Tiểu luận Phân tích ngành ngân hàng trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Cơ cấu thu nhập thay đổi đáng kể với thu nhập từ lãi chiếm tỷ trọng lớn nhất

Sự tăng trưởng mạnh của dư nợ tín dụng và đầu tư vào giấy tờ có giá là 2 hoạt động chính khiến tỷ trọng thu từ lãi của Sacombank tăng mạnh lên 60,5% trong tổng thu nhập. Còn lại là thu nhâp từ phí, kinh doanh ngoại tệ & vàng, kinh doanh chứng khoán v.v. Khoản hoàn nhập dự phòng đầu tư chứng khoán hơn 208 tỷ VND trong 2Q09 đã giúp cho Sacombank bù lỗ từ hoạt động mua – bán chứng khoán trong 1Q09. Lũy kế 2 quý đầu năm, ngân hàng có lãi từ đầu tư chứng khoán là hơn 54,7 tỷ VND

Khả năng sinh lời được cải thiện nhưng chưa đạt bằng mức trung bình các năm trước

Tới 30/06, lợi nhuận sau thuế của ngân hàng đạt hơn 779 tỷ VND, tương đương 81,6% LNST 2008. ROA & ROAE của 4 quý gần nhất đạt 1,61% & 15,52% - cải thiện rõ rệt so với mức

1,44% và 12,64% tương ứng của năm 2008. Tuy nhiên, các chỉ số sinh lời này vẫn chưa phục hồi được mức trung bình của giai đoạn 2004-2007, là 2,29% và 20,65%. Sự cải thiện về khả năng sinh lời chủ yếu do mức chênh lệch lãi suất đầu vào – đầu ra đạt cao nhất từ Q1’08 tới nay khi chí phí vốn giảm do giảm tỷ trọng nguồn vốn liên ngân hàng cũng như lãi suất liên ngân hàng, đồng thời cũng phản ánh mặt bằng chung về lãi suất của 2009 thấp hơn 2008.

Tỷ lệ chi phí/ thu nhập giảm mạnh xuống 37,61% trong nửa đầu năm 2009, thấp hơn hẳn so với mức 51,75% của năm 2008 và 40,49% từ 2004 – 2007, thể hiện hiệu quả hoạt động của ngân hàng đang được cải thiện.

 

doc17 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2603 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phân tích ngành ngân hàng trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngân hàng (bình quân trên 20%/năm, cá biệt có một số thời điểm lên tới 30% thậm chí hơn 40%/năm) và huy động khách hàng với lãi suất 18-20% để duy trì thanh khoản. Lãi suất huy động tiền gửi một số ngân hàng (Kiên Long, Đại Dương, Đông Nam Á, Nam Việt, Gia Định) có lúc tăng lên trên 19%. Lãi suất cho vay cũng theo đó tăng cao nhưng lại bị khống chế bởi trần lãi suất dẫn đến chênh lệch lãi giảm, thu nhập từ lãi của các ngân hàng cuối quý 2/2008 đã giảm mạnh mẽ so với 2007. Cùng với các biện pháp thắt chặt tiền tệ khác của Chính phủ như tăng dự trữ bắt buộc, yêu cầu các NH mua tín phiếu bắt buộc, đến tháng 10/2008, tốc độ tăng trưởng tín dụng đã được điều chỉnh giảm dần, tăng trưởng lạm phát được kiểm soát cùng với hệ quả tất yếu là kinh tế suy giảm, khả năng sinh lời các tổ chức tín dụng giảm sút thì NHNN bắt đầu giảm lãi suất cơ bản xuống còn 13% và đến cuối 2008 giảm còn 7.95%. Đồng thời, NHNN cũng tăng lãi suất dự trữ bắt buộc lên 5% (21/10/08), tăng lãi suất tín phiếu phát hành 2008 lên 13% (1/7/08) và cho phép NH cầm cố, chiết khấu hoặc thanh toán trước hạn các tín phiếu này, do đó, áp lực thanh khoản của các NH đã được giảm nhẹ. 2. Chất lượng tín dụng suy giảm do những ảnh hưởng của nền kinh tế toàn cầu nói chung và kinh tế trong nước nói riêng Đầu năm 2008, áp lực từ sự suy giảm nền kinh tế toàn cầu đã dẫn đến hoạt động xuất nhập khẩu giảm sút mạnh mẽ cùng lúc đó lãi suất tăng cao đã khiến cho 70% doanh nghiệp Việt Nam rơi vào tình trạng thiếu vốn, kinh doanh thua lỗ, không có khả năng chi trả lãi, đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến chất lượng nợ xấu trong hệ thống tăng cao. Tăng trưởng tín dụng chỉ tăng mạnh ở quý 1/2008 trung bình khoảng 18% và chỉ tăng nhẹ ở cuối năm với mức tăng trung bình 21% thấp hơn nhiều so với tăng trưởng năm 2007 (54%) do các ngân hàng e ngại về tình hình kinh doanh yếu kém của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, việc 70% dư nợ cho vay được thế chấp bằng bất động sản (khoảng 500,000 tỷ đồng năm 2008) và 9.15% tổng dư nợ cho vay có liên quan bất động sản của hệ thống ngân hàng lại tiếp tục dẫn đến rủi ro khó thu hồi nợ của ngân hàng do thị trường bất động sản Việt Nam năm 2008 xuống dốc nghiêm trọng sau ảnh hưởng của những bong bóng thị trường năm 2007. (Nguồn: Vneconomy, ngày 06/10/08) 3. Kết quả kinh doanh cuối 2008 cho thấy đa số ngân hàng không thực hiện được mục tiêu lợi nhuận: Ngân hàng ROE (%) Lợi nhuận kế hoạch năm 2008 Lợi nhuận trước thuế thực tế % thực hiện (Đvt: tỷ đồng) (Đvt: tỷ đồng) Đông Á 14.31 800 690 86.25 Eximbank 5.41 1,300 988 76.00 Sacombank 12.31 1,500 1,100 73.33 VPbank 5.95 550 199 36.13 HDB 3.61 280 80 28.57 ABbank 1.21 500 70 14.00 Việt Á 2.19 290 22 7.72 Hai ngân hàng lớn trong khối TMCP là Sacombank và Eximbank phải điều chỉnh mục tiêu lợi nhuận. Sau kết quả kinh doanh quý 2/08, Sacombank đã điều chỉnh mục tiêu lợi nhuận từ 2,000 tỷ xuống còn 1,500 tỷ nhưng kết quả cuối năm chỉ đạt được 1,110 tỷ lợi nhuận trước thuế. Với Eximbank, mặc dù nhiều lần khẳng định sẽ duy trì mức lợi nhuận đặt ra cả năm 2008 là 1.500 tỷ đồng (năm 2007 đạt 700 tỷ đồng), nhưng sau 2 tháng với nhiều biến động trên thị trường tiền tệ, trong ĐHCĐ ngày 21/3, Eximbank đã phải điều chỉnh xuống còn 1.300 tỷ đồng, nhưng kết quả cuối cùng chỉ đạt 988 tỷ đồng. Tỷ suất sinh lời trên VCSH trung bình ngành năm 2008 giảm mạnh còn 9.5% so với 14.56% năm 2007 cho thấy xu hướng sụt giảm lợi nhuận toàn ngành. Tỷ trọng thu nhập ngoài lãi trong tổng thu nhập của các NH năm 2009 khoảng 33% tăng so với 25% năm 2008 do sự biến động mạnh của thị trường ngoại hối với tỷ giá USD so với VND tăng vọt lên 9%, giá vàng tăng kỷ lục cũng như biến động liên tục về lãi suất trên thị trường tiền tệ đã làm thu nhập ngoài lãi các ngân hàng nhỏ thua lỗ nhưng cũng lại góp phần lớn vào kết quả kinh doanh ngoài lãi của các ngân hàng có kinh nghiệm về kinh doanh tiền tệ và ngoại hối như ACB, Eximbank và một số ngân hàng lớn khác. 4. Quá trình tăng vốn của nhiều ngân hàng trong năm 2008 tương đối đạt kế hoạch đề ra: Xét chi tiết kế hoạch tăng vốn điều lệ của một số ngân hàng thương mại, có thể nhận thấy rằng các ngân hàng đều tăng vốn có lộ trình nhất định và sử dụng cả hai phương thức tăng vốn là phát hành thêm cổ phiếu kết hợp với việc sử dụng nguồn thặng dư phát hành cổ phần của năm trước, giảm khối lượng cung hàng ra thị trường trong thời điểm này. Tuy nhiên không phải ngân hàng nào cũng thực hiện được mục tiêu tăng vốn. Về mặt thành công trong việc tăng vốn lớn nhất phải kể đến Eximbank, với kế hoạch tăng vốn rất lớn: từ 2,800 tỷ lên 7,400 tỷ đồng, nhưng lộ trình được chia thành 2 giai đoạn: giai đoạn đầu tăng lên 4,425 tỷ đồng trong đó 386.7 tỷ đồng chia cổ tức bằng cổ phiếu, 1,106 tỷ đồng nhận vốn góp từ Tập đoàn Sumitomo và các quỹ đầu tư nước ngoài khác; giai đoạn sau dự tính là tháng 11/2008 sẽ tăng thêm 2,975 tỷ đồng lấy từ nguồn vốn thặng dư. Đến 31/12/08, Eximbank đã khá thành công với VCSH đạt 12,844 tỷ. Ngoài ra, IPO Vietinbank sau nhiều lần trì hoãn cũng đã thực hiện khá thành công cuối năm 2008. Trong tình hình khó khăn hiện nay, việc đa số các NH có thể hoàn thành mục tiêu tăng vốn đã góp phần nâng cao tính an toàn cho hoạt động chung của hệ thống. 