Diệt đếlà tích quảNiết bàn do thực hành tịnh nghiệp mà đạo đếmang lại.
Diệt đếlà trừdiệt sựkhổ để đi đến chỗan lạc là chỗkết nghiệp đã hết
không còn luân hồi sinh tửnữa.
Có tịnh nghiệp tất sinh tịnh quả. Ấy là khi diệt đếvọng niệm không còn
khởi lên, tâm hồn luôn an trụtrong cảnh vắng lặng là do cảnh giới Niết Bàn.
Niết Bàn có bốn đặc điểm: Thường - Lạc - Ngã - Tịnh.
Thường là thường còn, không biến đổi.
Lạc là an lạc, giải thoát hết phiền não, thâm tâm tựtại.
Ngã là chân ngã, chân thực, thường còn.
Tịnh là thanh tịnh, trong sạch không còn ô nhiễm.
29 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2849 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Triết học phật giáo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c hiện tượng trong vũ trụ.
Kinh Hoa Nghiêm có ghi:
Nhất tức đa.
Đa tức nhất.
Nhất tức nhất thiết.
Nhất thiết tức nhất.
Có nghĩa là:
Một tức là nhiều.
Nhiều tức là một.
Một là tất cả.
Tất cả là một.
Tóm lại thế giới quan Phật giáo là thế giới quan nhân duyên. Tất cả sự vật
có danh có tướng, có thể nhận thức được, ý niệm được. Cảm giác được hay
dùng ngôn ngữ luận bàn, được đều được Phật gọi là pháp. Các pháp đều thuộc
một giới gọi là Pháp giới. Bản tính của pháp giới là các pháp duyên khởi ra
nhau. Tính ấy là tính của pháp giới nên gọi là pháp giới tính. Do pháp giới
tính là bản tính của các pháp nên gọi là chân, vì vậy pháp giới tính còn gọi là
chân như tính.
8
Giác ngộ được chân như tính thì gọi là tự giác, nhưng thế thì chưa nhận
thức đầy đủ, sâu sắc về pháp giới tính vì vậy các nhà tu hành giác ngộ được
bản lai tự tính còn phải vận dụng pháp giới tính vào nhiều trường hợp khác
để thấy được cái dụng to lớn của pháp giới tính.
Như vậy, người tu hành chỉ khi nào công hạnh giác tha được viên mãn lúc
đó mới chứng thực được toàn thể, toàn dụng của pháp giới tính. Nói một cách
khác là chứng được toàn thể của sự vật gồm cả ba vẻ: thể, tưởng, dụng, chứng
được pháp thân.
II. Nhận thức luận Phật giáo.
1. Bản chất, đối tượng của nhận thức luận.
Bản chất của nhận thức luận Phật giáo là quá trình khai sáng trí tuệ. Còn
đối tượng của nhận thức luận là vạn vật, là mọi hiện tượng, là cả vũ trụ.
Vạn vật là vô thuỷ vô chung, không có sự vật đầu tiên và không có sự vật
cuối cùng. Mọi vật đều liên quan mật thiết đến nhau. Toàn thể dù lớn đến đâu
nếu không có quan hệ với hạt bụi thì cũng không thành lập được. Để diễn đạt
ý trên, một thiền sư đã dùng hai câu thơ:
Càn khôn tận thị mao đầu thượng.
Nhật nguyệt bao hàm giới trí trung.
Có nghĩa là:
Trời đất rút lại đầu lông nhỏ xíu.
Nhật nguyệt nằm trong hạt cải mòng.
Như vậy đạo Phật không phân biệt vật chất và tinh thần vì đó chỉ là hai
trạng thái của tâm, của năng lượng khi ở thể tiềm tàng.
Sau khi đã tìm hiểu về sự vật, hiện tượng chúng ta sẽ tìm hiểu cái tâm trong
đạo Phật để thấy được quan niệm của đạo Phật về tâm và vật.
Thông thường người ta cho rằng đạo Phật là duy tâm vì trong kinh phật có
câu ”Nhất thiết duy tâm tạo “ . Nhưng chữ “ duy tâm “ ở đây không phải là
duy tâm trong triết học Tây Phương nên ta không thể nhận định như trên. Chữ
tâm trong đạo Phật có nghĩa là một năng lượng, nó làm bản thể cho tất cả mọi
9
hiện tượng tâm lý, cho mọi hiện hành. Bản thể là cái chất, là cội gốc của vạn
vật. Khi ta phân tích, chia chẻ một vật đến một phần tử nhỏ nhiệm nhất, đến
phần cuối cùng thì phần tử ấy là bản thể mà ở đây cũng có vật có chất nên đâu
đâu cũng thấy có bản thể, vì vậy tâm cũng lại là to lớn vô biên.
