Mục lục
Trang
Mở đầu
Phần I Giới thiệu chung về WTO
1. Tổ chức thương mại thế giới WTO
2 Yêu cầu của WTO với pháp luật Việt Nam
Phần II Hoàn thiện thể chế và pháp luật cho phù hợp với yêu cầu của WTO và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
1. Cơ sở thực hiện
1.1. Nghị quyết 48-NQ/TW của Bộ chính trị
1.2. Nghị quyết 71/2006/QH11 về phê chuẩn nghị định thư gia nhập hiệp định thành lập tổ chức thương mại thế giới WTO của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
2. Lộ trình thực hiện các cam kết trước khi Việt Nam là thành viên của WTO
3. Thời kì hậu WTO
4. Những tác động mà WTO mang lại về mặt thể chế và pháp luật
5. Một số hạn chế trong quá trình hoàn thiện thể chế và pháp luật
6. Một số giải pháp hoàn thiện thể chế và pháp luật Việt Nam
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
23 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 9162 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tác động của việc gia nhập WTO tới việc hoàn thiện thể chế và pháp luật ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ật và những quy tắc hành chính của nước mình với các nghĩa vụ của mình được quy định trong các Hiệp định của WTO. Bất cứ một nước thành viên nào một khi đã thừa nhận các hiệp định WTO và những hiệp định phụ khác của WTO thì nước đó cần thiết phải đuều chỉnh hay chuyển các quy định pháp luật và các thủ tục hành chính của mình theo các quy định của WTO.
Để gia nhập WTO, thúc đẩy nhanh tiến trình hội nhập vào nền kinh tế quốc tế, Việt Nam phải đáp ứng yêu cầu của các nước đối tác là thành viên trong WTO. Các nước này luôn đòi hỏi, yêu cầu Việt Nam thực hiện nhanh, tích cực và chủ động hơn việc đổi mới, cải cách, hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách trong nước. Vì thế, WTO có tác động thúc đẩy cải cách. WTO như một chất xúc tác, cộng hưởng với yêu cầu trong nước, tăng gia tốc cho quá trình đổi mới, cải cách. . Khi mà đất nước đã là thành viên của những tổ chức quốc tế đều phải tuân theo những tiêu chuẩn của tổ chức đó chứ không thể như trước đây, khi chưa phải là thành viên. Và hoàn thiện về pháp luật cũng như cải cách về hành chính là điều kiện thiết yếu để chúng ta tối đa hoá các lợi ích của quá trình hội nhập và cũng là công cụ để thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội, các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của nước ta. Một chi tiết nhỏ chưa hoàn thiện của hệ thống luật pháp cũng có thể ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi của hàng trăm doanh nghiệp và đất nước trong sân chơi WTO.
WTO không đòi hỏi cụ thể là Việt Nam phải hoàn tất việc sửa đổi và ban hành mới luật. Vấn đề là Việt Nam phải chứng minh và làm cho họ tin tưởng rằng mình quyết tâm thực hiện đổi mới để phù hợp hơn với luật pháp quốc tế. Quyết tâm đó thể hiện qua những chương trình hành động cụ thể, trong đó có chương trình lập pháp. Những cam kết gia nhập WTO như một mức chuẩn về nền kinh tế thị trường được đông đảo cộng đồng thế giới chấp nhận. Việt Nam có thể căn cứ trên yêu cầu của các nước để soi vào. Việc đổi mới hệ thống pháp luật không phải bắt nguồn từ những nguyên nhân bên ngoài đem lại mà là sự hối thúc bên trong của nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, quá trình đàm phán, ký kết và thực thi các cam kết quốc tế, đặc biệt là cam kết gia nhập WTO, chúng ta nhìn thấy sự phù hợp giữa yêu cầu của đổi mới trong nước với những yêu cầu của cam kết gia nhập WTO. Nhìn chung có sự gặp nhau giữa đòi hỏi, nhu cầu đổi mới, cải cách trong nước và sức ép từ bên ngoài do hội nhập mang lại.
