Tổng quan tình hình nghiên cứu cấu trúc xã hội của cư dân làng
nghề được phân tích tập trung vào bốn hướng nghiên cứu chính là:
hướng nghiên cứu về cấu trúc xã hội - dân số làng nghề; hướng
nghiên cứu về cấu trúc xã hội - gia đình làng nghề; hướng nghiên cứu
về cấu trúc xã hội - nghề nghiệp làng nghề; hướng nghiên cứu về cấu
trúc xã hội - mức sống làng nghề. Tuy nhiên, các hướng nghiên cứu
về thực trạng và giải pháp phát triển làng nghề chưa đi sâu phân tích
hoặc phân tích chưa đầy đủ các phân hệ của cấu trúc xã hội làng nghề
và rất ít nghiên cứu chuyên sâu từ góc độ xã hội học. Các nghiên cứu
hiện có về cấu trúc xã hội, làng nghề như đã phân tích trong chương
1, đã giúp tác giả luận án có cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu
và gợi ra nhiều ý tưởng nghiên cứu về thực trạng cấu trúc xã hội của
cư dân làng nghề đồng bằng sông Hồng hiện nay
14 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 625 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tóm tắt Luận án Cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề đồng bằng Sông Hồng hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
công ty nghề” trong
cấu trúc xã hội - nghề nghiệp của làng nghề. Đặc biệt là quá trình hình
thành và phát triển các mô hình sản xuất của làng nghề với các cấu trúc
xã hội - nghề nghiệp mang đặc trưng cho từng giai đoạn, từng mô hình.
1.4. HƯỚNG NGHIÊN CỨU VỀ CẤU TRÚC XÃ HỘI - MỨC SỐNG CỦA
LÀNG NGHỀ
Cấu trúc xã hội - mức sống làng nghề, được luận án tìm hiểu sự
hình thành và phát triển cấu trúc thông qua các mô hình phân tầng về
8
mức sống tại nông thôn Việt Nam nói chung và làng nghề tại nông
thôn nói riêng. Mức sống luôn là một trong những tiêu chí quan trọng
để đánh giá sự biến đổi cấu trúc xã hội thông qua sự phân tầng giữa
các nhóm thu nhập. Các tác giả phân chia mức sống của làng, xã
thành các nhóm đặc trưng, thể hiện những biến đổi rõ ràng của các
cấu trúc trong làng, xã. Cụ thể là sự phân tầng xã hội thành các tầng:
gia đình giàu, khá giả, trung bình và nghèo luôn gắn liền với hoạt
động nghề nghiệp. Trong đó, những gia đình có mức sống khá giả trở
lên thường dựa vào nghề phi nông nghiệp và những gia đình có mức
sống nghèo thường dựa vào nghề nông nghiệp với diện tích đất nhỏ
hẹp. Các nghiên cứu về cấu trúc xã hội - mức sống cho thấy các hệ
thống của phân tầng xã hội về mức sống gắn liền với hoạt động nghề
nghiệp của các cá nhân và gia đình.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Tổng quan tình hình nghiên cứu cấu trúc xã hội của cư dân làng
nghề được phân tích tập trung vào bốn hướng nghiên cứu chính là:
hướng nghiên cứu về cấu trúc xã hội - dân số làng nghề; hướng
nghiên cứu về cấu trúc xã hội - gia đình làng nghề; hướng nghiên cứu
về cấu trúc xã hội - nghề nghiệp làng nghề; hướng nghiên cứu về cấu
trúc xã hội - mức sống làng nghề. Tuy nhiên, các hướng nghiên cứu
về thực trạng và giải pháp phát triển làng nghề chưa đi sâu phân tích
hoặc phân tích chưa đầy đủ các phân hệ của cấu trúc xã hội làng nghề
và rất ít nghiên cứu chuyên sâu từ góc độ xã hội học. Các nghiên cứu
hiện có về cấu trúc xã hội, làng nghề như đã phân tích trong chương
1, đã giúp tác giả luận án có cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu
và gợi ra nhiều ý tưởng nghiên cứu về thực trạng cấu trúc xã hội của
cư dân làng nghề đồng bằng sông Hồng hiện nay.