Những tình cảm, ý thức phát sinh phải nương vào hiện tượng sinh lý, vật
lý. Nói nương nhau để phát sinh chứ không phải các hiện tượng sinh lý, vật lý
sinh ra các hiện tượng tâm lý.
Hiểu như vậy thì thấy rõ không phải tâm sinh vật hay vật sinh tâm. Những
hiện tượng sinh lý vật lý và những hiện tượng tâm lý ấy chỉ tương sinh tương
thành.
2. Quy trình, con đường và phương pháp nhận thức.
Sự nhận thức phát triển theo hai con đường tư trào: Hường nội và hướng
ngoại. Phật giáo thường quan tâm đến tư trào hướng nội tức là mỗi người tự
chiêm nghiệm suy nghĩ của bản thân. Có hai phương pháp để nhận thức là :
Tiệm ngộ : là sự giác ngộ, nhận thức một các dần dần, có tính chất là “ trí
hữu sư”.
Đốn ngộ : là sự giác ngộ bột phát, bùng nổ có tính chất là “ trí vô sư “.
Với hai phương pháp ấy sự nhận thức Phật giáo được chia làm hai gia
đoạn:
Giai đoạn một là từ tuỳ giác đến thể nhập. Nhận thức bắt đầu từ cảm giác
và phụ thuộc vào cảm giác đưa lại. Kết quả là con người biết được cái tiếp
xúc giữa thế giới khách quan và giác quan của con người và từ sự tiếp xúc
này tạo nên yếu tố” thọ “ trong ngũ uẩn. Theo nhà Phật nói chữ thọ ở đây là
sự tiếp xúc của sáu căn với sáu trần tạo nên yếu tố thọ. Căn cứ ở đây là những
khả năng nhận thức của các giác quan. Trần là loại kích thích từ thế giới bên
ngoài. Nếu kích thích tương ứng với các căn thì con người có cảm giác. Sáu
căn là : nhăn, nhỉ, tù, thiệt, thân, ý. Sáu trần là: sắc, thanh, hương, vị, xúc,
pháp. “ Thọ”, cho chúng ta nhận biết được những hiện tượng riêng lẻ, những
cái bề ngoài, ngẫu nhiên. Trong một số trường hợp khác gọi đó là kinh
10
nghiệm. Từ những tri thức cảm tính kinh nghiệm nêu trên, con người sẽ đi sâu
để nhập vào bản thể của sự vật để biết được cái bên trong, bản chất đó là tri
thức định lý.
Giai đoạn hai sự nhận thức đi từ cái tâm tại đến cái tâm siêu thể. Từ kết quả
của giai đoạn trước , con người bắt được cái tâm tính của những sự vật hữu
hình tái thế và đặc biệt là cái tâm ở trong mỗi con người và nâng lên để nắm
được cái tâm siêu thoát, cái tâm trung.
Để đạt được sự nhận thức đó thì có nhiều phương pháp song hai phương
pháp sau: Tam học và Tam huệ là chủ yếu.
Tam học là giới, định, tuệ.
Giới: Gồm có nhứng phương tiện để thay đổi lối suy nghĩ, lối sinh hoạt
hàng ngày của con người sống theo đạo, thích hợp với đạo là luôn hướng về
thiện.
Định: là đình chỉ mọi tư tưởng xấu, ý nghĩ xấu và còn là tập trung tư tưởng
suy nghĩ để làm mọi việc yên lành.
Tuệ: là trí tụê sáng suốt, đã thấu được lý vô thường, vô ngã, do đó chỉ nghĩ
đến làm việc thiện, mưu lợi cho chúng sinh.
Tam huệ: là văn, tu, tư.
Văn: là nghe pháp phật, hiểu rõ ý nghĩa, quan niệm được bản tính thanh
tịnh, sáng suốt của mình, do đó mà có một lòng tin vững chắc nơi Phật pháp.
Tư : là suy nghĩ về các pháp Phật đã nghe được, học được đi đến giác ngộ
bản lai tư tính của mình.