5. Việc cấp phép thành lập các ngân hàng con 100% vốn nước ngoài và một số ngân hàng TMCP mới trong nước đã gia tăng cạnh tranh ngành: Thị trường đón nhận 2 thành viên mới chính thức đi vào hoạt động là Ngân hàng Liên Việt và Ngân hàng Tiên Phong. Tháng 12/08, Ngân hàng Nhà nước cấp thêm giấy phép mới cho ngân hàng Bảo Việt sẽ bắt đầu hoạt động vào đầu năm 2009. Đi cùng với những giấy phép trên, quyết định tạm ngừng cấp phép để sửa đổi quy chế thành lập và hoạt động của ngân hàng mới cũng là một sự kiện nổi bật trong năm 2008; phía sau đó là dư âm của cuộc đua thành lập ngân hàng trong năm 2007 với sự đổ vỡ của một số đề án và những câu chuyện mua bán quyền mua cổ phiếu ngân hàng chưa thành lập. Cũng trong năm 2008, Ngân hàng Nhà nước chính thức cấp giấy phép lập ngân hàng con 100% vốn ngoại đầu tiên cho HSBC, ANZ và Standard Chartered và sau đó là Shinhan Bank và Hongleong Bank, mở đầu một thời kỳ mới cho hoạt động của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam: được đối xử bình đẳng hơn và cạnh tranh hơn. B. PHÂN TÍCH NGÀNH NGÂN HÀNG Để có thể đầu tư hiệu quả vào ngành ngân hàng, ta cần phải nắm bắt kĩ tình hình của các ngân hàng. Không chỉ ở những khía cạnh chung, ta phải đi đào sâu phân tích để có thể đưa ra những quyết định đúng đắn. Tổng quan về các ngân hàng niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam: Hiện nay, trên sàn HOSE có 4 đại diện ngành ngân hàng là STB, VCB, CTG và EIB, còn trên sàn HNX có 2 đại diện là ACB và SHB. Ngân hàng thương mại cổ phần á châu (ACB): Sàn giao dịch HNX. Ngày giao dịch đầu tiên: 21/11/2006 Tổng tài sản: 169,512,664,000 nghìn đồng và vốn điều lệ: 7,814,394,76,0000 đồng Chủ tịch hội đồng quản trị: Ông Trần Xuân Giá Là ngân hàng thương mại cổ phần có quy mô lớn nhất về tổng tài sản. Tổng huy động vốn của ACB chiếm thị phần 4.39% trên tổng huy động vốn của cả hệ thống ngân hàng, trên 57% thị phần chủ thẻ tín dụng quốc tế. Mạng lưới giao dịch phủ khắp các địa bàn trọng điểm phát triển kinh tế - xã hội trên cả nước với gần 200 đơn vị. tỉ lệ lãi biên (NIM) là 3.07 % . Hệ số beta là 1.06 Ngân Hàng thương mại cổ phần Sài Gòn thương tín (STB): Sàn giao dịch HoSE Ngày giao dịch đầu tiên: 12/07/2007 Tổng tài sản 98,242,559,000 nghìn đồng và vốn điều lệ: 6,650,580,090,000 đồng. Chủ tịch hội đồng quản trị: Ông Đặng Văn Thành. Thị phần huy động vốn của ngân hàng khoảng 3% trên tổng huy động vốn của cả ngân hàng. Có hơn 274 chi nhánh và phòng giao dịch. Tỉ lệ lãi biên là 2.06%. Chỉ số beta 1.07 Ngân hàng thương mại cổ phần Sài gòn – Hà nội (SHB): Sàn giao dịch HNX Ngày giao dịch đầu tiên: 20/04/2009 Tổng tài sản 21,050 tỉ đồng và vốn điều lệ là 2,000,000,000,000 đồng Chủ tịch hội đồng quản trị: Ông Đỗ Quang Hiển. SHB hiện có trên 90 chi nhánh và phòng giao dịch trên cả nước. Chỉ số beta là 1.17 Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu việt nam (EIB): Sàn giao dịch HoSE Ngày giao dịch đầu tiên: 27/10/2009 Vốn điều lệ:8,800,080,000,000 đồng và tổng tài sản là 54,826,508 triệu đồng. Chủ tịch hội đồng