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẤU TRÚC XÃ HỘI CỦA CƯ DÂN LÀNG NGHỀ
2.1. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN
2.1.1. Cấu trúc xã hội
Luận án này sử dụng định nghĩa như sau: Cấu trúc xã hội là các
kiểu quan hệ tương đối ổn định, bền vững của các thành phần cơ bản;
biểu hiện ở một số phân hệ cơ bản. Không tập trung vào phân tích
các thành tố của cấu trúc xã hội, luận án này đặt ra nhiệm vụ phân
tích làm rõ các phân hệ cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề, đó là
các phân hệ cấu trúc xã hội - dân số, cấu trúc xã hội - gia đình, cấu
trúc xã hội - nghề nghiệp, cấu trúc xã hội - mức sống; các thành phần
9
cơ bản của mỗi phân hệ là tổ chức, nhóm xã hội, các vị thế xã hội, vai
xã hội, thiết chế xã hội, mạng lưới xã hội.
2.1.2. Cư dân
Trong luận án này, cư dân được hiểu là người dân sinh sống, định
cư tại một khung không gian - thời gian xác định. Cụ thể, cư dân là
toàn bộ người dân gồm các cá nhân, các hộ gia đình, các tổ chức sinh
sống và làm việc tại làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm, xã Vạn Điểm và
làng nghề sơn mài Hạ Thái, xã Duyên Thái, huyện Thường Tín,
thành phố Hà Nội hiện nay.
2.1.3. Làng nghề
Về tên gọi ‘làng nghề”, tác giả luận án sử dụng cách gọi kép, tên
gọi cùng lúc mang hai nghĩa, phản ánh nghề thủ công và địa danh,
địa chỉ nơi ngành nghề, người thợ thủ công, cư dân làng nghề làm
nghề đó. Luận án quan niệm làng nghề là hình thức tổ chức đời sống
sinh hoạt, sản xuất của cộng đồng cư dân ở nông thôn, với đặc trưng
là đa số cư dân trong làng cùng thực hiện một loại hoạt động nghề
nghiệp nhất định, để sinh sống và từ đó hình thành kiểu cấu trúc xã
hội đặc trưng bởi hoạt động nghề nghiệp đó. Cụ thể, làng nghề Vạn
Điểm, xã Vạn Điểm, cư dân chủ yếu làm nghề đồ gỗ (mộc) và sinh
sống nhờ nghề nghiệp này, do vậy tác giả có thể gọi ngắn gọn là làng
nghề đồ gỗ Vạn Điểm. Làng nghề Hạ Thái, xã Duyên Thái, cư dân
chủ yếu làm nghề sơn mài và sinh sống nhờ vào nghề nghiệp này, tác
giả gọi ngắn gọn là làng nghề sơn mài Hạ Thái.
2.1.4. Các thành phần và một số phân hệ của cấu trúc xã hội
cư dân làng nghề
Cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề đồng bằng sông Hồng là
các kiểu quan hệ tương đối ổn định, có tính khuôn mẫu giữa các
thành phần cơ bản cấu thành nên xã hội làng nghề. Các thành phần
cơ bản của cấu trúc xã hội cư dân làng nghề là các tổ chức, nhóm xã
hội cư dân làng nghề, vị thế xã hội cư dân làng nghề, vai (trò) xã hội
cư dân làng nghề, thiết chế xã hội cư dân làng nghề, mạng lưới xã
hội cư dân làng nghề và một số yếu tố khác.
2.1.4.1. Các thành phần cơ bản của cấu trúc xã hội cư dân làng nghề
Nhóm xã hội cư dân làng nghề là những người có liên hệ với nhau
về vị thế, vai trò, những nhu cầu lợi ích và những định hướng giá trị
nghề nghiệp nhất định.
Vị thế xã hội cư dân làng nghề là một vị trí mà một người hay một nhóm
người trong mối liên hệ, quan hệ với người khác, nhóm khác trong cấu trúc
10
xã hội làng nghề, được sắp xếp, thẩm định hay đánh giá của cộng đồng làng
nghề nơi người đó sinh sống. Vị thế xã hội cư dân làng nghề chính là vị trí,
thứ bậc cao thấp hay ngang bằng trong tương quan, so sánh với các thành
viên khác trong gia đình, công ty nghề và cộng đồng làng nghề.
