Tiểu luận Những chiến lược, chính sách hội nhập Quốc tế của Việt Nam

MỤC LỤC

A. Khái quát Việt Nam

I. Vị trí địa lí

II. Tài nguyên thiên nhiên

III. Văn hóa

1. Phong tục tập quán

2. Tín ngưỡng và tôn giáo

3. Ngôn ngữ

4. Văn học

5. Nghệ thuật

IV. Xã hội

V. Khái quát về con người Việt Nam

1. Nguồn gốc

2. Phân bố

B. Chiến lược phát triển của Việt Nam

I. Nông – Lâm - Ngư nghiệp

1. Nông nghiệp

2. Lâm nghiệp

3. Ngư nghiệp

II. Công nghiệp xây dựng

1. Công nghiệp

a. Thực trạng ngành công nghiệp nước ta thời gian qua

b. Nội dung cơ bản của chiến lược phát triển công nghiệp

2. Xây dựng

a. Thực trang ngành xây dựng nước ta thời gian qua

b. Nội dung cơ bản của chiến lược phát triển ngành xây dựng

III. Dịch vụ thương mại

1. Dịch vụ

a. Quan điểm phát triển

b. Mục tiêu tổng quát

c. Mục tiêu cụ thể

d. Định hướng chiến lược, phân kì, trọng điểm phát triển và các định hướng cơ bản

. Định hướng chiến lược

. Phân kì, trọng diểm, phát triển

. Định hướng cơ bản phát triển các lĩnh vực chủ yếu đến năm 2020

2. Định hướng phát triển theo vùng lãnh thổ

a. Vùng đồng bằng

b. Vùng trung du miền núi

c. Ven biển và hải đảo

d. Phát triển dịch vụ tại khu vực nông thôn hướng tới xây dựng nông thôn mới

e.Phát triển dịch vụ gắn với phát triển các hành lang, vành đai kinh tế và các cực tăng trưởng có ý nghĩa đối với cả nước

3. Thương mại

IV. Văn hóa xã hội

V. Chính trị - an ninh quốc phòng

1. Chính trị

2. An ninh quốc phòng

 