quản trị: Ông Nguyễn Thành Long. EIB là ngân hàng có vốn chủ sở hữu đứng thứ 1 trong khối Ngân hàng TMCP Việt Nam. Thị phần huy động vốn của ngân hàng là 2.34 % tổn huy động vốn của cả ngân hàng. Ngân Hàng Thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam(VCB): Sàn giao dịch HoSE Ngày giao dịch đầu tiên: 30/06/2009 Vốn điều lệ 12,100 tỉ đồng. Tổng tài sản:225,092,616,000 nghìn đồng. Chủ tịch hội đồng quản trị: Ông Nguyễn Hòa Bình. Ngân hàng ngoại thương là ngân hàng quốc doanh đầu tiên cổ phần hóa và niêm yết trên thị trường chứng khoán. Ngân hàng có 146 chi nhánh, 2 chi nhánh nước ngoài.VCB là ngân hàng đứng đầu về thanh toán quốc tế và kinh doanh tiền tệ với hơn 30 % thị phần. Ngân hàng thương mại cổ phần công thương việt nam (CTG): Sàn giao dịch HoSE Ngày giao dịch đầu tiên:16/07/2009 Vốn Điều lệ 11,252,972,800,000 đồng. Tổn tài sản là 218,561,995,00 nghìn đồng. Chủ tịch hội đồng quản trị: Ông Phạm Huy Hùng. Đây là ngân hàng quốc doanh thứ 2 tiến hành cổ phần hóa và niêm yết trên thị trường chứng khoán.Thị phần của ngân hàng sụt giảm h chỉ còn lại khoảng 8%. Ngân hàng có 150 sở giao dịch 800 chi nhánh và phòng giao dịch. Tốc độ tăng trưởng hằng năm khoảng 20%. Chỉ só beta là 0.47 ***Sau đây là bảng các chỉ số của các ngân hàng tính đến ngày 20/11 (Theo VNDirect, Bloomberg) Mã CK EPS P/E P/B ROA (%) ROE (%) KLgdTB 10 phiên SLCPđang LH Hệ số thanh khoản ACB 3.33 11.97 4.14 1.85 38.18 1,317,710 767,158,477 0.1717% VCB 2.728 17.67 4.79 1.52 27.12 734,268 1,210,086,026 0.0606% CTG 2.203 13.84 4.23 1.19 26.04 207,991 1,125,297,280 0.0185% EIB 1.618 15.44 -- 3.23 9.33 2,214,989 721,999,934 0.3068% SHB 1.745 15.75 2.71 2.04 17.07 1,282,970 200,000,000 0.6414% STB 2.172 12.52 2.33 1.78 22.93 2,834,922 665,058,009 0.4262% Ngoài ra, trong tình hình hiện nay, có rất nhiều ngân hàng đang rục rịch chuẩn bị nhắm lên sàn, tăng phần sôi động cho thị trường chứng khoán Việt Nam Lựa chọn ngân hàng: Qua sự nghiên cứu, tôi thấy ngân hàng TMCP Thương Tín là 1 ngân hàng nhiều tiềm năng để phân tích và đầu tư STB- Ngân hàng TMCP Thương Tín: Một số bảng dữ liệu: Cân đối kế toán (tr. VND) 2007 2008 2009F 8.458.614 3.224.539 7.047.583 9.346.607 35.008.871 (251.752) 1.254.261 1.696.288 2.653.558 68.438.569 52.161 4.488.354 46,128,820 7,659,063 1.014.462 1.337.085 5.115.831 796,706 984,340 7.758.624 68.438.569 3.335.063 3.878.785 4.656.456 13.320.781 35.378.147 (177.573) 1.495.608 1.019.813 1.665.795 64.572.875 750.177 4.508.977 44,231,944 5,197,380 1.003.293 1.531.445 4.448.814 452,645 1,234,529 7.349.659 64.572.875 Tiền mặt Tiền gửi tại NHNN Tiền gửi và cho vay TCTD khác Đầu tư vào giấy tờ có giá Cho vay khách hàng DPRR tín dụng Góp vốn đầu tư dài hạn TSCĐ TS có khác Tổng tài sản Nợ CP và NHNN Tiền gửi và vay TCTD khác Tiền gửi khách hàng Phát hành giấy tờ có giá Vốn tài trợ, ủy thác đầu tư Tài sản nợ khác VĐL Quỹ dự trữ Lợi nhuận chưa phân phối VCSH Tổng nguồn vốn 6.046.134 3.224.539 9.582.772 18.342.489 44.461.266 (358.409) 1.718.528 2.714.288 3.351.596 89.083.203 45.666 1.449.435 57,066,644 17,862,778 1.014.886 1.290.112 6.700.580 795,111 1,364,265 10.353.682 89.083.203 Thu nhập lãi thuần Lãi thuần từ hoạt động dịch vụ Lãi thuần từ KD ngoại hối &vàng Lãi thuần từ KD chứng khoán Thu nhập từ góp vốn, mua CP Lãi thuần từ hoạt động khác Thu nhập ngoài lãi Tổng thu nhập từ HĐKD Chi