Vai xã hội cư dân làng nghề là tập hợp các chuẩn mực, hành vi,
nghĩa vụ và quyền lợi gắn với một vị thế của cư dân làng nghề. Vai
trò là những hành vi, ứng xử, những khuôn mẫu tác phong hành động
mà xã hội trông đợi ở một người hay một nhóm xã hội cần phải thực
hiện trong làng nghề
Thiết chế xã hội cư dân làng nghề là tập hợp tương đối bền vững
của các giá trị, các chuẩn mực quy định, vị thế, vai trò và hành vi,
hoạt động của các cá nhân, nhóm nhằm đáp ứng một hay một số nhu
cầu cơ bản của xã hội làng nghề.
Mạng lưới xã hội của cư dân làng nghề thể hiện ở tất cả các phân
hệ như cấu trúc xã hội như: các quan hệ đan chéo từ quan hệ trong
gia đình, giữa các gia đình với nhau; giữa họ hàng, bạn bè, láng
giềng, khách hàng, cho tới các quan hệ với chính quyền địa phương,
với ngân hàng, với hiệp hội làng nghề ...
Tổ chức xã hội cư dân làng nghề có các đặc điểm và tính chất của
một nhóm, gồm các bộ phận gắn kết với nhau thành một hệ thống xã
hội làng nghề chỉnh thể; tổ chức xã hội được cư dân làng nghề hình
thành để thực hiện một hay một vài mục tiêu xác định, tổ chức là hệ
thống hoạt động nhằm vào mục tiêu xác định, tổ chức là cấu trúc vị
thế - vai trò, cấu trúc quyền lực, cấu trúc phân công lao động xã hội.
2.1.4.2. Một số phân hệ của cấu trúc xã hội cư dân làng nghề
Cấu trúc xã hội - dân số làng nghề có thể được tìm hiểu thông qua
các thành phần hay tiểu cấu trúc độ tuổi, giới tính, trình độ học vấn.
Cấu trúc xã hội - gia đình làng nghề được tìm hiểu thông qua quy
mô gia đình, số thế hệ trong gia đình và thời gian làm nghề của gia đình.
Cấu trúc xã hội - nghề nghiệp làng nghề được thể hiện thông qua
loại hình nghề nghiệp của gia đình, tính chất tổ chức nghề nghiệp của
gia đình, loại hình nghề nghiệp của gia đình. Được biểu hiện cụ thể
qua mô hình gia đình nghề và mô hình công ty nghề.
2.2. MỘT SỐ LÝ THUYẾT
2.2.1. Lý thuyết hệ thống xã hội của Talcott Parsons
Lý thuyết của Parsons về hệ thống xã hội có thể giúp ta có cách
tiếp cận hệ thống tổng quát về cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề.
Cụ thể là có thể hình dung cả làng nghề là một hệ thống xã hội. Do
vậy, làng nghề với tính cách là một hệ thống xã hội được phân hóa về
11
mặt chức năng thành bốn tiểu hệ thống là kinh tế, chính trị, pháp luật
và văn hóa.
2.2.2. Lý thuyết cấu trúc hóa của Anthony Giddens
Lý thuyết cấu trúc của Giddens thể hiện: (1) Cấu trúc được hiểu là
tập hợp các quy tắc và các nguồn lực thuộc về một hệ thống xã hội cụ
thể giới hạn và tạo ra hành động cá nhân và (2) hành động trong một
chừng mực nhất định bao gồm việc thực hiện và cập nhật cấu trúc,
góp phần tái khẳng định cấu trúc và biến đổi cấu trúc, để tái tạo và
chuyển đổi hệ thống xã hội. Các nguồn lực vật chất, tinh thần và các
quy tắc phái sinh đều được sử dụng trong hoạt động nghề nghiệp của
người lao động và trong quá trình đó cấu trúc xã hội được định hình,
vận động và tái tạo không ngừng.
2.3. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ CHÍNH SÁCH CỦA
NHÀ NƯỚC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
2.3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nông nghiệp, nông thôn và
nông dân
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến nông dân, nông thôn,
coi trọng vị trí, vai trò của nông dân, nông thôn đối với sự nghiệp cách
mạng, Người nói: “Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta
thịnh thì nước ta thịnh”. Để phát huy vị trí, vai trò của nông dân,
nông thôn đối với cách mạng, theo Hồ Chí Minh cần phải quan tâm
đến nông dân, phát huy hơn những thuận lợi mà giai cấp này.