WTO chính là động lực để thúc đẩy cải cách thể chế, chính sách và pháp luật trong nước. Việt Nam đã tận dụng rất tốt vai trò đòn bảy này của WTO. Việt Nam là một nền kinh tế chuyển đổi, đang trong quá trình chuyển từ kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Muốn vậy phải hoàn thiện hệ thống luật pháp, phải đưa ra được chủ trương, chính sách tốt và kịp thời, đồng thời, phải nâng cao năng lực thể chế, xây dựng bộ máy đủ sức mạnh thực thi các chủ trương, chính sách ấy có hiệu quả. Cải cách hành chính, xóa bỏ tiêu cực, trước hết là tập quán xin - cho, làm trong sạch bộ máy các cấp... đó là sự trợ giúp "đúng luật" để hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh.
Hoàn thiện thể chế và pháp luật cho phù hợp với yêu cầu của WTO và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Cơ sở thực hiện
Nghị quyết 48-NQ/TW của Bộ chính trị
Việc cải cách hệ thống pháp luật Việt Nam được Bộ chính trị để ra trong Nghị quyết 48 về chiến lược hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Trước yêu cầu minh bạch hóa hệ thống pháp luật Bộ chính trị chỉ đạo phải xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp, bảo đảm tốt hơn tính dân chủ, pháp chế, công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật; trong đó, các đạo luật ngày càng giữ vị trí trung tâm, trực tiếp điều chỉnh các quan hệ xã hội. Hoàn thiện pháp luật về quy trình xây dựng, ban hành và công bố văn bản quy phạm pháp luật thống nhất cho cả Trung ương và địa phương, theo hướng Quốc hội ban hành luật, giảm dần việc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành pháp lệnh; Chính phủ ban hành văn bản hướng dẫn tổ chức thi hành luật; hạn chế dần thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương.
Bộ chính trị trọng tâm hoàn thiện pháp luật về dân sự, kinh tế, thương mại. Xây dựng pháp luật về sở hữu và tự do kinh doanh, tạo môi trường pháp lý cho cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, phù hợp với các nguyên tắc của WTO. Xây dựng khung pháp lý chung cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, xóa bỏ độc quyền, đặc quyền về kinh doanh, từng bước thống nhất pháp luật áp dụng với đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, pháp luật về sở hữu trí tuệ, mở cửa thị trường bất động sản, thị trường tài chính cũng được yêu cầu sửa đổi cho phù hợp với tình hình kinh tế thế giới.
Nhìn chung Nghị quyết 48 đã tạo lập thêm cơ sở vững chắc, thể hiện quyết tâm cao của các nhà lãnh đạo Việt Nam trong việc đàm phán, gia nhập WTO, coi đây là nhiệm vụ chiến lược hàng đầu trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trong dó hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật là ưu tiên hàng đầu.
Nghị quyết 71/2006/QH11 về phê chuẩn nghị định thư gia nhập hiệp định thành lập tổ chức thương mại thế giới WTO của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nghị quyết này quy định những việc mà các Bộ ngành phải thực hiện cho phù hợp với các cam kết của Việt Nam với WTO, yêu cầu rà soát các cam kết để có hướng sửa đổi, bổ sung, ban hành mới văn bản luật. Các cam kết này được thể hiện khá rõ nét qua Báo cáo của ban công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO. Đơn cử như tại đoạn 157 của báo cáo này có khẳng định rằng ngay từ khi gia nhập, Việt Nam sẽ áp dụng thuế nhập khẩu trên cơ sở MFN (nguyên tắc tối huệ quốc) cho tất cả các quốc gia và lãnh thổ hải quan là thành viên WTO và sẽ áp dụng quyền tăng thuế nhập khẩu phù hợp với các quy định của WTO và các cam kết của Việt Nam trong WTO. Hay tại đoạn 198: Việt Nam đảm bảo các luật, quy định và các biện pháp khác liên quan đến thuế và phí nội địa đánh thuế trên hàng nhập khẩu, ngọai trừ rượu bia sẽ phù hợp với các nghĩa vụ của Việt Nam trong WTO.