phí hoạt động Thu nhập trước DPRR Chi dự phòng rủi ro Lợi nhuận trước thuế Lợi nhuận sau thuế Kết quả kinh doanh (tr.VND) 2007 2008 2009F 1.901.751 571,593 533,586 54,665 164,540 (17,960) 1.306.424 3.208.175 (1.413.895) 1.794.280 (130.642) 1.663.638 1.281.682 1.146.668 562,349 510,041 (1,397) 120,089 116,209 1.307.291 2.453.959 (1.269.935) 1.184.024 (74.097) 1.109.927 954.753 1.151.872 193,398 100,815 599,873 392,089 3,536 1.289.711 2.441.583 (741.225) 1.700.358 (118.387) 1.581.971 1.397.897 Các chỉ tiêu tài chính cơ bản (%) 2007 2008 2009F 30,17 33,45 26,89 39,31 10 - 12 < 2,5 58,86 73,81* 1,63 14,15 2,26 44,07 5,99 5,56 -1,26 8,82 12,16 0,60 64,62 74,57 1,44 12,64 2,14 51,75 160,62 156,05 145,94 146,64 11,07 0,24 71,21 133,14 3,13 27,36 2,86 30,36 Tăng trưởng Tổng tài sản Tỷ lệ tăng trưởng VCSH Tăng trưởng dư nợ ròng Tăng trưởng vốn HĐ dân cư CAR Tỷ lệ nợ xấu Dư nợ ròng/HĐ dân cư DPRRTD/nợ xấu ROAA ROAE Chênh lệch lãi suất Chi phí hoạt động/Tổng thu nhập S Kết quả kinh doanh 6 tháng đầu năm Khả năng sinh lời Cơ cấu thu nhập thay đổi đáng kể với thu nhập từ lãi chiếm tỷ trọng lớn nhất Sự tăng trưởng mạnh của dư nợ tín dụng và đầu tư vào giấy tờ có giá là 2 hoạt động chính khiến tỷ trọng thu từ lãi của Sacombank tăng mạnh lên 60,5% trong tổng thu nhập. Còn lại là thu nhâp từ phí, kinh doanh ngoại tệ & vàng, kinh doanh chứng khoán v.v. Khoản hoàn nhập dự phòng đầu tư chứng khoán hơn 208 tỷ VND trong 2Q09 đã giúp cho Sacombank bù lỗ từ hoạt động mua – bán chứng khoán trong 1Q09. Lũy kế 2 quý đầu năm, ngân hàng có lãi từ đầu tư chứng khoán là hơn 54,7 tỷ VND Khả năng sinh lời được cải thiện nhưng chưa đạt bằng mức trung bình các năm trước Tới 30/06, lợi nhuận sau thuế của ngân hàng đạt hơn 779 tỷ VND, tương đương 81,6% LNST 2008. ROA & ROAE của 4 quý gần nhất đạt 1,61% & 15,52% - cải thiện rõ rệt so với mức 1,44% và 12,64% tương ứng của năm 2008. Tuy nhiên, các chỉ số sinh lời này vẫn chưa phục hồi được mức trung bình của giai đoạn 2004-2007, là 2,29% và 20,65%. Sự cải thiện về khả năng sinh lời chủ yếu do mức chênh lệch lãi suất đầu vào – đầu ra đạt cao nhất từ Q1’08 tới nay khi chí phí vốn giảm do giảm tỷ trọng nguồn vốn liên ngân hàng cũng như lãi suất liên ngân hàng, đồng thời cũng phản ánh mặt bằng chung về lãi suất của 2009 thấp hơn 2008. Tỷ lệ chi phí/ thu nhập giảm mạnh xuống 37,61% trong nửa đầu năm 2009, thấp hơn hẳn so với mức 51,75% của năm 2008 và 40,49% từ 2004 – 2007, thể hiện hiệu quả hoạt động của ngân hàng đang được cải thiện. Tăng trưởng tài sản Tốc độ tăng trưởng nhanh trong đó tín dụng là nguồn tài sản lớn nhất Cấu trúc tài sản có sự điều chỉnh khi Sacombank trở lại tập trung cho hoạt động tín dụng. Tại 30/6/09, dư nợ cho vay ròng chiếm 58,4% tổng tài sản so với mức 50% của đầu 2009. So với đầu 2009, dư nợ ròng đã tăng tới 41,4% trong khi tổng tài sản tăng 22,2%. So với hạn mức tăng trưởng tín dụng do NHNN đề ra cho 2009 là từ 25%-27% thì nhiều khả năng là từ nay tới cuối năm Sacombank phải lo đi thu hồi nợ hơn là phát triển tín dụng. Tuy nhiên, với 62,64% dư nợ có kỳ hạn ngắn thì việc giảm dư nợ sẽ không quá khó khăn. Với định hướng trở thành ngân hàng bán lẻ, cuối 2008 khoảng 47% dư nợ của Sacombank là cho khách hàng cá nhân. 6 tháng đầu năm, tốc độ tăng cho vay cá nhân của ngành ngân hàng ước đạt 21% và nhiều ý kiến cho rằng, NHNN sẽ thắt