2.3.2. Quan điểm của Đảng về phát triển làng nghề
Phát triển làng nghề được Đảng ta đặc biệt quan tâm, nhất là từ
khi đổi mới đất nước đến nay. Quan điểm của Đảng ta về phát triển
làng nghề được thể hiện rõ trong các văn bản Nghị quyết của Đảng
như: Nghị quyết số 05-NQ/HNTW của Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII; Chiến lược phát triển kinh tế-
xã hội 2011-2020 về “Xây dựng nông thôn mới”...
2.3.3. Chính sách của Nhà nước về phát triển làng nghề
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nhà nước ta đã ban
hành nhiều chính sách về phát triển làng nghề. Những chính sách này
được thể hiện trên nhiều khía cạnh thông qua các Nghị định của Chính
phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư hướng dẫn của các
bộ, ngành, như: Quyết định 132/2000/QĐ-TTg, của Thủ tướng Chính
phủ, ngày 24/11/2000 về một số chính sách khuyến khích phát triển
ngành nghề nông thôn. Nghị định 66/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ; Quyết định 2636/2011/QĐ-BNN-CB của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn về thúc đẩy đầu tư, phát triển làng
12
nghề ở nông thôn.Thông tư 116/2006/TT-BNN ngày 18/12/2006 của
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Chương 2, tác giả luận án đã làm rõ nội hàm và phạm vi của một
số khái niệm cơ bản của đề tài như “cấu trúc xã hội”,“cư dân”,
“làng nghề”, “cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề đồng bằng sông
Hồng” cũng như cách vận dụng trong nghiên cứu luận án. Đồng thời
chương 2 thao hóa tác các thành phần của cấu trúc xã hội (nhóm xã
hội, vị thế xã hội, vai trò xã hội, thiết chế xã hội, mạng lưới xã hội, tổ
chức xã hội cư dân làng nghề) và các phân hệ của cấu trúc xã hội cư
dân làng nghề. Luận án cũng phân tích rõ lý thuyết hệ thống xã hội
của Talcott Parsons và lý thuyết cấu trúc hóa của Anthony Giddens,
được áp dụng trong nghiên cứu cấu trúc xã hội cư dân làng nghề.
Ngoài ra, một số quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về
làng nghề và phát triển làng nghề, Tư tưởng Hồ Chí Minh về nông
dân đã đưa ra những định hướng quan trọng để phân tích, đánh giá
cấu trúc xã hội cư dân làng nghề hiện nay.
Chương 3
THỰC TRẠNG CẤU TRÚC XÃ HỘI CỦA CƯ DÂN LÀNG NGHỀ
3.1. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM LÀNG NGHỀ ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
3.1.1. Một số đặc điểm địa lý, kinh tế - xã hội của đồng bằng
sông Hồng
Theo số liệu của Tổng Cục Thống kê, năm 2013 vùng Đồng bằng
sông Hồng có diện tích 21.059,3 km² gồm 11 tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh, Vĩnh
Phúc, Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình và
Quảng Ninh. Dân số trung bình, năm 2013 vùng này là 20439,4
nghìn người. Về dân tộc đa số dân số là người Kinh.
Về vị trí địa lý, vùng đồng bằng sông Hồng có tọa độ địa lý:Từ vĩ
độ 21°34´B (huyện Lập Thạch) tới vùng bãi bồi khoảng 19°5´B
(huyện Kim Sơn), từ 105°17´Đ (huyện Ba Vì) đến 107°7´Đ (trên đảo
Cát Bà). Phía bắc và đông bắc là Vùng Đông Bắc (Việt Nam), phía
tây và tây nam là vùng Tây Bắc, phía đông là vịnh Bắc Bộ và phía
nam vùng Bắc Trung Bộ.
Về tài nguyên thiên nhiên, vùng đồng bằng sông Hồng có nguồn tài
nguyên thiên nhiên rất phong phú, đa dạng. Tài nguyên đất phù sa màu
mỡ, tài nguyên đất sét trắng ở Hải Dương, đá vôi ở huyện Thuỷ Nguyên,
Hải Phòng, huyện Kim Môn, Hải Dương, Hà Nội, Ninh Bình...
3.1.2. Đặc điểm chung cấu trúc xã hội làng nghề đồng bằng
13
sông Hồng
Các làng nghề ở đồng bằng sông Hồng tùy theo điều kiện, hoàn
cảnh của từng địa phương, đã hình thành và phát triển nhiều hình
thức sản xuất đa dạng. Song tập trung chủ yếu những nhóm ngành
nghề như sau: thủ công mỹ nghệ; chế biến lương thực, thực phẩm;
dệt, nhuộm, thuộc da; gia công cơ kim khí; sản xuất vật liệu xây
dựng..., trong đó loại hình thủ công mỹ nghệ chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Vùng đồng bằng sông Hồng có 2.433 làng có nghề trên tổng số
4.575 làng có nghề của cả nước chiếm tới 53,18% .