Ngoài hai văn bản trên thì một loạt các chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ đã góp phần thúc đẩy nhanh quá trình soạn thảo, nâng cấp các luật Dân sự, Thương Mại, Thuế, Đầu tư…
Lộ trình thực hiện các cam kết trước khi Việt Nam là thành viên của WTO
Hệ thống pháp luật của Việt Nam so với nhiều thành viên khác của WTO là khá toàn diện và đầy đủ. Tuy nhiên do xuất phát điểm thấp, trình độ của các nhà lập pháp chưa cao, chưa theo kịp với những biến động nhanh chóng của xã hội nên pháp luật Việt Nam còn bộc lộ nhiều hạn chế. Do vậy mà cần phải có một lỗ trình để pháp luật trong nước thích nghi với tình hình mới. Hơn nữa nước ta đang trong quá trình chuyển dịch nền kinh tế sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều thuật ngữ, khái niệm pháp lý của ta còn chưa khớp với các quy định của WTO như sở hữu trí tuệ và đặc biệt là nhiều quy định trong Bộ luật Dân sự. Đó còn chưa kể đến những lĩnh vực của WTO mà pháp luật Việt Nam chưa bao giờ điều chỉnh như luật chống bán phá giá, trợ cấp trong nước và trợ cấp xuất khẩu. Trước khi gia nhập WTO Việt Nam đặt mục tiêu gia nhập sớm nhất có thể vào tổ chức này, nên từ Bộ chính trị đến các Bộ ngành thuộc Chính phủ đã đặt ra yêu cầu phải nhanh chóng sửa đổi, ban hành mới luật vào năm 2005. Qua đó thể hiện quyết tâm mạnh mẽ của Việt Nam muốn là một thành viên của tổ chức thương mại lớn nhất hành tinh.
Theo chỉ thị 08/2005/CT-TTG của Thủ tướng Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ thị các Bộ trưởng phải khẩn trương tập trung cán bộ có năng lực trình độ, dành kinh phí, thời gian để hoàn thành các dự án luật Đầu tư, Dự án luật Doanh nghiệp, luật Thuế giá trị gia tăng, luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, luật Luật sư… để Chính phủ trình Quốc hội xem xét, thông qua vào kỳ họp cuối của năm 2005.
Thời kì hậu WTO
Các nước thành viên của WTO đã công nhận những nỗ lực trong đàm phán của Việt Nam trong suốt hơn 12 năm. Đặc biệt là các cải cách bước đầu về lập pháp và thể chế. Những thành quả đó đã giúp cho Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO ngày 11/1/2007, khởi đầu một trang mới trong tiến trình hội nhập của Viêtn Nam. Tuy nhiên, xuất phát từ nhu cầu tự thân của các doanh nghiệp và môi trường kinh doanh trong nước hệ thống pháp luật vẫn cần phải hoàn chỉnh hơn nữa. Đồng thời khẳng định Việt Nam không bội tín trước những cam kết trước đây của mình thể hiện trong các vòng đàm phán.
Mục tiêu tổng quát của việc thực hiện các cam kết của Việt Nam trong WTO được xác định trong Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ X của Đảng "khai thác có hiệu quả các cơ hội và giảm tối đa những thách, rủi ro khi nước ta là thành viên của WTO".
Năng lực cạnh tranh là yếu tố giữ vai trò quyết định sự thành, bại của nền kinh tế sau khi gia nhập WTO. Đây là điều kiện hàng đầu để tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức. Vì thách thức lớn nhất hiện nay đối với Việt Nam sau khi gia nhập WTO là sự yếu kém về năng lực cạnh tranh xét trên cả 3 cấp độ: quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm. Việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với các nguyên tắc và quy định của WTO là một những việc làm không thể thiếu được nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia.
Là thành viên chính thức của WTO, Việt Nam cam kết tuân thủ toàn bộ các hiệp định và quy định của tổ chức này với những nguyên tắc chính là: tự do hoá thương mại thông qua biện pháp giảm và hạn chế thuế quan, xoá bỏ các hàng rào thương mại, mở cửa thị trường trong nước cả về hàng hoá, dịch vụ và đầu tư; không phân biệt đối xử giữa đối tác thành viên này với đối tác thành viên khác (nguyên tắc tối huệ quốc); không phân biệt hàng hoá, dịch vụ, doanh nghiệp trong nước và hàng hoá, dịch vụ, doanh nghiệp các nước thành viên (nguyên tắc đối xử quốc gia); công khai, minh bạch hoá chính sách; giải quyết tranh cấp thông qua cơ quan tài phán của WTO.
Do nước ta là nước đang phát triển ở trình độ thấp, lại đang trong quá trình chuyển đổi, nên trong đàm phán các nước thành viên của WTO đã chấp nhận cho chúng ta một khoảng thời gian nhất định để thực hiện một số cam kết có liên quan đến thuế tiêu thụ đặc biệt, trợ cấp nông nghiệp và phi nông nghiệp, quyền kinh doanh...
