Hồ Chí Minh nêu: “Các nước thuộc địa phương đông không phải làm ngay cách mạng vô sản, mà trước hết giành độc lập dân tộc. Có độc lập dân tộc rồi mới bàn đến cách mạng xã hội chủ nghĩa”. Từ thực tiễn của đấu tranh cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã phê phán quan điểm các đảng cộng sản Tây Âu không đánh giá đúng vai trò, vị tri, tương lai của cách mạng thuộc địa và Nguyễn Ái Quốc đi đến luận điểm: ‘‘Các dân tộc thuộc địa phải dựa vào sức mình là chính, đồng thời biết tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của giai cấp vô sản và nhân dân lao động thế giới để phải đấu tranh dành độc lập cho dân tộc, từ cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa”
14 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5330 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp trong tình hình mới của đất nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu mang hình thức dân tộc. Như vậy, Mác-Enghen đã thấy được mối quan hệ gắn bó giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Hai ông không xem nhẹ vấn đề dân tộc. Tuy nhiên, hai ông không đi sâu giải quyết vấn đề dân tộc vì:
- Tại các nước này, mâu thuẫn cơ bản của xã hội là mâu thuẫn giữa hai giai cấp đối kháng: tư sản và vô sản.
- Về cơ bản, ở châu Âu, vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong cách mạng tư sản.
- Vào thời của Mác, hệ thống thuộc địa đã có, nhưng các cuộc đấu tranh giành độc lập chưa phát triển mạnh.
Do vậy, trong sự nghiệp giải phóng hai ông nhấn mạnh đến giải phóng giai cấp công nhân.
Mác-Enghen viết: "Hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác sẽ được xóa bỏ" và "Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo". Như vậy theo Mác-Anghen, để giải quyết sự đối kháng dân tộc, trước hết phải giải quyết sự đối kháng giai cấp, giải phóng giai cấp là nhiệm vụ trung tâm, là điều kiện để giải phóng dân tộc. Lênin từng nhận xét, đối với Mác so với vấn đề giai cấp vô sản thì vấn đề dân tộc chỉ là vấn đề thứ yếu thôi.
V.I.Lênin sinh ra và hoạt động chủ yếu ở nước Nga rộng lớn, chủ nghĩa tư bản phát triển ở mức trung bình, trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản phát triển trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, ở các nước tư bản chủ nghĩa trên thế giới đã xuất hiện và phát triển hoàn toàn gay gắt mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc thực dân.
Đến thời điểm này, chủ nghĩa đế quốc trở thành hệ thống thế giới, cách mạng giải phóng dân tộc trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản, Lênin mới có cơ sở thực tiễn để phát triển vấn đề dân tộc thuộc địa thành một hệ thống lý luận. Lênin cho rằng cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chính quốc sẽ không giành được thắng lợi, nếu nó không liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức.
Lênin đã vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác tiến hành cách mạng Nga thành công, đi từ giải phóng giai cấp đến giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại với khẩu hiệu: “vô sản toàn thế giới và dân tộc bị áp bức liên hiệp lại”.
Từ đó Người cùng với Quốc tế cộng sản bổ sung khẩu hiệu nêu trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: "Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại."
Sau khi Lênin mất, Ban lãnh đạo Quốc tế cộng sản một thời gian dài đã nhấn mạnh vấn đề giai cấp, coi nhẹ vấn đề dân tộc, vì vậy không mấy quan tâm đến chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc của các nước thuộc địa, thậm chí còn coi đó là biểu hiện của chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi, trái với chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Tóm lại, Mác - Anghen, Lênin đã nêu ra những quan điểm cơ bản về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Tuy nhiên, xuất phát từ yêu cầu, mục tiêu của cách mạng vô sản châu Âu, các ông vẫn tập trung nhiều hơn vào vấn đề giai cấp, vẫn "đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc và chung cho toàn thể giai cấp vô sản".