3.2. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ LÀNG NGHỀ Ở HUYỆN
THƯỜNG TÍN
3.2.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội của huyện Thường Tín
Thường Tín ở vị trí cửa ngõ phía Nam của thành phố Hà Nội, gồm
28 xã và 1 thị trấn, diện tích khoảng 127,59 km², với số dân khoảng
216.500 người; ở vị trí phía Nam của Thủ đô Hà Nội, phía Đông giáp
với tỉnh Hưng Yên, phía Tây giáp với huyện Thanh Oai, phía với
Nam giáp huyện Phú Xuyên, phía Bắc giáp với huyện Thanh Trì.
Cấu trúc kinh tế huyện Thường Tín đang chuyển dịch theo xu thế
chung của cả Hà Nội. Theo báo cáo về kinh tế của huyện năm 2013, thì
tỉ trọng công nghiệp và xây dựng chiếm phần lớn với 50,15%, thương
mại - dịch vụ chiếm 32,25% và nông nghiệp chỉ còn chiếm 17,6%.
3.2.2. Làng nghề ở huyện Thường Tín
Ngoài thời gian làm nông nghiệp, người dân huyện Thường Tín
đã sớm sản xuất ra nhiều mặt hàng phục vụ đời sống sinh hoạt, góp
phần giúp Thường Tín trở thành “đất trăm nghề”. Nhiều làng nghề có
tính chất cổ truyền và nổi tiếng trong nước từ xưa đến nay như: nghề
mây tre đan (xã Ninh Sở), tiện gỗ (xã Nhị Khê), sơn mài (xã Duyên
Thái), thêu ren (xã Thắng Lợi, xã Quất Động, xã Hà Hồi), điêu khắc
(xã Hiền Giang), đồ gỗ (xã Vạn Điểm), đục tượng (xã Hiền Giang),
hương trầm (xã Tự Nhiên), v.v.
3.3. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA XÃ VẠN ĐIỂM VÀ XÃ
DUYÊN THÁI
3.3.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội của xã Vạn Điểm
Xã Vạn Điểm, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội nằm ở phía
Đông Nam của huyện Thường Tín, có diện tích 2,97 km², Xã Vạn
Điểm có 3 làng (thôn) là: Vạn Điểm, Đặng Xá và Đỗ Xá có diện tích
tự nhiên 297,14 ha, có trên 2.188 hộ gia đình với trên 7.700 nhân
khẩu, có hơn 750 hộ sản xuất đồ gỗ và chế biến lâm sản. Mỗi hộ gia
đình trung bình là 4 lao động làm nghề, tạo công ăn việc làm cho trên
14
3.000 người lao động trong xã và các địa phương khác trong vùng
đồng bằng sông Hồng.
3.3.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội của xã Duyên Thái
Duyên Thái là một xã đông dân cư, tổng diện tích đất tự nhiên gần
4 km2 với dân cư hơn 4.000 người. Diện tích đất canh tác 385,4 ha,
bình quân ruộng đất trồng trọt cho một nhân khẩu trực tiếp sản xuất
300 m2. Hiện nay xã Duyên Thái gồm có 3 làng là: Duyên Trường,
Hạ Thái và Phúc Am.
Từ những năm 1950, nghề sơn mài truyền thống của xã khá phát
triển, có thời điểm cao nhất thu hút trên 600 lao động chuyên sản
xuất hàng xuất khẩu nổi tiếng ở nước nước xã hội chủ nghĩa (trước
đây). Từ năm 1986, bắt đầu thời kỳ đất nước đổi mới nghề sơn mài
càng có điều kiện phát triển mạnh mẽ, làng nghề đã ứng dụng công
thức mới (đa phần chuyển từ sơn ta sang sơn dầu hạt điều trộn với đất
phù sa sông Hồng).