Tu: là nương theo trí tuệ, bắt đầu trực nhận được bản tính chân như, mà tụ
tập gột rửa những thói quen mà lầm từ nhiều kiếp để lại đi đến nhập với một
pháp giới tính.
Các phương pháp trên đã phá tan các kiến chấp sai lầm chấp ngã, chấp
pháp để đi đến trung đạo và nhận rõ trung đạo là chẳng có, chẳng không. Với
nhận thức như thế, người tu hành sẽ được sống trong sự giải thoát, sinh tử
luân hồi sẽ không còn nữa.
11
III. Nhân sinh quan Phật giáo.
Từ một vũ trụ quan căn cứ trên những thuyết nhân duyên sinh, thuyết sự
vật duyên khởi đi đến nhận thức là vô thủy, vô chung, từ những thuyết vô
thường, vô ngã bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu về những quan niệm của Đạo
Phật về vấn đề nhân sinh quan. Ở đây chúng ta sẽ lần lượt trả lời các câu hỏi:
– Con người là gì ? Từ đâu mà sinh ra? Chết rồi đi đâu ?
Vị trí của con người trong Đạo Phật.
– Quan niệm của Phật về các vấn đề:bình đẳng, tự do, dân chủ....
–Có phải cuộc sống chỉ toàn là đau khổ ? và vấn đề giải thoát trong Đạo
Phật là gì ?
Trước khi trả lời các câu hỏi trên chúng ta sẽ tìm hiểu và phân tích Tứ diệu
đế vì đây là giáo lý kinh điển của Phật giáo bao quát toàn bộ các vấn đề trên.
1. Tứ diệu đế:
Tứ diệu đế hay còn gọi là tứ chân đế hay tứ thánh đế, là bài thuyết pháp đầu
tiên của Phật sau khi thành đạo tại vườn Lộc giã cho năm từ khưu trước kia đi
theo Phật.
Tứ đế là đạo lý căn bản của Thanh Văn Thừa, đồng thời cũng là cơ sở của
các thuyết khác trong giáo lý Phật.
Tứ đế gồm có: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.
a. Khổ đế:
Trong tứ đế, Phật đưa ra đầu tiên vấn đề khổ, rồi giảng cho ta thấy vì sao
mà khổ , phương pháp diệt khổ và con đường đi đến diệt khổ.
Nói như thế có người hiểu lầm cho rằng đạo Phật chủ trương cuộc đời chỉ
toàn là khổ, và đạo Phật là đạo yếm thế. Thực ra, đạo Phật nhìn cuộc đời một
cách khách quan, không ru người ta vào một giấc mơ Niết Bàn hay cực lạc và
cũng không làm cho người ta sợ hãi, chán nản bởi những đau khổ trong cuộc
sống. Phật chỉ cho chúng ta nhận thức sự vật, cuộc đời theo chân tướng của
nó và chỉ dẫn cho chúng ta đi đến giải thoát.
12
Danh từ Dukkha của tiếng Xantít ta thường dịch là khổ là chưa thật hết
nghĩa nên mới dẫn đến những hiểu lầm trên.
Trong phép tướng duy thức có nói đến ba loại thụ: khổ thụ, lạc thụ, xả thụ.
Như vậy không phải chỉ có khổ thụ mà còn có lạc thụ. Đối với cảnh nghịch
sinh ra khổ thụ nhưng đối với cảnh thuận thì sinh ra lạc thú. Các cảnh có thể
làm cho người ta vui hoặc khổ hoặc không vui, không khổ. Đạo phật không
phủ nhận những cảm giác vui (lạc thú ) của cuộc đời mà còn phân tích ra
nhiều hình thức vui. Nhưng những cái vui ấy, cũng như những cái khổ ấy đều
bao gồm trong danh từ Dukkha, vì những cái vui, cũng như những cái khổ ấy
đều là vô thường hư giả.
Dù người tu hành chứng được những trạng thái thiền định cao siêu thì
những lạc thú siêu thoát ấy vẫn là Dukkha vì những người tu hành ấy chưa
thoát khỏi tam giới vô thường, hư giả.
Khổ thụ và lạc thụ đều là Dukkha cả, do đó chúng ta phải diệt là diệt cái
Dukkha ấy chứ không phải là tránh khổ, tìm vui như thế gian thường hiểu,
thường lầm.