doc33 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2887 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Những chiến lược, chính sách hội nhập Quốc tế của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiệp, giải pháp về cơ chế hoạt động của ngành công nghiệp Các chính sách phát triển công nghiệp. Các định chế tổ chức thực hiện, kiểm tra và đánh giá chiến lược công nghiệp. Trong thực tế, mục tiêu chung của nền kinh tế là đến năm 2020 nước ta sẽ trở thành một nước công nghiệp. Do đó tốc độ phát triển công nghiệp phải đạt cao trên 13% trong nhiều năm và năm 2020 công nghiệp phải chiểm 45% GDP. Chính sách phát triển công nghiệp có thể bao gồm, nhưng không nhất thiết phải giới hạn theo những nội dung cơ bản sau: Đánh giá và điều chỉnh mục tiêu phát triển ngành và cơ cấu công nghiệp. Phân tích tình hình của ngành công nghiệp và tác động của nó đối với nền kinh tế, đặc điểm môi trường cạnh tranh, nguồn nhân lực và hoạt động kinh doanh. Xác định các xu hướng thay đổi của nền kinh tế. Định vị nguồn nhân lực, kinh doanh và cộng đồng trong môi trường quốc tế. Đánh giá điểm mạnh, điểm yếu của ngành và các ngành công nghiệp cơ bản. Thiết kế các chương trình và công cụ để nâng cao năng lực cạnh tranh của toàn ngành (phát triển nguồn nhân lực qua đào tạo, hoàn thiện cơ sở hạ tầng, chính sách về vốn và công nghệ). 2. Xây dựng: a. Thực trạng ngành xây dựng nước ta thời gian qua: Kể từ Đại hội thi đua yêu nước lần thứ II đến nay, với khí thế thi đua sôi nổi, ngành Xây dựng có những đóng góp thiết thực vào thành tựu chung của cả nước. Ngành đã tập trung hơn cho công tác xây dựng hệ thống các thể chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển xây dựng theo hướng ngày càng đồng bộ, hoàn thiện. Các đạo luật mới mà ngành tham mưu cho Chính phủ, Quốc hội ban hành trong thời gian gần đây như Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Quy hoạch đô thị là những đột phá về cơ chế chính sách, tạo hành lang pháp lý đồng bộ, thúc đẩy phát triển ngành. Ngành xây dựng cũng có nhiều đổi mới trong hoạt động quản lý nhà nước, nhất là trong quản lý dự án đầu tư xây dựng khu đô thị mới, khu nhà ở, hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp, thể hiện tinh thần cải cách thủ tục hành chính... Công tác quản lý phát triển đô thị từng bước đi vào nền nếp, hệ thống đô thị phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, trở thành nhân tố tích cực, đảm nhiệm vai trò trung tâm trong phát triển kinh tế - xã hội của nhiều địa phương và cả nước. Nhiều chương trình phát triển nhà ở xã hội được triển khai, tạo bước đột phá trong phát triển nhà ở, giải quyết một lượng lớn nhu cầu chỗ ở, góp phần đáng kể cải thiện đời sống nhân dân. Sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước thuộc bộ Xây dựng đạt nhiều kết quả tích cực. Mặc dù chịu ảnh rất nặng nề do khủng hoảng, suy giảm kinh tế, nhưng tốc độ tăng trưởng bình quân 2006-2010 của các doanh nghiệp thuộc Bộ Xây dựng vẫn đạt trên 20%/năm. Bộ trưởng Xây dựng Nguyễn Hồng Quân cho biết, điểm đặc biệt là đã xuất hiện mô hình doanh nghiệp cổ phần điển hình tiên tiến, không chỉ duy trì mức tăng trưởng cao, lợi nhuận lớn, mà còn giải quyết hài hòa các mối quan hệ giữa lợi ích nhà nước, lợi ích doanh nghiệp với lợi ích người lao động và lợi ích cộng đồng. Đặt ra mục tiêu phát triển ngành xây dựng Việt Nam đến năm 2015 đạt trình độ tiên tiến trong khu vực, tăng nhanh năng lực và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, tập trung nguồn lực phát triển mạnh và nâng cao chất lượng công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí chế tạo thiết bị xây dựng, phấn đấu phát triển nhanh khả năng thực hiện các dự án