Trong thời gian qua Quốc hội, Chính phủ đã có nhiều nỗ lực ban hành nhiều văn bản pháp luật đáp ứng yêu cầu cam kết hội nhập kinh tế nói chung và gia nhập WTO nói riêng. Tuy nhiên, những kết quả đó vẫn chưa đáp ứng được một cách toàn diện yêu cầu thực thi cam kết WTO. Vì vậy, cần phải tiếp tục, khẩn trương rà soát tổng thể, kỹ lưỡng văn bản pháp luật hiện hành, kiên quyết loại bỏ những văn bản pháp luật không còn phù hợp; sửa đổi, bổ sung và xây dựng mới các quy phạm pháp luật, bảo đảm sự tương thích và hài hoà với các quy định và nguyên tắc của WTO.
Trong thời gian tới cần có sự ưu tiên đi trước một bước trong xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật quan trọng để ngay sau khi thực hiện các cam kết WTO nền kinh tế vận hành đồng bộ theo cơ chế thị trường như: thị trường vốn, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ, thị trường lao động, quy phạm về bảo vệ quyền tự do kinh doanh, pháp luật về hỗ trợ kỹ thuật và tiêu chuẩn môi trường trong nước sau khi không còn được duy trì những trợ cấp và bảo hộ vi phạm nguyên tắc WTO.
Nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu của nguyên tắc công khai, minh bạch hoá chính sách, một đòi hỏi cấp thiết đang đặt ra đối với các văn bản pháp luật của ta là phải có tính dự đoán trước. Tuy đã nỗ lực trong việc xây dựng Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư có hiệu lực từ 1/7/2006, nhưng hiện nay các quy định về các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh đang thiếu rõ ràng và khó đoán trước được, do ta chưa ban hành được danh mục ngành, nghề kinh doanh có điều kiện ổn định trong trong thời gian dài và thường thiếu các điều kiện kinh doanh cụ thể. Cần có quy trình khoa học, tránh hình thức để thu hút ý kiến của những doanh nghiệp và hiệp hội doanh nghiệp là những đối tượng sẽ phải thi hành văn bản quy phạm pháp luật, cũng như tiếp thu ý kiến của chuyên gia, bảo đảm quyền của người dân tham gia xây dựng pháp luật.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống quy phạm về kỹ thuật, vệ sinh kiểm dịch...Các tiêu chuẩn về quy cách chất lượng sản phẩm không chỉ giúp ngăn chặn hàng hoá nhập khẩu kém chất lượng, thiếu vệ sinh, bảo vệ người tiêu dùng mà còn là điều kiện quan trọng để kiểm soát chất lượng hàng hoá nhập khẩu đáp ứng yêu cầu kỹ thuật của nước nhập khẩu, tránh các vụ kiện đáng tiếc có thể xảy ra.
Những quy định về trợ cấp trực tiếp cho sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu, nội địa hoá đang áp dụng cần được thay thế bằng những những quy định về hỗ trợ cho phát triển kết cấu hạ tầng, giáo dục, đào tạo, nghiên cứu - triển khai, phát triển thị trường, đổi mới công nghệ hỗ trợ vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, cung cấp thông tin.
Cuối cùng Nhà nước sớm ban hành Luật về Hội để tạo khung pháp luật cụ thể, rõ ràng cho việc thành lập và hoạt động các hiệp hội doanh nghiệp. Các hiệp hội doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các tổ chức kinh tế Việt Nam, bao gồm cả doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ kinh doanh cá thể, tiểu chủ thực hiện hợp tác, liên kết kinh tế. Đồng thời các tổ chức kinh tế Việt Nam phải khắc phục tính riêng rẽ trong sản xuất, kinh doanh đang rất phổ biến hiện nay, phải thấy hết sự cần thiết phải tăng cường hợp tác, liên kết với nhau vì lợi ích của chính mình, của cả cộng đồng doanh nghiệp và của quốc gia. Đây là một trong những việc làm thiết thực nhất của giới doanh nghiệp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam, góp phần nhanh chóng vượt qua những thách thức gay gắt khi thực hiện các cam kết gia nhập WTO.