Theo cách phân tích khác Phật chia cái khổ ra làm 8 loại:
1, Sinh khổ: Đã có sinh là có khổ vì đã sinh nhất định có diệt, bị luật vô
thường chi phối nên khổ.
2, Lão khổ: người ta mong muốn trẻ mãi nhưng cái già theo thời gian vẫn
cứ đến. Cái già vào mắt thì mắt bị mờ đi, cái già vào lỗ tai thì tai bị điếc, vào
da, xương tủy thì da nhăn nheo, xương tủy mệt mỏi. Cái già tiến đến đâu thì
suy yếu đến ấy làm cho người ta phiền não.
3, Bệnh Khổ: Trong cuộc sống, thân thể thường ốm đau, nhất là khi già
yếu, thân thể suy nhược, bệnh tật dễ hoành hành làm cho người ta đau khổ.
4, Tử khổ : Là cái khổ khi người ta chết. Chứng sinh do nghiệp báo chịu cái
thân nào thì gắn bó với cái thân ấy coi như cái thân duy nhất của mình thì khi
chết thì phiền não vô cùng.
13
5, Cầu bất đắc khổ: Người ta thường chạy theo những điều mình ưa thích,
mong cầu hết cái này đến cái khác. Khi chưa cầu được thì phiền não, khi cầu
được rồi thì phải lo giữ nó, nếu nó mất đi thì lại luyến tiếc.
6, Ái biệt ly khổ: nỗi khổ khi phải chia ly.
7, Oán tăng hội khổ: những điều mình chán ghét thì nó cứ tiến đến bên
mình.
8, Ngũ ấm xí thịnh khổ: ngũ ấm ấy là sắc ấm, thụ ấm, tưởng ấm, hành ấm,
thức ấm. Ngũ ấm ấy che lấp trí tuệ, phải chịu cái khổ luân hồi trong vô lượng
kiếp.
b. Tập đế:
Tập đế còn gọi là nhân đế, là những nguyên nhân tạo thành sự khổ. Những
nguyên nhân đó không phải tìm đâu xa mà ở ngay trong mỗi chúng ta.
Nguyên nhân thì có nhiều nhưng có thể tóm lại như sau:
1.Tham lam.
2.Giận dữ.
3.Si mê.
4.Kiêu mạn.
5.Nghi ngờ.
6.Thân kiến ( tưởng thân thể là thực có là trường tồn).
7.Biên kiến ( sự hiểu biết một mặt như chấp đoạn, chấp thưởng ).
8.Tà kiến ( sự hiểu biết không đúng ).
9.Kiến thử ( chấp trí hiểu biết của riêng mình là đúng).
10.Giới cấm tu ( tu hành không chính đạo ).
Ba nguyên nhân chính ( tham, sân, si) Phật còn gọi là tam độc, là nguồn
gốc của mọi sự khổ. Nguyên nhân của tam độc là do ái dục và vô minh được
thể hiện trong công thức sau:
Nghiệp
Ái dục + Vô minh ––––> Sự khổ.
14
Ái dục: là tham ái, yêu thích do cảm thụ đi đến suy đắm trước những cảnh
yêu thích, vừa lòng, chán ghét cảnh trái ý. Vì say đắm với những cảnh nên
rong ruổi theo cảnh, bám lấy cảnh hình thành nên tham vọng và ước muốn.
Vô minh: là mê lầm, không sáng suốt. Đối với những hiện tượng trụ không
nhận rõ chân tướng, thực tướng của nó là sự chuyển biến không ngừng, là vô
thường mà lại lầm tưởng các hiện tượng đó là thực có, là thường còn. Vô
minh che lấp ta không nhận thấy được chân tâm mà luôn luôn chạy theo vọng
tâm, làm ta thấy có thân, có cảnh, có ta, có người của ta và thấy quý thân ta,
không quan tâm đến người sống quanh ta.
Nghiệp là những hoạt động về thân thể, về lời nói ý nên Phật gọi là thân
nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp.
Kết quả của hành động ấy gọi là nghiệp báo. Không phải hoạt động nào của
ta cũng gây nghiệp báo. Những việc như : đi, đứng, nhìn, ngồi,... thì không
gây nghiệp báo.
Nghiệp có hai loại: Nghiệp thiện và nghiệp ác.
Nghiệp thiện : là những việc có lợi cho người và đem lại quả báo tốt cho
mình.
Nghiệp ác: là những việc làm hại cho ngươi và đem lại quả báo xấu cho
mình.