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, một nước phong kiến, nông nghiệp lạc hậu ở Phương Đông, bị chủ nghĩa thực dân xâm lược và nô dịch từ cuối thế kỷ XIX, Việt Nam vốn là một dân tộc có truyền thống yêu nước, đoàn kết nhân ái, có nền văn hiến lâu đời.
Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và của thế giới, Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và nghị quyết quốc tế cộng sản, vạch ra con đường đầy sáng tạo của Việt Nam: “Giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội giai cấp, giải phóng con người”.
Mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và giai cấp đã được Hồ Chí Minh chú trọng và đề cập đến rất rõ ràng.
Tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin trên nền tảng truyền thống yêu nước và nhân ái của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh có quan điểm riêng, độc đáo về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc. Người cho rằng: “Phải kết hợp và giải quyết hài hòa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, song phải đặt lợi ích dân tộc lên trên hết và trước hết”.
Theo Người, đối với Việt Nam không phải giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới giải quyết được vấn đề dân tộc như ở các nước tư bản phát triển phương tây. Mà ngược lại, chỉ có giải phóng dân tộc mới giải phóng được giai cấp. Giải phóng dân tộc đã bao hàm một phần giải phóng giai cấp và tạo tiền đề cho giải phóng giai cấp.
Luận điểm này của Người xuất phát từ cơ sở thực tiễn của phương Đông và Việt Nam:
Năm 1924, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ Người cho rằng: "Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại. Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung "cơ sở lịch sử" của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được". Và người đề nghị: "Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông". Ở phương Đông, "Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra không giống như ở phương Tây, bởi vì xã hội Đông Dương, Ấn Độ hay Trung Quốc, xét về mặt cấu trúc kinh tế không giống như xã hội phương Tây thời trung cổ, cũng như thời cận đại, và đấu tranh giai cấp ở đó không quyết liệt như ở đây…".
Đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc và tay sai nổi trội hơn mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với địa chủ phong kiến, giữa tư sản với vô sản. Do đó, không phải giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới giải quyết vấn đề dân tộc như ở phương Tây. Ngược lại chỉ có thể giải quyết vấn đề dân tộc mới giải phóng được giai cấp. Quyền lợi dân tộc và giai cấp là thống nhất, quyền lợi dân tộc không còn, thì quyền lợi mỗi giai cấp, mỗi bộ phận trong dân tộc cũng không thể thực hiện được. Quan điểm này sau này thể hiện rõ ở Nghị quyết Hội nghị Trung ương VIII, năm 1941 do Người chủ trì: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận giai cấp phải đặt dưới sự tồn vong sinh tử của quốc gia dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được tự do độc lập cho toàn dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn, sáng tạo mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc dân chủ và chủ nghĩa xã hội trong quá trình phát triển của cách mạnh Việt Nam.
Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên đã gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới với thời đại, không phải với mục đích cầu viện. Cũng là người dân thuộc địa đầu tiên đã vạch rõ cách mạng đế quốc thực dân là kẻ thù chính của các dân tộc thuộc địa, đồng thời cũng là kẻ thù chính của giai cấp vô sản và nhân dân lao động chính quốc.
Ở Việt Nam, cùng với sự tồn tại của mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp trong nội bộ dân tộc, nổi lên mâu thuẫn dân tộc và đấu tranh dân tộc giữa toàn dân tộc với chủ nghĩa thực dân đế quốc và bè lũ tay sai. Do đó theo Người, chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước, đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng của giai cấp công nhân nông dân với tri thức là một chiến lược cách mạng,là động lực to lớn của cách mạng Việt Nam.
“Chủ nghĩa dân tộc” theo Hồ Chí Minh, hoàn toàn không phải là thứ chủ nghĩa dân tộc phong kiến, tư sản hay quốc tế II mà là chủ nghĩa dân tộc chân chính theo lập trường của chủ nghĩa Mác-Lênin gắn dân tộc với quốc tế, dân tộc với giai cấp, hướng tới triệt để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người.
Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Vấn đề dân tộc bao giờ cũng được nhận thức và giải quyết theo lập trường của một giai cấp nhất định. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, chỉ trên lập trường của giai cấp vô sản, cách mạng vô sản mới giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc.Trong tuyên ngôn đảng cộng sản,Mác-Ăngghen đã đề cập mối quan hệ dân tộc và giai cấp:cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nhằm lật đổ ách thông trị của giai cấp tư sản,ở giai đoạn đầu của nó mang tính chất dân tộc.Mác kêu gọi “giai cấp vô sản ở mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền,phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc,phải tự mình trở thành giai cấp dân tộc…không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu”. Cũng theo Mác-Ăngghen, chỉ với giai cấp vô sản mới thông nhất được lợi ích dân tộc- lợi ích của mình với các lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Chỉ có xóa bỏ áp bức bóc lột giai cấp thì mới xóa bỏ áp bức dân tộc,đem lại độc lập thực sự cho dân tộc mình và cho dân tộc khác.
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, nhưng người luôn đứng trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc. Sự kết hợp nhuần nhuyễn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh thể hiện:
Khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản trong quá trình cách mạng Việt Nam.
Chủ trương đại đoàn kết các dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân và tầng lớp tri thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng nhân dân để chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù.
Thiết lập chính quyền nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Gắn kết mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Khác với các con đường cứu nước của ông cha, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa phong kiến(cuối thế kỷ XIX), hoặc chủ nghĩa tư bản(đầu thế kỷ XX), con đường cứu nước của Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Ngay từ khi tiếp cận Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, Hồ Chí Minh đã hình thành đường lối cứu nước: Giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Năm 1920, ngay khi quyết định phương hướng giải phóng và phát triển dân tộc theo con đường của cách mạng vô sản, ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Người nói: “ Cả hai cuộc giải phóng này (giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp) chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới.” Tiếp đó, ngay trong Chính cương, Sách lược vắn tắt được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng cộng sảnViệt Nam tháng 2/1930, Hồ Chí Minh đã xác định Cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn: Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng (tức cách mạng dân tộc-dân chủ) để đi tới xã hội cộng sản. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó thống nhất giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vừa phản ảnh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Xoá bỏ ách áp bức dân tộc mà không xoá bỏ tình trạng bóc lột và áp bức giai cấp thì nhân dân lao động vẫn chưa được giải phóng. Người nói: “Nếu nước độc lập mà dân không được hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì.” Do đó giành được độc lập rồi, thì phải tiến lên chủ nghĩa xã hội, vì mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Như vậy, ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã phát triển thành chủ nghĩa yêu nước hiện đại, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Năm 1960, Người nói: “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được dân tộc bị áp bức và những người trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Hồ Chí Minh nêu: “Các nước thuộc địa phương đông không phải làm ngay cách mạng vô sản, mà trước hết giành độc lập dân tộc. Có độc lập dân tộc rồi mới bàn đến cách mạng xã hội chủ nghĩa”. Từ thực tiễn của đấu tranh cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã phê phán quan điểm các đảng cộng sản Tây Âu không đánh giá đúng vai trò, vị tri, tương lai của cách mạng thuộc địa và Nguyễn Ái Quốc đi đến luận điểm: ‘‘Các dân tộc thuộc địa phải dựa vào sức mình là chính, đồng thời biết tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của giai cấp vô sản và nhân dân lao động thế giới để phải đấu tranh dành độc lập cho dân tộc, từ cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa”
Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Chỉ có xóa bỏ tận gốc tình trạng áp bức, bóc lột; thiết lập một nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân mới bảo đảm cho người lao động có quyền làm chủ mới thực hiện được sự phát triển hài hòa giữa cá nhân và xã hội, giữa độc lập dân tộc với tự do hạnh phúc của con người. Hồ Chí Minh nói: “Nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập chẳng có nghĩa lý gì”. Do đó, sau khi dành độc lập, phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội làm cho dân giàu, nước mạnh, mọi người được hưởng sung sướng tự do.