chặt hơn tín dụng cá nhân. Nếu vậy thì đây sẽ là một khó khăn sẽ ảnh hưởng tới khả năng sinh lời của Sacombank khi lãi suất cho vay doanh nghịêp vẫn bị khống chế bởi lãi suất cơ bản. Mặc dù nợ xấu không được cải thiện nhưng vẫn ở mức thấp hơn bình quân của hệ thống và ngân hàng đã trích lập dự phòng tương đối đầy đủ Chất lượng tài sản không được cải thiện khi tỷ lệ nợ xấu tới 30/06/2009 là 0,7% - tăng so với mức 0,65% của Q1’09 và 0,6% của Q4’08. Tỷ lệ nợ quá hạn giảm từ 1,15% trong Q1’09 xuống 0,99% vào 31/06 chủ yếu do tăng trưởng tín dụng quá nhanh. Tuy nhiên so với mức nợ xấu trung bình ngành 2,52% NHNN mới công bố gần đây (năm 2008 là 2,17%) thì tỷ lệ này của Sacombank là chấp nhận được. Tại 30/06, Sacombank đã trích lập hơn 358 tỷ VND dự phòng, tương đương với tỷ lệ 74% nợ quá hạn, thấp hơn so với mức bình quân 82% của các năm 2005 – 2008. Do khả năng phải giảm dư nợ nên có thể Sacombank sẽ không phải trích lập thêm dự phòng rủi ro tín dụng trong nửa cuối 2009. Tăng cường đầu tư vào chứng khoán nợ Đầu tư Chứng khoán chiếm 12% tổng tài sản, giảm đáng kể so với tỷ lệ cao nhất 20,63% vào đầu 2008. Số dư đầu tư chứng khoán tăng 7,39% so với cuối 2008, trong đó, chứng khoán nợ chiếm 91,54%, tăng 6,26% (tương đương 544 tỷ VND). Cuối Q2’09, Sacombank đã giảm số dư chứng khoán vốn từ hơn 821 tỷ VND đầu 2009 xuống còn 692 tỷ VND. Tiếp tục mở rộng mạng lưới và công ty con Tài sản cố định tăng 462 tỷ VND (+27,2%) so với cuối năm 2008 và tương đương 45% kế hoạch đầu tư mới (mở rộng mạng lưới, bổ sung thiết bị cho hoạt động thẻ và công nghệ thông tin) cho cả năm là 1.018 tỷ VND. Trong kỳ, Sacombank đã nâng tổng số điểm giao dịch của mình lên 265 điểm, tăng thêm 18 điểm so với năm 2008. Sở hữu mạng lưới chi nhánh rộng là một lợi thế để Sacombank phát triển theo định hướng bán lẻ. Sacombank cũng có dự định thành lập Công ty tài chính và Công ty thẻ trực thuộc trong năm 2009. Điều này sẽ giúp chuyên môn hóa hoạt động kinh doanh thẻ và phát triển thêm các sản phẩm dịch vụ tài chính cá nhân. Tăng trưởng nguồn vốn Tăng cường huy động vốn qua phát hành giấy tờ có giá bằng VND Nguồn tiền gửi dân cư và phát hành giấy tờ có giá chiếm gần 97% tổng huy động của Sacombank, tăng đáng kể so với các quý trước. Tương ứng với sự gia tăng của nguồn tiền này là sự sụt giảm của nguồn vốn liên ngân hàng, với tỷ trọng 1,97% tổng nguồn vốn huy động khi khả năng thanh khoản của ngân hàng được cải thiện hơn và không còn phải phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn liên ngân hàng nữa. Hết Q2’09, nguồn vốn huy động từ dân cư tăng 23,71% so với cuối năm 2008, gấp 1,5 lần mức tăng 16,02% của ngành. Hiện nay lãi suất huy động của STB thấp hơn so với các NHTM cỡ trung bình nhưng cao hơn của ACB và VCB. Sacombank đã xin phép NHNN được phát hành tối đa 10.000 tỷ VND giấy tờ có giá trong 2009. Với sự chững lại từ huy động tiết kiệm trong thời gian gần đây, chúng tôi cho rằng đóng góp vào tăng trưởng nguồn vốn huy động của Sacombank sẽ phụ thuộc nhiều vào sự thành công của các đợt phát hành giấy tờ có giá. Vốn chủ sở hữu dự kiến tăng mạnh vào cuối 2009 Năm 2009, Sacombank đã được Đại hội đồng cổ đông thông qua kế hoạch phát hành tăng vốn điều lệ thêm 31%, tức là đạt 6.701 tỷ VND bao gồm phát hành cổ phiếu thưởng (15%), phát hành cho cổ đông hiện hữu (15%) và phát hành cho cán bộ công nhân