Như vậy, Phật đặt số mệnh của con người trong chính tay họ. Tự con người
đã gây nên nỗi khổ cho mình. Do đó, Phật đưa ra lý thuyết thập nhị nhân
duyên để thấy được nguồn gốc của sự vật trong thế gian. 12 nhân duyên là sợi
dây liên tục nối tiếp con người trong vòng sinh tử luân hồi đó là:
1. Vô minh 5. Lục nhập 9. Thù
2. Hành 6. Xác 10. Hữu
3. Thức 7.Thụ 11.Sinh
4. Danh sắc. 8.Ái 12. Lão tử.
Tập đế là một chân lý thể hiện tính biểu chứng sâu sắc trong mối quan hệ
nhân quả và đã tìm tới các nguyên nhân rất đa dạng, phong phú. Các nguyên
15
nhân ấy quan hệ với nhau, cái nào cũng có thể làm nhân làm duyên cho cái
khác, như làn sóng trên mặt biển, lớp trước là lớp nhân là duyên cho lớp sau
và cứ thế tiếp diễn. Nhưng cái hạn chế của tập đế là chưa đề cập đến nguyên
nhân từ xã hội. Đặc biệt là chưa nhắc tới quan hệ giai cấp, bóc lột trong xã
hội. Luận điểm này thể hiện rõ từ trào hướng nội hướng nội trong nhận thức
luận Phật giáo.
c. Diệt đế:
Diệt đế là tích quả Niết bàn do thực hành tịnh nghiệp mà đạo đế mang lại.
Diệt đế là trừ diệt sự khổ để đi đến chỗ an lạc là chỗ kết nghiệp đã hết
không còn luân hồi sinh tử nữa.
Có tịnh nghiệp tất sinh tịnh quả. Ấy là khi diệt đế vọng niệm không còn
khởi lên, tâm hồn luôn an trụ trong cảnh vắng lặng là do cảnh giới Niết Bàn.
Niết Bàn có bốn đặc điểm: Thường - Lạc - Ngã - Tịnh.
Thường là thường còn, không biến đổi.
Lạc là an lạc, giải thoát hết phiền não, thâm tâm tự tại.
Ngã là chân ngã, chân thực, thường còn.
Tịnh là thanh tịnh, trong sạch không còn ô nhiễm.
Niết Bàn là sự chấm dứt mọi phiền não được thực hiện không phải ở một
nơi nào khác, một cõi nào khác mà thực hiện ngay trong cõi thế gian này, nhờ
sự tu hành nghiêm túc mang lại cho ta mọi trạng thái tinh thần đặc biệt: Trạng
thái an lạc, siêu thoát, tịnh diệt.
Phật dạy rằng: khi môn đệ làm cho lòng mình sạch hết tham lam, nóng giận
và si mê thì môn đệ đã đến được bến giác, tức là cảnh giới Niết Bàn. Do đó,
con người phải dày công tu dưỡng, xoá bỏ được lửa dục, lửa sân, lửa si mê để
chứng được cảnh giới Niết Bàn ngay trong cõi đời hiện tại.
d. Đạo đế:
Đạo đế là con đường, là môn pháp hướng dẫn cho chúng sinh đạt được đến
quả giải thoát, ra khỏi luân hồi sinh tử.
16
Pháp môn tu dưỡng ra khỏi luân hồi sinh tư rất nhiều, nhưng thường được
đề cao là phương pháp 37 đạo phẩm.
Phương pháp này gồm có:
1.Tứ niệm xứ: 4.
2.Tứ chính cần: 4.
3.Tứ như ý túc: 4.
4.Ngũ cân: 5.
5.Ngũ lực: 5.
6.Bát chính đạo: 8.
7.Thất giác : 7.
Trong 37 đạo phẩm, bát chính đạo là quan trọng nhất. Nó là con đường
giúp người ta thoát khỏi phiền não, đau khổ đi tới cảnh giới Niết Bàn tự tại,
an lạc. Bát chính đạo gồm có:
1. Chính ngữ : là tu nghiệp thanh tịnh, không phát ra lời nói sai trái.
2. Chính nghiệp: hành động chân chính, mang lại lợi ích cho mọi người.
3. Chính mệnh: sống bằng nghề nghiệp chân chính.
4. Chính tịnh tiến : tiến tới trên con đường đạo, không đi vào các đường tà.
5. Chính niệm: tâm trí luôn luôn nghĩ đến đạo lý vô ngã, diệt trừ những
kiến chấp mê lầm, đoạt trừ những tư tưởng, hành động bất chính.