Người khẳng định: “ Yêu tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một ấm no thêm, tổ quốc mỗi ngày được giàu mạnh thêm”.
Giải phóng dân tộc tạo tiền đề giải phóng giai cấp.
Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm của giai cấp, nhưng đồng thời đặt vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc. Giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân là điều kiện để giải phóng giai cấp. Vì thế, lợi ích của giai cấp phải phục tùng lợi ích của dân tộc.
Trước kia, Việt Nam vốn là một nước phong kiến và nông nghiệp. Từ khi bị đế quốc Pháp xâm chiếm, Việt Nam trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Với đặc trưng của một nước tư bản chủ nghĩa, Pháp trong cả hai lần khai thác thuộc địa đã áp dụng chính sách độc quyền - chia để trị. Chúng chia nước ta làm ba xứ để cai trị: Bắc kì - Trung kì và Nam kì. Giữa thực dân Pháp và phong kiến Việt Nam có sự cấu kết chặt chẽ với nhau. Pháp dựa vào phong kiến để lấy cơ sở đàn áp nhân dân, còn phong kiến Việt Nam lại nhờ vào Pháp để duy trì địa vị của mình. Những hình thức áp bức, bóc lột tàn nhẫn, dã man của phong kiến chẳng những không được xoá bỏ mà còn bị thực dân Pháp lợi dụng để bóc lột, áp bức nhân dân Việt Nam nặng nề thêm. Nguyên nhân đó là dẫn đến sự mâu thuẫn gay gắt giữa nông dân và phong kiến, vấn đề dân chủ được đặt ra.
Mặt khác, thực dân Pháp khi tiến hành đầu tư vào Việt Nam để kinh doanh lấy lợi, chủ nghĩa tư bản đã phát sinh. Chúng ra sức bóc lột nhân dân Việt Nam, coi đó là nguồn nhân công rẻ mạt để phục vụ cho quá trình khai thác thuộc địa của chúng. Trong vô vàn hình thức bóc lột, phải kể đến thủ đoạn bóc lột nhân dân ta bằng cách đánh thuế nặng (thuế ruộng đất, thuế thân, thuế rượu, thuế muối, thuế thuốc phiện và hàng trăm thứ thuế khác…).
Chính điều đó làm cho nhân dân ta càng khốn đốn, mâu thuẫn giữa nhân dân ta và thực dân Pháp ngày càng quyết liệt. Sự bóc lột của thực dân Pháp đã làm cho tình hình xã hội Việt Nam có sự phân hoá sâu sắc; trong đó giai cấp nông dân chiếm trên 90% vừa bị phong kiến, lại vừa bị thực dân bóc lột nặng nề bằng cả thủ đoạn sưu cao, thuế nặng, tô tức, phu phen, tạp dịch… giai cấp công nhân ra đời sớm nhưng cũng bị Pháp đàn áp. Giai cấp tư sản bị Pháp chèn ép đến cùng, không thể nào ngóc đầu lên được. Thực trạng Việt Nam lúc này vô cùng khốn đốn. Trong xã hội Việt Nam có hai mâu thuẫn cơ bản cần phải được giải quyết: Vấn đề về dân tộc và giai cấp.
Giải quyết được các mâu thuẫn trên, chính là hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc - dân chủ ở Việt Nam. Nhiệm vụ dân tộc - dân chủ do đó vừa là tất yếu vừa là bắt buộc của cách mạng Việt Nam. Nó xuất phát từ thực tiễn của bối cảnh Việt Nam. Hai nhiệm vụ này không phải đến khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời mới được đặt ra, mà nó đã nhen nhóm từ trước đó rất lâu. Ngay từ giữa thế kỉ XIX, khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta thì các phong trào yêu nước đã nổ ra và dâng lên mạnh mẽ. Các cuộc nổi dậy chống thực dân Pháp đã diễn ra liên tục ở khắp ba miền Bắc, Trung, Nam và đã trở thành mục tiêu của mọi cuộc đấu tranh, mọi cuộc bạo động hay khởi nghĩa. Dù có là phòng trào do các sĩ phu yêu nước cầm đầu như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh…, hay đó là phong trào của nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc… thì tất cả đều nhằm mục đích đánh đuổi cho bằng được thực dân Pháp. Nhưng rốt cục, các phong trào này đều bị thất bại. Nguyên nhân là do họ chưa xác định được kẻ thù (ví dụ: Phan Bội Châu chủ trương dựa vào Pháp để đánh Nhật, Phan Chu Trinh lại chủ trương đổi mới theo mô hình của nước Pháp). Từ chỗ nhận thức sai kẻ thù nên các ông đã không thể nào xác định được rõ mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội Việt Nam lúc đó là gì. Vì vậy, không thể nhìn ra được nhiệm vụ cần thiết. Đến tận đầu thế kỉ XX, nước ta vẫn trong tình trạng khủng hoảng về đường lối.