quy mô lớn, yêu cầu kỹ thuật công nghệ cao, hình thành hệ thống đô thị phù hợp trên địa bàn cả nước với kết cấu hạ tầng đồng bộ... Xây dựng thực hiện tốt một số công tác trọng tâm, mà trước hết là tập trung hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách về xây dựng. Ngay trong năm 2011, cần nghiên cứu đổi mới căn bản cơ chế quản lý đầu tư xây dựng gắn với đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, kiểm soát tốt quá trình đô thị hóa, tiếp tục hoàn thiện các chính sách triệt để thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, thất thoát, tiêu cực, tham nhũng trong lĩnh vực đầu tư xây dựng. Để bảo đảm chất lượng, hiệu quả hoạt động đầu tư xây dựng, nhất là đầu tư phát triển đô thị, công tác quy hoạch phải đi trước một bước. Ngành Xây dựng  trước hết là Bộ Xây dựng cần chú trọng nâng cao nhận thức và tầm nhìn về quy hoạch xây dựng, tiếp tục đổi mới về nội dung, phương pháp và đẩy nhanh tiến độ lập quy hoạch xây dựng. Đồng thời, tăng cường công tác quản lý xây dựng theo quy hoạch, kiểm soát sự phát triển của các đô thị theo quy hoạch được duyệt, chú trọng kiểm soát bảo đảm yêu cầu phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị nhằm từng bước giải quyết dứt điểm những vấn đề đang rất bức xúc. Sớm hoàn thành Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội để phê duyệt theo đúng quy định của pháp luật. Cần tiếp tục đẩy mạnh công tác phát triển nhà ở, nhất là nhà ở xã hội, gắn với quản lý chặt chẽ việc phát triển lành mạnh thị trường bất động sản, bảo đảm công khai, minh bạch và có biện pháp xử lý hữu hiệu hành vi đầu cơ, làm giá, lũng đoạn thị trường bất động sản. Bộ Xây dựng cần sắp xếp các Tổng công ty trực thuộc theo hướng hình thành các doanh nghiệp hoặc tổ hợp doanh nghiệp có đủ năng lực thực hiện các dự án lớn, dự án trọng điểm quốc gia. Với những thành tích đã đạt được, những bài học kinh nghiệm quý báu rút ra từ thực tiễn quản lý, lao động sản xuất, Thủ tướng tin tưởng ngành Xây dựng sẽ phát huy mọi nguồn lực, đoàn kết, trí tuệ, sáng tạo, phấn đấu thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ  trong giai đoạn phát triển nhanh và bền vững của đất nước. b. Nội dung cơ bản của chiến lược phát triển xây dựng: Bộ Xây dựng cũng đã đề nghị Chương trình Định cư Con người Liên Hợp Quốc (UN-HABITAT) tham gia đóng góp ý kiến và hỗ trợ kỹ thuật cho chiến lược phát triển nhà ở quốc gia, đặc biệt vấn đề nhà ở cho người thu nhập thấp. Bộ Xây dựng nhận định rằng việc thực hiện một nghiên cứu sâu về hồ sơ nhà ở là rất cần thiết để xác định các thách thức và cơ hội trong phát triển và cải tạo nhà ở ở Việt Nam. Ngoài ra, việc xây dựng năng lực cho các nhà hoạch định chính sách ở cả cấp trung ương và địa phương cũng là có ý nghĩa quan trọng A Thực tế, nhà ở là một tài sản lớn, có giá trị của mỗi cá nhân, gia đình và đó là một trong những động lực chính thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Có chỗ ở thích hợp và an toàn là một quyền cơ bản của con người, là nhu cầu chính đáng của mỗi hộ gia đình và là điều kiện cần thiết để phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, Nhà nước ta đã rất quan tâm giải quyết vấn đề nhà ở của nhân dân. Trong từng giai đoạn khác nhau, nhà nước đã có những chính sách thay đổi phù hợp từ mở rộng chính sách bao cấp nhà ở tại miền Bắc từ sau năm 1954 ra áp dụng trong cả nước vừa mới thống nhất, rồi xóa bỏ chính sách nhà ở bao cấp và chuyển sang chính sách tạo điều kiện về nhà ở trong nền kinh tế thị trường theo đường lối Đổi mới giai đoạn 1991-2000, và Giai đoạn 2001-2010 Quốc hội ban hành một loạt luật và và Chính phủ ban hành văn bản dưới luật để hoàn thiện thể chế các thị trường có liên quan đến phát triển nhà ở và chính sách trợ giúp một số đối tượng gặp khó khăn nhà ở. Kết quả là lĩnh vực nhà ở đã đạt được những thành quả đáng khích lệ như tăng trưởng về số lượng nhà ở và hệ thống các đô thị, tăng trưởng về diện tích nhà ở, tăng trưởng về chất lượng nhà ở và quy mô căn hộ. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện vẫn còn có nhiều tồn tại, bất cập về cơ chế, chính sách phát triển nhà ở; sự thiếu đồng bộ giữa các chính sách về nhà ở với các chính sách về đất đai, đầu tư, quy hoạch và tái chính; giá nhà ở tăng cao gây ảnh hưởng không tốt đến việc tạo lập về chỗ ở của người dân; tình trạng mất cân đối về tỷ trọng các loại nhà ở, điều kiện ở của các nhóm cư dân đô thị ngày càng chênh lệch cao; sự thiếu đồng bộ trong chính sách xây dựng nhà ở tại khu vực nông thôn; mô hình tổ chức phát triển nhà ở chưa đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; hệ thống tài chính nhà ở còn thiếu đồng bộ; các thủ tục hành chính trong liĩnh vực nhà ở còn rườm rà, phức tạp; công tác chỉ đạo thực hiện một số chương trình, chính sách về nhà ở còn nhiều tồn tại; cơ cấu, bộ máy tổ chức quản lý về nhà ở còn nhiều hạn chế; việc kiểm tra, thanh tra và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về nhà ở chưa được thực hiện thường xuyên và triệt để… Trong hội thảo “Tham vấn và Hỗ trợ kỹ thuật cho Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” tổ chức vào ngày 8/3/2011 tại Hà Nội, các chuyên gia nhà ở của UN-HABITAT đã trình bày những kinh nghiệm xây dựng chính sách nhà ở quốc gia, đặc biệt ở các nước trong vùng Châu Á – Thái Bình Dương; cung cấp cho Bộ Xây dựng và Văn phòng Ban chỉ đạo Trung ương về Chính sách nhà ở và Thị trường Bất động sản Bộ sách hướng dẫn nhanh về “Nhà ở cho người nghèo ở các thành phố Châu Á” nhằm chia sẻ kinh nghiệm quốc tế về xây dựng và thực hiện chiến lược nhà ở vì người nghèo có sự tham gia của các bên liên quan. Bên cạnh đó nhóm tư vấn dự án của UN-HABITAT cũng trình bày những đánh giá ban đầu về Hồ sơ Nhà ở đô thị Việt Nam với các chủ đề: Khuôn khổ chính sách và thể chế; Tài chính và thị trường nhà ở; Hạ tầng/các dịch vụ cơ bản; Hệ thống cung cấp đất đai và Công nghiệp xây dựng và nguyên vật liệu, nhằm đóng góp nội dung cho Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Qua hội thảo này, “Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” sẽ được hoàn thiện hơn, và làm cơ sở pháp lý để Nhà nước có các chủ trương, chính sách phù hợp nhằm thúc đẩy phát triển lĩnh vực nhà ở, tạo điều kiện để mọi người dân, đặc biệt là người nghèo, người thu nhập thấp có thể tạo lập chỗ ở phù hợp và ổn định, góp phần thực hiện tốt chính sách an sinh của Đảng và Nhà nước và công cuộc hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn sắp tới. III. DỊCH VỤ - THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ Tổ chức Thương mại Thế giới đã chia các hoạt động dịch vụ khác nhau thành 12 ngành (trong đó gồm 155 tiểu ngành): Các dịch vụ kinh doanh; dịch vụ bưu chính viễn thông ; dịch vụ xây dựng và các dịch vụ kỹ thuật liên quan khác; dịch vụ phân phối; dịch vụ giáo dục; dịch vụ môi trường; dịch vụ tài chính; các dịch vụ xã hội và liên quan đến y tế; các dịch vụ du lịch và dịch vụ liên quan đến lữ hành; các dịch vụ giải trí văn hoá, thể thao; dịch vụ vận tải và các dịch vụ khác… Dịch vụ ngày càng chiếm vị trí trọng yếu trong từng nền kinh tế quốc dân và là yếu tố đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế thế giới. Năm 2001 ngành dịch vụ đã tạo nên 72% GDP của các nước phát triển và xấp xỉ 52% ở các nước đang phát triển… Hoạt động dịch vụ ở Việt Nam trong các năm qua: Ba thập kỷ vừa qua, các nhà kinh tế, và ở mức độ ít hơn là các nhà hoạch định chính sách, đã ngày càng chú ý nhiều hơn tới sự đóng góp của các ngành dịch vụ tới quá trình phát triển kinh tế trên toàn thế giới. Tuy nhiên, giá trị của các ngành dịch vụ trong nền kinh tế vẫn thường chưa đươc đánh giá đúng mức, khi hoạch định các chính sách như chính sách thuế, thương mại và trợ cấp, ngành sản xuất vẫn thu hút được nhiều sự chú ý về mặt chính trị và nguồn lực hơn.   