6. Chính định : Giữ tâm vắng lặng không một vọng niệm khởi lên để trí
tuệ xuất hiện, chứng quả tu đà hoàn.
7. Chính kiến : kết quả của việc sống, tư duy con người phải có ý biến lấy
tiêu biểu là các vị Phật.
8. Chính tư duy: Sau khi có niệm khởi, con người sẽ tư duy, suy nghĩ một
cách chân chính, làm chủ được dòng tư duy.
Để đi qua tám con đường trên thì không ngoài ba nguyên tắc: giới, định,
tuệ hay còn gọi là tam học. Các nguyên tắc này có sự liên hệ mật thiết bổ
xung cho nhau.
17
1.Giới học: là cả một thiên luân lý thực hành của Đạo Phật, mục đích để
kiềm chế rồi đi đến diệt lục. Giới gồm những phương tiện để thay đổi lối suy
nghĩ, lối sinh hoạt hàng ngày của con người, hướng con người sống theo đạo,
thích hợp với đạo, tức là luôn hướng về thiện .
Phật chỉ định ra nhiều giới đạo cho người tu hành tại gia, tu xuất gia, cho
nam giới, nữ giới, cho người mới vào đạo và người tu lâu ngày. Người tu
hành phải giữ giới nghiêm túc thì mới định được. Nếu không giữ được tất con
người luôn bị vọng dộng, bị cảnh chuyển, không vào cảnh định được.
2. Định học là đình chỉ mọi tư tưởng xấu ý nghĩa xấu nguyên nhân phát
sinh những hành động xấu đi đến gây nghiệp báo xấu. Định còn là tập trung
tư tưởng, suy nghĩ làm những việc lành, từ đó nảy sinh một trạng thái an lạc,
tạo điều kiện cho tuệ phát ra.
3. Tuệ học : là trí tuệ sáng suốt của người tu hành đã diệt được dục vọng,
đã diệt được tam độc là tham, sân, si, đã thấu được lý vô thường, vô ngã do đó
chỉ nghĩ đến làm điều thiện, mưu lợi cho chúng sinh.
Với pháp tứ diệu đế Phật muốn cho chúng sinh thấy 2 cảnh giới khác nhau
là Niết Bàn và Thân Lụy: một con đường giác ngộ, an lạc và một con đường
mê lầm tội lỗi. Và cùng phương pháp tứ diệu đế, bây giờ chúng ta có thể trả
lời được các câu hỏi đã đặt ra ở trên.
2. Những quan điểm về nhân sinh quan Phật giáo.
a. Con người:
Con người là sự kết hợp của ngũ uẩn( sắc, thụ, tưởng, hành, thức) gồm hai
yếu tố chính: yếu tố sinh lý( sắc) và yếu tố tinh thần ( thụ, tưởng, hành, thức).
Yếu tố tinh thần chỉ phát huy tác dụng khi nó được gắn với một thân thể.
Sắc thân chỉ tồn tại trong một thời gian rồi bị huỷ diệt.
Như vậy, con người chỉ là một giả hợp sinh lý tuân theo quy luật: sinh, tục,
dị, diệt.Con người là do nhân duyên hoà hợp, không có một đấng tối thượng
siêu nhiên tạo ra con người cũng như con người không phải tự nhiên mà sinh
ra. Khi nhân duyên hoà hợp thì con người sinh, khi nhân duyên tan rã thì con
18
người chết. Song chết chưa phải là hết, linh hồn cũng không bất tử chuyển từ
kiếp này sang kiếp khác. Con người ở kiếp này sinh ra thì con người ở kiếp
trước diệt, nhưng con người ở kiếp sau không phải là con người ở kiếp trước
nhưng cũng không khác với con người ở kiếp trước. Con người không phải là
một thực thể trường tồn mà chỉ là một giả hợp của ngũ uẩn. Trong thời gian
ngũ uẩn kết hợp, các việc thiện, ác được thực hiện. Con người gây nghiệp và
tạo ra một động lực làm xuất hiện nghiệp báo ở kiếp sau.
Từ nhận thức trên, con người tu Phật lúc nào cũng phải cẩn thận trong một
ý nghĩ, lời nói việc làm.
b. Nhân vị trong đạo Phật.