viên (1%) với giá bán bằng mệnh giá. Từ 2/07 – 07/07, Sacombank đã bán toàn bộ hơn 18,26 triệu cổ phiếu quỹ. Chúng tôi ước tính với giá bình quân 34.600 VND/cp, việc bán cổ phiếu quỹ này đã đóng góp thêm 280 tỷ VND vào nguồn vốn của ngân hàng. Cùng với lợi nhuận tạo ra trong năm, việc phát hành thêm cổ phiếu và bán cổ phiếu quỹ sẽ làm tăng tỷ lệ an toàn vốn cho Sacombank. Triển vọng cuối năm 2009 Môi trường kinh doanh còn nhiều khó khăn Về trung và dài hạn, các biện pháp hỗ trợ lãi suất sẽ phát huy tác dụng, thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, việc hỗ trợ lãi suất dẫn tới mối lo ngại về việc doanh nghiệp đảo nợ để hưởng lãi suất thấp hơn, trong khi hiệu quả đầu tư không được cải thiện thì tỷ lệ nợ xấu có thể tăng trong tương lai. Việc tỷ lệ nợ xấu của ngành tăng từ 2,17% cuối năm 2008 lên 2,52% cuối Q209 (tăng 16%, gần bằng tốc độ tăng của dư nợ) càng thể hiện mối quan ngại về chất lượng hoạt động cho vay. Mặc dù chất lượng nợ của Sacombank hiện đang ở mức tương đối tốt so với ngành, tuy nhiên, trong môi trường hoạt động chung, không phải không có lý do khi ngân hàng chủ động đề ra mục tiêu tỷ lệ nợ xấu dưới 2,5% cho năm 2009. Giữ nguyên lãi suất cơ bản sẽ làm giảm lợi nhuận biên của ngân hàng khi giá vốn đang có xu hướng tăng Từ đầu 2009 tới nay lãi suất cơ bản vẫn được giữ ổn định ở mức 7% và khó có khả năng tăng đột biến do thanh khoản trên thị trường vẫn đang ổn định và chủ yếu do các doanh nghiệp vẫn cần được tiếp tục hỗ trợ để duy trì và phát triển sản xuất. Tuy nhiên, khi dư nợ tín dụng tăng mạnh từ tháng 4 và gói kích cầu hỗ trợ lãi vay với nhu cầu vốn trung và dài hạn đã làm các ngân hàng bước vào “cuộc đua” lãi suất huy động, đặc biệt là với các kỳ hạn dài. Do lãi suất huy động của các ngân hàng đang tăng dần, đặc biệt từ cuối tháng 5 vì vậy lợi nhuận biên sẽ giảm. Cuối tháng 7/09, lãi suất huy động của khối NHTMCP trung bình là 8,6%/năm so với mức 7,95% cuối tháng 4 trong khi mặt bằng chung lãi suất cho vay vẫn là 10 – 10,5%/năm. Biến động tỷ giá VND/USD cũng gây khó khăn cho hoạt động của ngân hàng Bên cạnh đó việc tỷ giá VND/USD liên tục gia tăng so với đồng VND cũng đang tạo ra nhiều khó khăn cho hoạt động của ngân hàng. Trong 6 tháng đầu năm 2009, tỷ giá USD đã tăng 5,3% so với tháng 12/2008. Thực tế các ngân hàng luôn trong tình trạng thừa ngoại tệ cho vay nhưng thiếu ngoại tệ để bán khiến cho tỷ giá mua – bán yết gần như luôn bằng nhau, điều này sẽ làm tác động không nhỏ tới nguồn thu nhập của ngân hàng, đặc biệt là những ngân hàng thực hiện nhiều dịch vụ thanh toán xuất nhập khẩu như Sacombank. Tiền gửi ngoại tệ luôn chiếm 15% nguồn huy động dân cư và phát hành giấy tờ có giá của Sacombank trong khi tỷ lệ cho vay ngoại tệ đang giảm dần từ 23% cuối 2007 xuống 12% hiện nay. Nhưng STB vẫn có khả năng hoàn thành kế hoạch lợi nhuận Sacombank đã có một nửa năm 2009 phát triển khá nhanh, và đúng định hướng ngân hàng đề ra từ đầu năm tuy nhiên việc NHNN giảm tỷ lệ tăng trưởng tín dụng xuống 25 – 27% sẽ khiến Sacombank buộc phải thu hẹp cho vay, do đó làm ảnh hưởng tới quy mô và cấu trúc tài sản của ngân hàng, tỷ trọng dư nợ trên tổng tài sản giảm xuống thay vào đó là sự gia tăng của các khoản đầu tư. Ngoài ra giá vốn đang có xu hướng tăng trong khi lãi suất đầu ra khó mà cải thiện được sẽ làm cho kết quả kinh doanh của 6 tháng cuối