3.4. CÁC PHÂN HỆ CẤU TRÚC XÃ HỘI CỦA CƯ DÂN LÀNG
NGHỀ ĐỒ GỖ VẠN ĐIỂM VÀ LÀNG NGHỀ SƠN MÀI HẠ THÁI
3.4.1. Cấu trúc xã hội - dân số
3.4.1.1. Cấu trúc xã hội - giới tính
Năm 2013, làng Hạ Thái có 1.046 hộ gia đình, với tổng số nhân
khẩu 3.618 người, với cấu trúc giới tính: nam chiếm 53,01% (1.918
người), nữ chiếm 46,98% (1.700 người). Làng Vạn Điểm có 708 hộ
gia đình với tổng dân số là 2.328 người, trong đó là nam chiếm 48,75%
(1.135 người), nữ chiếm 51,24% (1.193 người), trong đó số người
trong độ tuổi lao động chiếm khá lớn tới 58,73% tạo ra nguồn nhân lực
lớn để làm nghề và phát triển nghề.
Ở cả hai làng nghề tác giả nghiên cứu, người thợ - cư dân làng nghề
đều dạy nghề cho cả con gái, kể cả những người địa phương khác đến
học nghề và làm thợ tại làng. Điều này thể hiện rõ nét qua những công
ty nghề, ngoài địa điểm đặt tại làng nghề, còn đặt ở một số địa phương
khác, lấy lao động ở địa phương đó luôn.
Quan niệm của cư dân làng nghề hiện nay ít có phân biệt nhiều
giữa con trai và con gái và có sự phân công lao động tương đối rõ
theo giới tính.
3.4.1.2. Cấu trúc xã hội - độ tuổi
Về độ tuổi của dân số làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm và làng nghề sơn
mài Hạ Thái được chia thành bốn nhóm tuổi. Làng nghề đồ gỗ Vạn
Điểm: dưới 15 tuổi có 22,56%; từ 15-24 tuổi có 350 người, chiếm
15,03; Từ 25-55 tuổi có 1.017 người, chiếm 43,69, trên 55 tuổi có 436
15
người chiếm 18,72. Làng nghề Hạ Thái: dưới 15 tuổi có 858 người,
chiếm 23,7%; từ 15-24 tuổi có 470 người, chiếm 13,0%; từ 25-55 tuổi
có 1673 người, chiếm 46,2%; trên 55 tuổi có 617 người, chiếm 17,1%.
Như vậy, cả hai làng có một nguồn nhân lực lao động dồi dào đã
tạo điều kiện cho sẵn sàng cho các hoạt động nghề nghiệp của làng
nghề, đồng thời đang tiếp bước để làng nghề phát triển.
Cư dân làng nghề, ngoài kính nể những người cao tuổi (giá trị trọng
người già), thì độ tuổi từ 25-55 cũng rất được coi trọng. Bởi vì, họ là
những người truyền nghề cho con cháu và lao động những chính trong
làng nghề, một số còn là chủ doanh nghiệp giỏi.
Vị thế, vai trò của thành viên gia đình cư dân làng nghề, kết quả thu
được như sau: Vị thế ông/bà có vai trò quyết định trong các việc của
làng dòng họ - chiếm 30,5%; việc hiếu - chiếm 21,2%. Vị thế bố/mẹ có
vai trò quyết định chính sản xuất, kinh doanh - chiếm 93,0%; định
hướng nghề nghiệp cho con cái - chiếm 90,1%; mua sắp các đồ dùng
đắt tiền - chiếm 89,5%. Vị thế con cái có vai trò chủ yếu trong việc học
tập.
3.4.1.3. Cấu trúc xã hội - học vấn
Có thể thấy rõ vẫn còn một số lượng không nhỏ lực lượng lao động
trong các làng nghề có trình độ ở mức phổ thông. Chung cho cả hai
làng nghề: trình độ tiểu học là 11,8%; THCS là 39,8%, THPT 33,1%
và trình độ cao đẳng, đại học chỉ có 4,8%. So với trình độ học vấn
chung của lực lượng lao động cả nước, cấu trúc trình độ học vấn của
làng nghề là gần tương đương nhau mặc dù tỉ lệ cao đẳng, đại học có
thấp hơn chút ít rất có thể là do mẫu khảo sát có một tỉ lệ lớn những
người từ trung niên trở lên, những người này trước đây không có điều
kiện đi học hết trung học phổ thông hoặc không được học cao đẳng,
đại học.
Về việc học tập và định hướng nghề nghiệp cho con cái, đa số chủ
hộ gia đình trong làng nghề được hỏi trả lời: tùy vào khả năng học tập
của con cái chiếm 59,4% (303/515); học đến cao đẳng, đại học 25,8%
(133/515) và chỉ có 14,8% (76/515) cho học nghề truyền thống của
làng.