Đạo Phật là đạo chủ trương tự do, bình đẳng, từ bi, bác ái. Ở một thời đại
cổ xưa cách chúng ta trên 25 thế kỷ Phật đã có một quan niệm hết sức tiến bộ
đối với vấn đề bình đẳng trong xã hội. Phật đã từng nói:
“ Không có đẳng cấp trong dòng máu đỏ như nhau, trong dòng nước mắt
cũng mặn như nhau. Mỗi người sinh ra không phải ai cũng mang sẵn dây
chuyền ở cổ hay dấu tica trên trán ( dấu hiệu đẳng cấp của Ấn Độ ) ”.
Và những quan niệm đó được Phật thực hiện ngay trong giáo hội của mình.
Phật thu nạp vào giáo hội của Người tất cả mọi đẳng cấp, không phân biệt
sang hèn, giàu nghèo. Những người ở tầng lớp dưới sau khi tu đắc đạo đã
được các đệ tử khác tôn trọng, cho đến các vua quan khi đến thăm hỏi cũng
phải tỏ lòng kính mến.
Không dừng lại ở sự bình đẳng giữa con người với con người mà Phật còn
đi xa hơn, nêu lên sự bình đẳng giữa các chúng sinh đều có Phật tính như
nhau và đang cùng nhau: người trước, vật sau, tiến bước trên con đường giải
thoát.
Tự do theo quan niệm của Phật là con người sống trong an lạc, giải thoát,
không có áp bức, nô lệ, cũng không bị chi phối bởi ngũ dục. Con người bị
ràng buộc bởi ngoại cảnh và một phần bởi nội tâm. Những sự áp bức, những
day dứt gây ra bởi dục vọng còn khắc nghiệt bằng vạn ngoại cảnh. Nhà lao,
19
cường quyền, tham nhũng, tàn ác còn chưa khắc nghiệt bằng cái ta ích kỷ. Từ
đó, Phật chú trọng đến giải phóng con người ra khỏi xiềng xích của dục vọng
bằng phương pháp tu hành diệt dục. Để sống tự do phật tử phải đấu tranh với
bản thân mình để diệt trừ dục vọng và đấu tranh để chống mọi sự áp bức bất
công.
Người ta gọi đạo phật là đạo từ bi, người tu hành là người giàu lòng từ bi.
Từ là hiền hoà, cho vui.
Bi là thương xót, cứu khổ.
Từ bi là đen lại an lạc, hạnh phúc cho người khác, cứu khổ, cứu nạn cho
chúng sinh, quên đi mọi ích lợi của bản thân mình. Nhưng từ bi không phải là
thủ tiêu mọi sự đấu tranh, giữ thái độ tiêu cực, thụ động trước mọi sự bất
công, áp bức, tham nhũng. Có sức mạnh hung bạo thì phải có sức mạnh của từ
bi để chống lại. Sức mạnh đó thể hiện bằng sự giáo hoá và bằng cả bạo lực,
bạo lực từ bi.
Hai chữ từ bi càng đẹp biết bao nhiêu đối với những con người thực tâm tu
luyện thì càng xấu xa bao nhiêu đối với những kẻ lợi dụng đạo để mưu cầu lợi
ích cho mình. Vấn đề giải thoát là vấn đề cơ bản trong đạo Phật vì mục đích
cuối cùng của đạo Phật là giải thoát con người khỏi cuộc sống đau khổ trong
vô minh.
Sự giải thoát không chỉ nhằm đấu tranh chống những áp bức về xã hội về
kinh tế như lịch sử Phật giáo đã chứng minh mà sự giải thoát nhằm tiêu diệt
tận gốc mọi đau khổ là tham lam và dục vọng. Việc giải phóng này là con
người phải tự lực đảm nhiệm, không ai có thể làm thay được và mỗi người
phải coi sự giải thoát là cứu cánh cuối cùng của cuộc đời.
Như vậy, Đạo Phật đã đặt con người lên một vị trí hết sức quan trọng và
cao quý. Hạnh phúc của con người là do con người xây đắp nên. Con người
thấm nhuần giáo lý Phật, con người vị tha, từ bi, hỉ, xả sẽ kiến lập một xã hội
hoà bình, an lạc, công bằng, mọi người sống vì lợi ích của nhau, của tập thể.