Trong giai đoạn trước cải cách của các nền kinh tế chưa chuyển đổi, chế độ sở hữu nhà nước và thiếu cạnh tranh trong nền kinh tế đã ngăn cản sự xuất hiện của nhiều dịch vụ và cả những ngành dịch vụ nếu tồn tại cũng không phát triển. Nhiều ngành dịch vụ đóng vai trò quan trọng cho sự vận hành của một nền kinh tế thị trường không tồn tại, không chỉ là ngành tài chính có thể phân bổ các nguồn vốn đầu tư một cách hiệu quả mà các dịch vụ như thiết kế, quảng cáo, đóng gói, phân phối, tiếp vận, quản lý, các dịch vụ sau bán hàng, v.v cũng không tồn tại. Việc không có các dịch vụ sản xuất được thể hiện trong các nút thắt giao thông, xếp hàng sử dụng các dịch vụ viễn thông có chất lượng thấp, không có các dịch vụ trung gian tài chính hiệu quả và số lượng lao động trong ngành dịch vụ thấp hơn rất nhiều so với các nền kinh tế thị trường.  Tình hình Việt Nam trước quá trình Đổi mới cũng tương tự. Không có một chính sách rõ ràng hay mục tiêu tăng trưởng đối với lĩnh vực dịch vụ, tồi tệ hơn, không có khuôn khổ pháp lý và thể chế cho lĩnh vực này. Thương mại dịch vụ hầu như bị bỏ quên trong các báo cáo về quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và bên ngoài.  Lĩnh vực dịch vụ của Việt Nam đã được mở cửa dần kể từ khi Việt Nam bắt đầu các cải cách theo định hướng thị trường theo chính sách Đổi mới của mình, quá trình này đã dẫn tới những sự phát triển kỳ diệu của lĩnh vực này, đặc biệt khi Việt Nam bắt đầu gia nhập WTO.  Lợi ích kinh tế rõ ràng tự sự phát triển của lĩnh vực dịch vụ đã thu hút nhiều chú ý hơn về mặt chính sách trong vòng 15 năm qua. Kế hoạch phát triển kinh tế của Việt Nam giai đoạn 1996-2000 đặt ra các mục tiêu tham vọng về tăng trưởng dịch vụ hàng năm với tốc độ 12-13% và tỷ trọng dịch vụ trong GDP đạt 45-46% vào năm 2000, tuy nhiên các mục tiêu này chưa đạt được. Chiến lược Phát triển giai đoạn 2001-2010 mà Đại hội Đảng lần thứ 9 đề ra cũng tập trung vào ngành dịch vụ, đề ra mục tiêu mới là tốc độ tăng trưởng hàng năm của lĩnh vực dịch vụ là 7-8%, tới năm 2010 dịch vụ chiếm 42-43% GDP và 26-27% việc làm trong nền kinh tê.  Kể từ Đại hội Đảng lần thứ 6, nhiều cải cách tự do hóa, theo định hướng thị trường đã được đưa ra trong giai đoạn Đổi mới, trong đó có nhiều chính sách đã ảnh hưởng trực tiếp hoăc gián tiếp tới các hoạt động dịch vụ. Tuy nhiên, việc tăng cường mở cửa thị trường xét từ khía cạnh luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã đem lại lợi ích chủ yếu cho lĩnh vực sản xuất trong khi chỉ rất ít ngành dịch vụ và là những ngành không chiến lược được hưởng lợi từ quá trình này, chủ yếu là các ngành khách sạn và nhà hàng, bất động sản, dịch vụ cho thuê và dịch vụ kinh doanh.  số chung về GDP trong giai đoạn 2005-2008 cho thấy mặc dù hoạt động của lĩnh vực dịch vụ đã được cải thiện so với lĩnh vực công nghiệp/xây dựng xét từ khía cạnh các mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2006-2020 nhưng Việt Nam vẫn chưa đạt được tiến bộ đột phá về điều chỉnh cơ cấu và tỷ trọng của lĩnh vực dịch vụ trong GDP vẫn thấp hơn lĩnh vực thứ cấp (secondary sector).  Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động dịch vụ phát triển, nhờ vậy khu vực dịch vụ đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và đời sống dân cư, góp phần đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế… Ngành dịch vụ tăng khá nhanh trong giai đoạn 1991-1995, đạt 8,6%, nhưng sang giai đoạn 1996- 2000 tốc độ tăng chậm lại, chỉ đạt 5,7% và đang có xu hướng hồi phục trong những năm gần đây (năm 2001 đạt 6,1% năm 2002 đạt 6,54% và 2003 đạt 6,57%). Tỷ trọng của ngành dịch vụ ở Việt Nam chưa cao, chỉ đạt 36-37% trong GDP (tính quy luật chung là 45%). Ngoài ra xu thế tỷ trọng này đã giảm từ 37,1% năm 1995 xuống còn 36,1% năm 2002… Cơ cấu ngành dịch vụ Việt Nam đa dạng với nhiều phân ngành dịch vụ khác nhau. Tuy nhiên hiện nay, Việt Nam chỉ tập trung ở hai công đoạn lắp ráp và gia công chế biến. Các dịch vụ khác như nghiên cứu khoa học, thiết kế kiểu dáng hay tiếp thị, nghiên cứu thị trường… đều kém phát triển. Các phân ngành dịch vụ quan trọng như tài chính, viễn thông, cơ sở hạ tầng…chưa đủ mạnh. Đến nay cả dịch vụ vận tải và dịch vụ viễn thông mới chỉ chiếm 9,6% trong toàn ngành dịch vụ và dịch vụ tài chính chỉ chiếm 5% … Ngành dịch vụ tạo ra nhiều việc làm tuy nhiên,ước tính ở Việt Nam mới chỉ có 25% lực lượng lao động làm việc trong lĩnh vực dịch vụ. Với sức ép hàng năm Việt Nam cần phải tăng thêm khoảng 1,7 triệu lao động, trong khi đó ngành công nghiệp và nông nghiệp chỉ thu hút được tối đa là 1,1 triệu lao động, vì vậy ngành dịch vụ cần phải tạo ra 0,9 triệu lao động hàng năm, nhưng với tốc độ tăng trưởng hiện nay, ước tính mỗi năm, chỉ đáp ứng được 0,5 triệu lao động. Ngành dịch vụ ở Việt Nam chưa thực sự tạo ra môi trường tốt cho toàn bộ nền kinh tế phát triển. Hiện tại các chi phí dịch vụ viễn thông, cảng biển, vận tải…của Việt Nam đang cao hơn mức trung bình của các nước trong khu vực (viễn thông cao hơn 30-50%, vận tải đường biển cao hơn từ 40-50%). Trong khi đó, sức ép tự do hoá đối với lĩnh vực dịch vụ của ta trong BTA và trong WTO sắp tới là rất lớn. Trước mắt, theo Hiệp định thương mại Việt-Mỹ, ta cam kết mở cửa các lĩnh vực như ngân hàng, viễn thông, bảo hiểm cho các công ty dịch vụ Mỹ vào hoạt động theo lộ trình với những giới hạn mà Việt Nam đặt ra đối với các loại hình đầu tư, dịch vụ này tuỳ theo mức độ nhạy cảm (an ninh quốc gia, kinh tế). Thời hạn mở cửa cho các ngành hàng dịch vụ là từ 3-5 năm, trong đó phần góp vốn của Mỹ không quá 49%, riêng khu vực ngân hàng có thể 100% sau 9 năm Hiệp định có hiệu lực. Theo Chỉ thị, trong kế hoạch tương lai, cần nâng cao vai tròcủa khu vực dịch vụ; xem ngành dịch vụ là một trong những ngành mũi nhọn để phát triển kinh tế đất nước với các mục tiêu: a. Quan điểm phát triển - Phát triển lĩnh vực dịch vụ nhanh, hiệu quả và bền vững, đảm bảo các dịch vụ cơ bản phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước, hướng tới hình thành cơ cấu kinh tế hiện đại. - Phát triển mạnh khu vực dịch vụ tiếp cận với trình độ hiện đại, đảm bảo hội nhập quốc tế và khu vực. - Huy động mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế trong phát triển các lĩnh vực dịch vụ. - Phát triển các lĩnh vực dịch vụ, phù hợp với các giai đoạn phát triển của kinh tế đất nước. - Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch. Phát triển đồng bộ, hoàn chỉnh và ngày càng hiện đại các loại thị trường dịch vụ. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. b. Mục tiêu tổng quát Phát triển khu vực dịch vụ hiệu quả, đạt chất lượng và năng lực cạnh tranh quốc tế; phát triển các lĩnh vực dịch vụ có tiềm năng lớn, có sức cạnh tranh và giá trị gia tăng cao phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đảm bảo tăng trưởng bền vững và dần từng bước chuyển sang nền kinh tế tri thức. c. Mục tiêu cụ thể Giai đoạn 2011 – 2015: tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ đạt 7,8 – 8,5%/năm với quy mô khoảng 41% - 42% GDP toàn bộ nền kinh tế; giai đoạn 2016 – 2020: tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ đạt 8,0 – 8,5%/năm với quy mô khoảng 42,0 – 43,0% GDP toàn nền kinh tế. d. Định hướng chiến lược, phân kỳ, trọng điểm phát triển và các định hướng cơ bản Định hướng Chiến lược - Phát triển khu vực dịch vụ đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng trưởng các khu vực sản xuất và tốc độ tăng GDP.Tập trung nguồn lực, đẩy mạnh phát triển các lĩnh vực dịch vụ có tiềm năng và lợi thế, các ngành có hàm lượng khoa học và công nghệ cao mang lại giá trị gia tăng cao, làm cơ sở cho sự phát triển chung của khu vực dịch vụ và toàn bộ nền kinh tế. Nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ trên thị trường nội địa, khu vực và quốc tế; đẩy mạnh khai thác tiềm năng và lợi thế của từng lĩnh vực dịch vụ, tăng cường sự hợp tác giữa các lĩnh vực dịch vụ để cùng cạnh tranh và phát triển. Đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ và dịch vụ thu ngoại tệ tại chỗ thông qua các hoạt động dịch vụ du lịch, tài chính – ngân hàng, kiều hối, bưu chính viễn thông, vận tải hàng không, đường biển và bán hàng tại chỗ, giảm thâm hụt cán cân dịch vụ. Phát triển hệ thống phân phối các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh ở cả trong và ngoài nước, xây dựng thương hiệu cho sản phẩm dịch vụ Việt Nam. Hình thành một số trung tâm dịch vụ đặc biệt là các trung tâm du lịch có quy mô và có sức cạnh tranh trong khu vực. Phân kỳ, trọng điểm phát triển: Nhiệm vụ chủ yếu giai đoạn 2011 – 2015: - Nâng cao nhận thức xã hội về dịch vụ; - Tăng cường xây dựng thể chế phát triển khu vực dịch vụ; - Phát triển mạnh các lĩnh vực dịch vụ có tiềm năng và lợi thế, các ngành dịch vụ có hàm lượng khoa học và công nghệ cao mang lại giá trị gia tăng cao, bao gồm: dịch vụ công nghệ thông tin và truyền thông, dịch vụ giáo dục, dịch vụ lo-gi-stic, dịch vụ tài chính, dịch vụ hỗ trợ kinh doanh, dịch vụ du lịch, dịch vụ vận tải, dịch vụ phân phối, dịch vụ khoa học và công nghệ và dịch vụ chăm sóc sức khỏe. - Xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng của khu vực dịch vụ, tạo tiền đề phát triển nhanh, bền vững và toàn diện khu vực dịch vụ trong giai đoạn tiếp sau thông qua việc tập trung phát triển có trọng điểm các ngành dịch vụ “cơ sở hạ tầng” bao gồm: công nghệ thông tin truyền thông, dịch vụ giáo dục, dịch vụ lo-gi-stic, dịch vụ tài chính và dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. Nhiệm vụ chủ yếu giai đoạn 2016 – 2020 - Phát triển mạnh mẽ, toàn diện và bền vững khu vực dịch vụ trên cơ sở phát huy hiệu quả dịch vụ “cơ sở hạ tầng” đã được tăng cường và hoàn thiện; khai thác tối đa nhu cầu về dịch vụ được gia tăng trong giai đoạn 2011 – 2015; - Sử dụng thành quả bước đầu của nền giáo dục, trong đó có giáo dục bậc cao và giáo dục chuyên nghiệp được ưu tiên phát triển trong giai đoạn trước cũng như khả năng cạnh tranh được tạo ra do phát triển công nghệ thông tin và truyền thông và các lĩnh vực khoa học công nghệ khác, thực hiện chuyển dịch mạnh mẽ sang các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng, hàm lượng công nghệ, tri thức cao, dần tiến tới mục tiêu hình thành nền kinh tế tri thức trong các giai đoạn phát triển tiếp sau. - Các lĩnh vực dịch vụ tiếp tục được tập trung phát triển gồm: công nghệ thông tin và truyền thông, tài chính, lo-gi-stic, hỗ trợ kinh doanh, giáo dục bậc cao, chăm sóc sức khỏe chất lượng cao và du lịch. Định hướng cơ bản phát triển các lĩnh vực chủ yếu đến năm 2020: - Dịch vụ công nghệ thông tin và truyền thông Hướng tới năm 2020, công nghệ thông tin và truyền thông phải làm nòng cốt, là tiền