3.4.2. Cấu trúc xã hội - gia đình
3.4.2.1. Cấu trúc xã hội - gia đình, theo quy mô gia đình
Kết quả khảo sát cho thấy, có sự đa dạng về số nhân khẩu trong
các hộ gia đình trong làng nghề: có hộ gia đình 1 người, có hộ gia
đình 2-3 người, có hộ gia đình 4-5 người và có cả hộ gia đình trên 6
16
người. Tỷ lệ hộ gia đình có 4-5 người chiếm 42,6%; hộ gia đình có từ
2-3 người chiếm 39,4%. Quy mô gia đình giữa hai làng nghề có sự
khác biệt về. Ở làng nghề sơn mài Hạ Thái số nhân khẩu trong hộ gia
đình tập trung chủ yếu có 2-3 người chiếm 56,1%; 4-5 nười chiếm
40,1%; hộ có 1 người và trên 6 người đều bằng 1,9%. Song, ở làng
nghề đồ gỗ Vạn Điểm số hộ gia đình có trên 6 người chiếm đến
36,5%, cao hơn nhiều so làng nghề sơn mài Hạ Thái. Điều này được
lý giải do các yếu tố kinh tế xã hội làng nghề và tâm lý xã hội của
mỗi làng nghề khác nhau.
Như vậy, cho thấy rõ sự pha trộn và cùng chung sống của các
thành phần gia đình về mặt kinh tế và cấu trúc, loại hình gia đình.
Bên cạnh đó, đa số cư dân làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm có tâm lý
muốn sống nhiều người cùng một hộ gia đình; mặt khác do cách thức
sản xuất đồ gỗ theo mô hình hộ gia đình phần nào cũng làm cho số
nhân khẩu trong gia đình nhiều hơn.
3.4.2.2. Cấu trúc xã hội - gia đình nghề theo số lượng lao động nghề
Đối với gia đình nghề, những người thợ làm nghề phần lớn là các
thành viên của gia đình như bố, mẹ, con trai, con gái ở độ tuổi lao
động trong gia đình, tức là các thành viên của gia đình đều có thể
tham gia vào một hoặc nhiều khâu của quy trình sản xuất nghề
nghiệp tùy theo trình độ tay nghề, giới tính để làm những công việc
phù hợp. Trong đó, thường chủ hộ gia đình là người chịu trách nhiệm
chính về kỹ thuật, quản lý, điều hành và giao dịch với khách hàng và
bạn nghề, gia đình nghề khác trong làng. Qua khảo sát cho thấy, số
người làm nghề truyền thống trong gia đình như sau: đa số có 2
người làm nghề - chiếm 60,3%; 3 người làm nghề - chiếm 22,3%. Về
cấu trúc nguồn nhân lực của các gia đình làm nghề có sự khác nhau
giữa hai làng nghề.
3.4.2.3. Cấu trúc xã hội - thế hệ của gia đình nghề
Về số thế hệ làm nghề truyền thống trong các gia đình nghề, tác
giả phát hiện thấy cấu trúc xã hội chủ yếu là gia đình 2 thế hệ, điều
này có nghĩa là nghề nghiệp được tái tạo, kế tục và phát triển từ thế
hệ bố/mẹ sang thế hệ con.
Trong các làng nghề vẫn có sự lưu truyền nghề truyền thống qua
các thế hệ, mặc dù đã có sự tác động của nền kinh tế thị trường đối
với quy mô gia đình, khiến quy mô gia đình nhỏ đi và ít thế hệ,
nhưng giữa các thế hệ vẫn có mối liên hệ chặt chẽ, nhất là quan hệ
“di truyền xã hội - nghề nghiệp” từ thế hệ trước cho thế hệ sau trong
17
hệ thống cấu trúc xã hội - gia đình nghề. Số hộ gia đình 2 thế hệ ở
làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm có tới 85% số hộ gia đình 2 thế hệ cùng
làm nghề, như vậy có sự tiếp nối nghề truyền thống của làng.