20
Trái lại, con người ích kỷ chỉ biết mình, hại người, con người sống tàn bạo,
độc ác thì cái gì trong tay con người cũng sẽ trở thành khí cụ sát hại và xã hội
của những con người ấy là xã hội của địa ngục, xã hội áp bức bóc lột.
21
CHƯƠNG III
ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO PHẬT ĐỐI VỚI XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG CON
NGƯỜI VIỆT NAM.
Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ I sau công nguyên kết hợp với
phong tục, tập quán truyền thống dân tộc Việt Nam hình thành nên Phật giáo
Việt Nam. Trải qua một khoảng thời gian dài, Phật giáo ở Việt Nam không
ngừng phát triển, lớn mạnh và đã tạo nên một dấu ấn sâu đậm trong việc hình
thành đạo đức, nhân cách con người Việt Nam, nền văn hoá Việt Nam.
Những ảnh hưởng tích cực của Phật giáo vẫn đang được con người Việt Nam
phát huy để phục vụ cuộc sống. Song bên cạnh đó, Phật giáo cũng có những
ảnh hưởng tiêu cực. Trong chương này chúng ta sẽ đi sâu phân tích các vấn đề
trên.
I. ĐẠO PHẬT VỚI VIỆC HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH CON NGƯỜI VIỆT
NAM.
Phật giáo là một tôn giáo, như các tôn giáo khác, Phật giáo cũng gồm có
giáo lý và hoạt động tín ngưỡng. Giáo lý là một hệ thống các quan điểm về
thế giới và con người, về cách thức tu luyện và hoạt động tín ngưỡng, là
những hành vi, những nghi lễ cần phải thực hiện để đạt tới ước nguyện. Cả
hai đều có ý nghĩa đối với việc hình thành nhân cách của các tín đồ.
Hơn lúc nào hết, trong mấy chục năm qua người Phật từ Việt Nam hiện nay
rất chăm lo đến việc thực hiện các nghi lễ của đạo mình. Họ chăm chú lên
chùa trong những ngày sóc, vọng; họ trân trọng và thành kính trong lúc thực
hành các nghi lễ; họ siêng năng trong việc thiền định, giữ giới, làm thiện. Mặt
khác, nhà chùa luôn sẵn sàng thực hiện các yêu cầu của họ như giải oan, cầu
siêu. Tất cả những điều đó vừa củng cố niềm tin vào giáo lý, vừa quy định tư
duy và hành động của họ, tạo cơ sở để hình thành những nhân cách riêng biệt.
22
Con người Phật giáo nhìn sự vật trong mối quan hệ nhân quả, xem cái gì
cũng là kết quả của một cái trước và là nguyên nhân của cái sau. Mỗi khi gặp
một sự việc hệ trọng có liên quan đến bản thân hay người nhà, họ đều nghĩ
đến nguyên nhân để tìm cách khắc phục. Học còn nhìn thế giới, xã hội con
người ở trong dòng vận động không ngừng, ở đó không có cái gì là tồn tại
mãi, cái gì cũng đang chuyển biến từ cái này sang cái khác. Khi người thân
trong gia đình lão già, yếu đau, chết chóc, họ đều xem đó là điều không thể
tránh khỏi và lấy đấy làm điều an ủi. Lý thuyết nhân duyên sinh, vô thường,
vô ngã của nhà Phật đã chi phối ý nghĩ và hành động của họ.
Nhân cách Phật giáo đã góp phần làm nên nhân cách của con người Việt
Nam ngày nay. Nhân cách đó có tác dụng hai mặt. Mặt tích cực là chấp nhận
sự biến đổi của thế giới và con người, sống có nền nếp, trong sạch, giản dị,
quan tâm đến nỗi khổ của người khác, thương người, vị tha, cứu giúp người
hoạn nạn, hành động thì lấy tự giác làm đầu... Mặt tiêu cực là nhìn đời một
cách bi quan, có pha trộn chất hư vô chủ nghĩa, nặng về tin tưởng ở quyền
năng và phép màu nhiệm của một vị siêu nhiên mà nhẹ về tin tưởng năng lực
hoạt động của con người, nếp sống thì khổ hạnh và không tránh khỏi nương
theo những nghi lễ thần bí. Đặc biệt là có hiện tượng mê tín dị đoan như: Lên
đồng, đốt vàng mã, những đồ dùng bằng giấy. Những tư tưởng mê lầm đó vừa
phung phí tiền bạc, thời gian lại làm xuất hiện trong xã hội những loại người
ch
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- t029_7775.pdf