Những tác động mà WTO mang lại về mặt thể chế và pháp luật
Thứ nhất, Việt Nam xác định sẽ thực hiện các cam kết bằng cách áp dụng trực tiếp hoặc nội luật hóa trên nguyên tắc ưu tiên các điều khoản trong cam kết quốc tế. Theo điều 2 Nghị quyết 71/2006/QH11 ngày 29/11/2006 của Quốc hội phê chuẩn Nghị định thư gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì Việt Nam sẽ áp dụng trực tiếp các quy định của WTO trong trường hợp pháp luật Việt Nam không phù hợp với các quy định của tổ chức này. Điều đó thể hiện rõ lập trường, quan điểm của Việt Nam là tôn trọng thực thi các cam kết quốc tế ngay cả trong trường hợp các cam kết đó khác với chuẩn mực pháp lý của Việt Nam. Nguyên tắc áp dụng điều ước quốc tế là nhân tố bổ sung nhằm bảo đảm chuẩn mực quốc tế vẫn được tôn trọng một khi pháp luật quốc gia chưa tiếp cận với pháp luật quốc tế.
Dưới đây là danh mục một số quy định Việt Nam áp dụng trực tiếp theo phụ lục kèm theo Nghị quyết 71/2006/QH11 ngày 29/11/2006:
TTT
Tên văn bản
Cam kết WTO
Nội dung áp dụng
11
Luật số 60/2005/QH11 Luật doanh nghiệp Các điều 51, 52, 103, 104
Đoạn 503 và Đoạn 504 trong Báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới (sau đây gọi là Ban công tác).
Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần được quyền quy định trong Điều lệ công ty các nội dung sau:
1. Số đại diện cần thiết để tổ chức cuộc họp và hình thức thông qua quyết định của Hội đồng thành viên, Đại hội đồng cổ đông;
2. Các vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng thành viên, Đại hội đồng cổ đông;
3. Tỉ lệ đa số phiếu cần thiết (kể cả tỷ lệ đa số 51%) để thông qua các quyết định của Hội đồng thành viên, Đại hội đồng cổ đông.
22
Luật số 65/2006/QH11 Luật luật sư Điều 69 khoản 1
Cam kết về dịch vụ pháp lý trong Biểu cam kết về thương mại dịch vụ
Tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam dưới các hình thức sau đây:
a) Chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài (sau đây gọi là chi nhánh);
b) Công ty luật trách nhiệm hữu hạn một trăm phần trăm vốn nước ngoài, công ty luật trách nhiệm hữu hạn dưới hình thức liên doanh, công ty luật hợp danh giữa tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài và công ty luật hợp danh Việt Nam (sau đây gọi chung là công ty luật nước ngoài).
33
Luật số 24/2000/QH10 Luật kinh doanh bảo hiểm Điều 9 khoản 2
Cam kết về dịch vụ bảo hiểm trong Biểu cam kết về thương mại dịch vụ
Doanh nghiệp bảo hiểm không phải tái bảo hiểm một phần trách nhiệm đã nhận bảo hiểm cho doanh nghiệp kinh doanh tái bảo hiểm trong nước trong trường hợp tái bảo hiểm cho các doanh nghiệp bảo hiểm ở nước ngoài
44
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 và Luật số 02/2002/QH11 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Các cam kết về minh bạch hoá trong Báo cáo của Ban công tác, Đoạn 509 và Đoạn 519.
Trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan, tổ chức hữu quan tạo điều kiện để các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia góp ý kiến vào dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; tổ chức lấy ý kiến của các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản. Cơ quan chủ trì soạn thảo phải đăng dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ trên Trang tin điện tử của Chính phủ và dành thời gian không ít hơn 60 ngày, kể từ ngày đăng dự thảo để các cơ quan, tổ chức, cá nhân góp ý vào dự thảo.
66
Luật số 50/2005/QH11 Luật sở hữu trí tuệ Điều 26 và Điều 33
Đoạn 397 trong Báo cáo của Ban công tác.
Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình đã công bố để thực hiện chương trình phát sóng không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan.
Tuy thừa nhận hiệu lực áp dụng trực tiếp của các cam kết quốc tế, nhưng Luật Điều ước quốc tế 2005 chưa giải quyết được mối quan hệ của điều ước quốc tế với các văn bản quy phạm pháp luật trong nước.
Thứ hai, Kể từ khi nộp đơn xin gia nhập WTO năm 1995 cho đến khi trở thành thành viên của WTO năm 2007, đặc biệt trong giai đoạn tiền WTO 2003-2005 rất nhiều văn bản pháp luật đã được ban hành hoặc sửa đổi.