Mãi đến sau này, thông qua các hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ khi người bắt đầu ra đi tìm đường cứu nước, qua quá trình bôn ba, học hỏi, khảo nghiệm ở các nước Phương Tây… cho đến khi thành lập Đảng cộng sản Việt Nam mới tìm được đường đi cho cách mạng Việt Nam. Thông qua quá trình tìm tòi, học hỏi và khảo cứu thực trạng nước ngoài kết hợp với việc phân tích tình hình trong nước, đến ngày 3/2/1930 tại Hương cảng, Người đã lập ra Đảng cộng sản Việt Nam và đề ra “Cương lĩnh vắn tắt - sách lược vắn tắt”, trong đó Người nêu ra cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: Cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai giai đoạn cách mạng đó kế tiếp nhau, không có bức tường nào ngăn cách.
Cương lĩnh viết: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Như vậy, ngay từ đầu, Người đã thấu suốt con đường phát triển tất yếu của cách mạng nước ta là con đường kết hợp và giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Như vậy, mục tiêu đó cho thấy rõ tính chất của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Đó là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân - một cuộc cách mạng của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản, giai cấp tư sản dân tộc, do giai cấp công nhân lãnh đạo, dựa trên cơ sở liên minh công nông, nhằm mục đích đánh đổ đế quốc và phong kiến, giải phóng dân tộc, thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, tức là nhà nước dân chủ nhân dân, và tạo điều kiện cho nước Việt Nam không qua thời kỳ phát triển tư bản chủ nghãi mà tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Và một cuộc cách mạng như thế, chúng ta gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đó cũng chính là một cuộc cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới ở một nước thuộc địa và phong kiến, nó khác với những cuộc cách mạng dân chủ tư sản kiểu cũ do giai cấp tư sản lãnh đạo như cách mạng Pháp năm 1789 và cách mạng Thổ Nhĩ Kì năm 1925. Tiến hành cuộc cách mạng dân tộc chính là tiến tới đánh đuổi đế quốc, thực dân làm cho nước nhà hoàn toàn độc lập. Còn giải quyết nhiệm vụ dân chủ chính là đánh đổ phong kiến, đem lại ruộng đất cho dân cày. Đó là hai nhiệm vụ cơ bản và xuyên suốt của cách mạng Việt Nam nhưng không phải lúc nào nó cũng diễn ra cùng một lúc. Tuỳ từng thời kì, từng giai đoạn mà vận dụng cho hợp lí.
Tháng 5 năm 1941, Người cùng với trung ương Đảng khẳng định: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề giải phóng dân tộc, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Giữ vững độc lập của dân tộc mình đồng thời tôn trọng độc lập của dân tộc khác.
Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập dân tộc Việt Nam, mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức.
Ở Người, chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn gắn liền với chủ nghĩa quốc tế cao cả, trong sáng. Người nói: “ Chúng ta phải tranh đấu cho tự do độc lập của các dân tộc khác như là tranh đấu cho dân tộc ta vậy”. Chủ trương “ Giúp bạn là tự giúp mình”, Hồ Chí Minh luôn nêu cao tinh thần dân tộc tự quyết song không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình. Với Người, phải thông qua thắng lợi của Cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của Cách mạng thế giới. Về quan hệ quốc tế, Người tuyên bố với thế giới: “ Căn cứ trên quyền lợi chung, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ nước nào trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hoà bình và xây đắp dân chủ thế giới.”
Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, thực hiện nguyên tắc về quyền dân tộc tự quyết, nhưng Hồ Chí Minh không quên nghĩa vụ quốc tế trong việc ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới. người nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc, các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân Lào và Campuchia, đề ra khẩu hiệu: “ Giúp bạn giúp mình”, và chủ trương phải bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc mang tính khoa học và cánh mạng sâu sắc, thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đúng như Ph.Anghen từng nói: những tư tưởng dân tộc chân chính trong phong trào công nhân bao giờ cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính.
Tư tưởng biện chứng của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp là một trong những nhân tố đảm bảo thành công của cách mạng Việt Nam, một trong những đóng góp xuất sắc của Người vào kho tàng lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình đấu tranh cách mạng: giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản không phải chỉ là chứng minh cho sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn là sự phát triển sáng tạo và có giá trị định hướng rất cơ bản. Qua thực tiễn đấu tranh và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, luôn bám sát đặc điểm thực tiễn Việt Nam và tham khảo kinh nghiệm các nước khác, Hồ Chí Minh đã có những giải pháp đúng đắn, sáng tạo, đáp ứng đòi hỏi của lịch sử, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; đó cũng chính là nguồn gốc sức mạnh của cách mạng nước ta trong suốt bảy thập kỷ qua. Bởi lẽ:
Một là, cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay muốn thành công triệt để nhất định phải đi theo quỹ đạo và là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản. Cuộc cách mạng đó phải đưa vào lực lượng của nhân dân, nòng cốt là liên minh công nông, do chính Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ, nếu chỉ đưa vào lực lượng của riêng giai cấp công nhân, thậm chí cả giai cấp nông dân là hoàn toàn không đủ, mà theo Người, chỉ có phát động cả dân tộc tham gia mới biến sức mạnh dân tộc thành lực lượng vô địch.
Hai là, cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ dân tộc (mâu thuẫn địa chủ - nông dân, mâu thuẫn tư sản - vô sản) không tách rời cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với các thế lực đế quốc xâm lược. Ở giai đoạn đầu của cách mạng, cần đặt vấn đề dân tộc, độc lập dân tộc lên trên hết. ''Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được''. ''Chính lập trường và lợi ích giai cấp công nhân đòi hỏi trước hết phải giải phóng dân tộc''. Ở đây rõ ràng cái giai cấp được biểu hiện ở cái dân tộc, cái dân tộc được giải quyết theo lập trường giai cấp công nhân, chứ đâu phải là “hy sinh cái nọ cho cái kia” như có người từng cố chứng minh. Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản ở chính quốc như ''hai cánh của một con chim'', phải thực hiện sự liên minh giữa vô sản ở chính quốc với vô sản và nhân dân các nước thuộc địa thì cách mạng mới thắng lợi. Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa không phụ thuộc một chiều vào cách mạng vô sản ở chính quốc, mà có thể và phải chủ động tiến lên giành thắng lợi, thậm chí có thể giành thắng lợi trước, từ đó góp phần tích cực hỗ trợ cho cách mạng ở các nước tư bản. Đó là nhận định hết sức đúng đắn, táo bạo và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Đáng tiếc là có lúc quan điểm này của Hồ Chí Minh không được một số người, trong đó có một vài người của Quốc tế cộng sản cũng không thừa nhận.
Bốn là, sau khi giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị ngoại bang, khỏi chế độ thuộc địa, dân tộc vừa được giải phóng phải quá độ lên CNXH và trong bước quá độ ấy phải tự mình tìm tòi con đường, phương thức riêng phù hợp với tình hình và đặc điểm đất nước, tránh giáo điều, dập khuôn những hình thức, bước đi, biện pháp của nước khác.
Trong thực tiễn công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay, v
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25382.doc