3.4.3. Cấu trúc xã hội - nghề nghiệp
Đối với cả hai làng nghề, số lượng các gia đình làm nghề nông
nghiệp chiếm tỉ trọng rất nhỏ bé. Đây là một đặc trưng của cấu trúc
các ngành kinh tế đã chuyển dịch theo chiều hướng tăng nhanh giá trị
sản xuất công nghiệp tiểu thủ công nghiệp. Qua điều tra cho thấy,
việc giảm mạnh các hộ chuyên sản xuất nông nghiệp là do cư dân
trong làng không chú trọng phát triển kinh tế nông nghiệp vì thu nhập
rất thấp, mặt khác do việc chăn nuôi khó có thể tiến hành song song
với việc làm nghề cùng nơi ở của cư dân. Đây cũng là một đặc trưng
chuyên môn hóa của làng nghề.
Tuy nhiên, về sự phân hóa nghề nghiệp của các hộ gia đình ở hai
làng nghề, kết quả điều tra mẫu 515 hộ gia đình, có 70,7% các hộ gia
đình làm nghề truyền thống có kết hợp với nghề nông nghiệp. Điều
này chứng tỏ gốc gác xã hội của cư dân làng nghề chủ yếu là nông
nghiệp, nông dân. Số hộ gia đình chuyên làm nghề truyền thống thoát
ly khỏi nông nghiệp chỉ chiếm 11,8%.
3.4.4. Cấu trúc xã hội - mức sống
Cấu trúc xã hội - mức sống của cư dân làng nghề được tác giả tìm
hiểu qua cách tự đánh giá của chủ hộ gia đình, bằng phiếu thu thập
thông tin. Kết quả điều tra chọn mẫu 515 hộ gia đình, như sau: Có tới
36,9% tỉ lệ người trả lời ở mức sống khá giả, 0,7% ở mức giàu. Như
vậy, có hơn một phần ba các chủ hộ được hỏi tự đánh giá là mức
sống khá giả trở lên. Phần lớn người dân có mức sống trung bình
(61,4%) và chỉ còn một phần nhỏ tỉ lệ người dân ở mức nghèo
(0,9%). Có thể thấy rằng mức sống của người dân tại hai làng nghề
đạt ở mức cao, điều đó chứng tỏ sự phát triển hiệu quả, nhanh chóng
và vượt bậc hoạt động nghề nghiệp. Trong luận án này, tác giả sử
dụng cụm từ “nhóm thu nhập”, “nhóm chi tiêu” nhằm đánh giá thực
trạng cấu trúc xã hội - mức sống của cư dân làng nghề đồ gỗ Vạn
Điểm và làng nghề sơn mài Hạ Thái. Các nhóm thu nhập, nhóm chi
tiêu ở đây được xác định là năm nhóm (ngũ nhị phân), nghĩa là mỗi
nhóm chiếm 20% tổng số các hộ gia đình (chủ hộ gia đình).
Mức thu nhập trung bình của các chủ hộ gia đình trong làng nghề
là 5.744.077,67 đồng/tháng. Mức thu thập trung bình của chủ hộ gia
đình làm nghề truyền thống là 6.227.764,71 đồng/tháng. Mức thu
18
nhập bình quân một tháng của chủ hộ gia đình cao nhất là 40.000.000
đồng/tháng và mức thấp nhất là 1.000.000 đồng/tháng. Mức chi tiêu
trung bình của các chủ hộ gia đình trong làng nghề là 4.142.330,10
đồng/tháng. Mức chi tiêu trung bình của chủ hộ gia đình làm nghề
truyền thống là 4.440.941,18 đồng/tháng. Mức chi tiêu bình quân một
tháng của chủ hộ gia đình cao nhất là 25.000.000 đồng/tháng và mức
thấp nhất là 800.000 đồng/tháng.
3.5. PHÂN TÍCH MÔ HÌNH CÔNG TY NGHỀ VÀ MÔ HÌNH GIA
ĐÌNH NGHỀ CỦA LÀNG NGHỀ GỖ VẠN ĐIỂM VÀ LÀNG NGHỀ
SƠN MÀI HẠ THÁI
3.5.1. Cấu trúc xã hội - nghề nghiệp: mô hình gia đình nghề
Đặc trưng nghề của mô hình gia đình nghề: Thứ nhất là thu nhập
của gia đình phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động nghề nghiệp của ít
nhất một thành viên làm nghề trong gia đình mà các nguồn thu nhập
khác của gia đình chỉ mang tính chấ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tt_cau_truc_xa_hoi_cua_cu_dan_lang_nghe_dong_bang_song_hong_hien_nay_nghien_cuu_truong_hop_hai_lang.pdf