Kết quả rà soát sơ bộ của Bộ Tư pháp thực hiện năm 2007 cho thấy tổng số các văn bản quy phạm pháp luật ban hành ở cấp Trung ương được rà soát, đối chiếu và nhận thấy có liên quan trực tiếp đến các hiệp định của WTO là 325 văn bản (43 luật; 31 pháp lệnh; 102 nghị định; 8 quyết định của Thủ tướng; 1 chỉ thị của Thủ tướng; 66 thông tư; 71 quyết định của bộ trưởng; 1 công văn của các bộ, ngành; 2 văn bản của Tòa án Tối cao).
Tổng số các văn bản quy phạm pháp luật ban hành ở cấp Trung ương được kiến nghị sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các cam kết WTO là 44 (16 luật, 1 pháp lệnh, 18 nghị định, 1 quyết định của Thủ tướng; 8 văn bản cấp bộ); được kiến nghị ban hành là 42 (8 luật, 3 pháp lệnh, 14 nghị định, 17 văn bản ở cấp bộ). Đó là chưa kể các văn bản cần được ban hành để thực thi quyền lợi của thành viên trong quan hệ thương mại quốc tế với các nước.
Từ năm 2001 đến 2005, chúng ta đã ký kết gần 700 điều ước quốc tế song phương và 130 điều ước quốc tế đa phương, tăng gần gấp rưỡi so với số điều ước quốc tế được ký kết trong giai đoạn 10 năm trước đó.
Việc hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư, kinh doanh của nước ta nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, tạo môi trường pháp lý bình đẳng, thông thoáng và minh bạch cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài cũng là yếu tố quan trọng được cộng đồng quốc tế quan tâm. Đặc biệt, Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp cùng với Luật Đấu thầu, Luật Cạnh tranh, Luật Sở hữu trí tuệ và một số luật khác được ban hành và có hiệu lực trong năm 2006 đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc thể chế hoá kinh tế thị trường và đường lối mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
Dưới đây là một số luật, Nghị quyết quan trọng mà chúng ta ban hành kể từ ngày WTO nhận đơn xin gia nhập của Việt Nam :
Luật Đầu tư nước ngoài được sửa đổi bổ sung sau năm lần để có được luật Đầu tư 2005 nhằm ngày càng hoạt thiện hơn môi trường đầu tư cho các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế.
Luật Doanh nghiệp 2005 tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư cho phù hợp với các quy định quốc tế.
Luật Thuế thu nhập cá Doanh nghiệp 1997 sửa đổi 2008, Luật Thuế Giá trị gia tăng, Luật Thuế thu nhập cá nhân được sửa đổi theo tinh thần không phân biệt, đối xử giữa các doanh nghiệp, cá nhân trong nước và doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài.
Luật Lao động 2003 cải thiện sự không phân biệt đối xử trong các vấn đề lao động.
Luật Hải quan 2006 chuẩn hóa các thủ tục hải quan.
Luật đất đai cải thiện các quy định và luật lệ liên quan tới đất đai và mở rộng quyền sử dụng đất, giảm mức độ phiền hà cho các nhà đầu tư nước ngoài trong việc hạn chế khả năg huy động vốn của nhà đầu tư thông qua thế chấp đất đai, đảm bảo các ưu đãi dành cho các công ty nước ngoài mà không có ngoại lệ.
Luật Dân sự 2005 và luật Sở hữu trí tuệ 2005 thiết lập hệ thống các quy định hoàn chỉnh và thống nhất về quyền sở hữu trí tuệ. Thêm vào đó Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 đã quy định một số loại tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, bảo đảm các cam kết về các biện pháp chế tài liên quan đến thực thi quyền sở hữu trí tuệ.
Luật Đấu thầu 2005 khắc phục những trở ngại đáng kể xuất phát từ các thủ tục phức tạp, phiền hà trong đó có cả hoạt động của thanh tra Chính phủ và yêu cầu đấu thầu công khai đối với các công trình xây dựng.
