuận hoặc đánh giá hoạt động cũng như tiềm năng phát triển, sinh lợi của công ty dự định đầu tư là cao, và đương nhiên họ sẽ được hưởng một phần từ những thành quả đó thông qua việc thanh toán cổ tức cho các cổ đông, đồng thời giá trị cổ phần sở hữu cũng sẽ gia tăng trên cơ sở thực tại và triển vọng phát triển của công ty mình đã chọn. Thông thường, khả năng sinh lợi, thu hồi vốn đầu tư cổ phiếu tỷ lệ thuận với giá cả giao dịch cổ phiếu trên thị trường. Nhưng nhìn chung thì việc phát hành cổ phiếu phải đảm bào được tính minh bạch và công khai: Một là, xét trên góc độ kế toán, một trong những nguyên tắc quan trọng của kế toán là tính liên tục nên kết quả ghi trên báo cáo tài chính của từng niên độ chỉ mang tính chính xác tương đối, vì nó phụ thuộc vào các phương pháp hạch toán như: Phương pháp khấu hao, phương pháp hạch toán xuất nhập kho, phương pháp phân bổ chi phí... Chưa nói, bên cạnh kết quả "lãi" được hạch toán trong niên độ này, có thể đang tiềm ẩn "lỗ" cho niên độ sau (lãi giả lỗ thật), rất thường xảy ra đối với hoạt động tín dụng của NH. Từ đó, việc chia cổ tức theo tháng là việc làm thiếu chính xác, thiếu minh bạch và không có căn cứ khoa học. Hai là, một trong những khác biệt cơ bản của CP và trái phiếu hoặc CP ưu đãi (preferred stock) là ở chỗ lãi tức của trái phiếu gắn liền với thời gian tồn tại của nó còn cổ phiếu thì không có. Ngoài ra, người sở hữu CP là chủ DN kể từ thời điểm họ có quyền sở hữu và các chủ DN chịu rủi ro như nhau trong phạm vi số vốn họ đầu tư vào DN, không kể họ đã nắm CP trong thời gian bao lâu. Họ cùng là chủ của khoản vốn chủ sở hữu, bao gồm: vốn, thặng dư vốn và lợi nhuận chưa chia. Ba là, một trong những đặc tính quan trọng của Cty cổ phần là tính chất đối vốn, không phải đối nhân. Từ đó,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCác công cụ phổ biến lưu thông trên thị trường tài chính viêt nam.doc
Tài liệu liên quan