đề cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và trở thành một trong những điểm tựa quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội, chuyển đổi nhanh cơ cấu kinh tế để Việt Nam có thể trở thành một nước có trình độ tiên tiến về phát triển kinh tế tri thức và xã hội thông tin, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. - Dịch vụ tài chính: + Dịch vụ ngân hàng: phát triển ổn định và bền vững hệ thống ngân hàng là yêu cầu xuyên suốt chiến lược và quá trình thực hiện chiến lược phát triển dịch vụ ngân hàng; nâng cao năng lực quản trị rủi ro trong hoạt động ngân hàng. + Dịch vụ chứng khoán: tăng quy mô, củng cố tính thanh khoản cho thị trường, đưa tổng giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt từ 80% đến 110% GDP vào năm 2020. Phát triển thị trường trái phiếu, đặc biệt là trái phiếu Chính phủ trở thành một kênh huy động và phân bổ vốn quan trọng cho phát triển kinh tế. Nâng cao sức cạnh tranh của các định chế trung gian thị trường và các tổ chức phụ trợ, tăng cường quản trị rủi ro, hướng tới hoạt động theo mô hình đa năng, mở rộng phạm vi hoạt động ra nước ngoài. + Dịch vụ bảo hiểm Tăng trưởng bảo hiểm phi nhân thọ bình quân đạt khoảng 29% - 30%; trong đó, tập trung nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ; ưu tiên khai thác khách hàng cá nhân; ưu tiên phát triển bảo hiểm trách nhiệm và y tế. Tăng trưởng bảo hiểm nhân thọ bình quân đạt khoảng 16% - 18%; trong đó, ưu tiên tập trung khai thác sản phẩm hỗn hợp; tích hợp các sản phẩm truyền thống; nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ; gia tăng các sản phẩm liên kết đầu tư (sản phẩm hỗn hợp: đầu tư, bảo vệ, tiết kiệm). - Dịch vụ hỗ trợ kinh doanh Hình thành các dự án, chương trình phát triển các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh theo hướng: tạo môi trường kinh doanh; tạo lập và nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp; cải thiện và tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận các nguồn lực, thị trường và các loại hình dịch vụ; tạo lập và nâng cao văn hóa và năng lực quản trị kinh doanh. Xác định rõ, cụ thể các lĩnh vực dịch vụ phục vụ kinh doanh thiết yếu theo từng ngành lĩnh vực kinh tế - xã hội cụ thể để tạo điều kiện cho các dịch vụ đó phát triển đáp ứng nhu cầu phát triển của các ngành, lĩnh vực đó. - Dịch vụ giáo dục đào tạo Phát triển dịch vụ giáo dục đào tạo nhằm xây dựng nguồn nhân lực trở thành lợi thế cạnh tranh và hội nhập quốc tế; đào tạo, đáp ứng nhu cầu của xã hội, cộng đồng doanh nghiệp nhằm thực hiện trực tiếp một trong ba mục tiêu đột phá của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020. - Dịch vụ lo-gi-stic Coi lo-gi-stic là yếu tố then chốt thúc đẩy phát triển sản xuất hệ thống phân phối các ngành dịch vụ khác và lưu thông hàng hóa trong nước và xuất nhập khẩu. Hình thành dịch vụ trọn gói 3PL (integrated 3PL); phát triển lo-gi-stic điện tử (e-logistics) cùng với thương mại điện tử và quản trị chuỗi cung ứng hiệu quả và thân thiện. Tốc độ tăng trưởng thị trường lo-gi-stic đạt 20 – 25% năm. Tỉ lệ thuê ngoài lo-gi-stic (outsourcing logistics) đến năm 2020 là 40%. - Dịch vụ vận tải Phát triển hợp lý các phương thức vận tải đường bộ, đường sắt, đường biển, đường thủy nội địa, hàng không Xây dựng chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia kinh doanh vận tải, dịch vụ hỗ trợ vận tải; hỗ trợ các doanh nghiệp vận tải hành khách công cộng và vận tải phục vụ vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. - Dịch vụ khoa học và công nghệ Nghiên cứu đánh giá tiềm lực

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNhững chiến lược, chính sách hội nhập Quốc tế của Việt Nam.doc