Thứ ba, về mặt thể chế
Với những cam kết gia nhập WTO, thể chế công và hệ thống pháp luật được cải thiện và xây dựng trên cơ sở hài hòa lợi ích quốc gia và tuân thủ nguyên tắc quốc tế. Để tạo thế chủ động cho Việt Nam trong tiến trình hội nhập và đảm bảo các cam kết quốc tế, làm cho môi trường thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam ngày càng trở nên hấp dẫn hơn cần phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất. Chính phủ đã tiến hành các biện pháp mang tính tích cực thể hiện tinh thần chủ động hội nhập của Việt Nam. Cụ thể là:
Xây dựng và hoàn thiện các thể chế, trước hết là thể chế kinh tế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thể chế về tổ chức và họat động của hệ thống hành chính nhà nước.
Bảo đảm việc tổ chức thực thi pháp luật nghiêm minh của cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước.
Đổi mới quy trình xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Thu nhận ý kiến của công chúng, nhà đầu tư nước ngoài, các tổ chức quốc tế và khu vực. Việt Nam đã chấp nhận nghĩa vụ cho phép một khoảng thời gian hợp lý, không ít hơn 60 ngày, để cho các cá nhân và tổ chức có liên quan, kể cả nước ngoài, được biết và đóng góp ý kiến trước khi các văn bản quy phạm pháp luật được thông qua.
Các bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương cải tiến phương thức, lề lối làm việc của cơ quan hành chính các cấp. Đề án 30 về đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007-2011 với mục tiêu xây dựng một nền hành chính vững mạnh, trong sạch, chuyên nghiệp, phục vụ nhân dân ngày một tốt hơn đã được tiến hành từ 2005 với 4 nội dung chủ yếu là cải cách thể chế hành chính, cải cách bộ máy hành chính nhà nước, xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu hội nhập và cải cách tổ chức công quyền.
Bộ máy hành chính đã giảm dần các đầu mối quản lý, số lượng các cơ quan quản lý nhà nước đã giảm xuống đáng kể, theo đó thủ tục hành chính được cải cách theo hướng một cửa, mẫu hóa các văn bản hành chính đã góp phần hạn chế sự sách nhiễu, phiền hà, tham nhũng của các cán bộ công chức hành chính trong khi giải quyết các công việc của công dân. Đây là điểm căn bản nhất của cải cách hành chính góp phần tạo tâm lý thỏa mái cho các nhà đầu tư.
Thực hiện nguyên tắc không phân biệt đối xử trong cam kết gia nhập WTO. Việt Nam đã từng bước loại bỏ chế độ hai giá, hai chính sách khác nhau giữa trong nước và nước ngoài. Theo các quy định pháp luật mới của Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp thống nhất, Việt Nam không áp dụng tỷ lệ xuất khẩu bắt buộc đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; bãi bỏ toàn bộ các biện pháp hạn chế số lượng hàng nhập khẩu; bãi bỏ trợ cấp xuất khẩu nông sản và trợ cấp có liên quan đến nội địa hoá.
Chính phủ Việt Nam cam kết không dùng công văn, thông báo và hướng dẫn để điều hành, các cơ quan chức năng mà chỉ được dùng văn bản quy phạm pháp luật để điều hành công việc.
Một số hạn chế trong quá trình hoàn thiện thể chế và pháp luật
Thứ nhất, nội dung các quy định trong nhiều hiệp định Hiệp định của WTO rất phức tạp và không phải lúc nào cũng rõ ràng để hiểu một cách thống nhất. Chính vì vậy, 12 năm qua, đã có hơn 400 vụ tranh chấp xảy ra được đưa đến WTO. Pháp luật Việt Nam vẫn còn có cách hiểu chưa thống nhất nội hàm của một số khái niệm pháp lý liên quan đến nội dung các cam kết và nghĩa vụ thành viên WTO của Việt Nam.
Thứ hai, Việt Nam đã cam kết áp dụng các quy định của WTO trên phạm vi toàn lãnh thổ một cách thống nhất. Điều đó có nghĩa là các văn bản của địa phương cũng phải phù hợp với các cam kết của Việt Nam trong WTO. Tuy nhiên thực tế cho thấy ở nhiều tỉnh thành có sự áp dụng không giống nhau, đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài, các dự án đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất, ưu đãi đầu tư còn có nhiều nhược điểm, chưa hoàn toàn phù hợp với các cam kết WTO của Việt Nam. Nhiều r
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tác động của việc gia nhập WTO tới việc hoàn thiện thể chế và pháp luật ở Việt Nam.doc