năm sẽ kém xa so với đầu năm. Tuy nhiên chúng tôi cho rằng STB vẫn có khả năng đạt được kế hoạch về lợi nhuận năm 2009 do nửa đầu năm đã đạt được 63% kế hoạch. ĐỊNH GIÁ Chúng tôi sử dụng các phương pháp so sánh để định giá cổ phiếu Sacombank. VND/cp VCB CTG ACB Techcombank Eximbank MB BQ 30.500 3.184 9,58 27.500 1.786 15,40 38.500 6.534 5,89 45.200 4.167 10,85 39.500 3.320 11,90 57.000 5.131 11,11 P (06/08/2009) EBTPS P/E 10,79 Theo P/EBPT VND/cp VCB CTG ACB Techcombank Eximbank MB BQ 2.069 14,74 985 27,92 3.248 11,85 3.478 13,00 2.339 16,89 2.083 27,37 EPS P/E Theo P/E Các ngân hàng có mức trích dự phòng rất khác nhau và điều này ảnh hưởng rất lớn đến Lợi nhuận sau thuế, đặc biệt là năm đặc biệt như 2008. Do vậy, để đảm bảo việc so sánh được đầy đủ hơn, chúng tôi so sánh giá của các ngân hàng trên Lợi nhuận trước dự phòng rủi ro VND/cp VCB CTG ACB Techcombank Eximbank MB BQ 3,09 13.755 2,22 17.790 1,55 15.446 2,49 12.219 3,70 10.963 3,60 11.481 4,96 BVPS P/B Theo P/B 18,63 Tổng hợp các phương pháp Sacombank có thương hiệu tốt, quy mô lớn, mạng lưới chi nhánh rộng, chiến lược hoạt động rõ ràng và thích ứng nhanh với những biến động của thị trường. Tuy nhiên những biến động kinh tế vĩ mô năm 2008 đã có ảnh hưởng lớn tới ngân hàng, thể hiện qua khả năng sinh lời sụt giảm mạnh. Đầu năm 2009 hoạt động của ngân hàng đã được cải thiện hơn, nhưng khả năng sinh lời vẫn chưa bắt kịp tốc độ tăng của tài sản cũng như nguồn vốn và ngân hàng cũng chưa khai thác được hết lợi thế để phát triển các dịch vụ bán lẻ. Do vậy, chúng tôi cho rằng Ngân hàng xứng đáng được giao dịch với mức PE, PB cao hơn 5% so với trung bình của thị trường. Giá cổ phiếu Tỷ trọng Giá trị 42.300 Giá cổ phiếu (VND/cp) 5% Premium 5.779 10.691 23.873 40.343 20% 30% 50% 28.893 35.635 47.746 P/EBT P/E P/B C. QUAN ĐIỂM ĐẨU TƯ CUỐI NĂM 2009: TÓM TẮT QUAN ĐIỂM ĐẦU TƯ KQKD không có đột biến so với kỳ vọng cộng với rủi ro từ việc giảm bớt nới lỏng chính sách tiền tệ sẽ làm cho ngành ngân hàng không hấp dẫn bằng các ngành khác có tăng trưởng và KQKD ấn tượng vào cuối năm. Khi những rủi ro “lơ lửng” hiện tại của ngành ngân hàng đã được làm rõ thì đó sẽ là thời điểm nên quan tâm trở lại vào cổ phiếu ngân hàng. Ở thời điểm hiện tại, nhà đầu tư quan tâm đến cổ phiếu ngân hàng nên có quan điểm đầu tư dài hạn, nhà đầu tư ngắn hạn lướt sóng sẽ khó tìm được cơ hội ở cổ phiếu ngân hàng và rất có thể sẽ gặp rủi ro T+4. MỘT SỐ KHÓ KHĂN TRƯỚC MẮT CỦA NGÀNH NGÂN HÀNG Trong bối cảnh kinh tế vĩ mô vẫn còn nhiều khó khăn, mặc dù các biện pháp kích thích kinh tế đang được thực hiện đã mang lại những kết quả ban đầu nhưng rủi ro về vĩ mô cũng như rủi ro từ chính sách tiền tệ là những trở ngại lớn cho đà tăng trưởng của ngành ngân hàng trong thời gian cuối năm. Chúng tôi nhận thấy một số nguồn thu chính của ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng, cụ thể: v Về nguồn thu từ lãi, nguồn thu chủ đạo, chiếm khoảng 60% thu nhập của ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng do tăng trưởng tín dụng chậm lại và lợi nhuận lãi biên bị co hẹp. Tăng trưởng tín dụng trong 9 tháng đầu năm đã đạt 28%, rất gần với mục tiêu 30% mà NHNN đã đặt ra để kiểm soát lạm p

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân tích ngành ngân hàng trên thị trường chứng khoán Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan