Quan điểm nghiên cứu thành lập Viện Công tố không phải là
hoàn toàn mới đối với lập pháp TTHS Việt Nam. Đây là quan điểm
đã từng được khẳng định trong các văn kiện của Đảng. Hệ thống
Viện Công tố được thành lập hướng đến mục tiêu chủ yếu - đó là tập
trung thực hiện hiệu quả chức năng tối quan trọng trong lĩnh vực
TTHS - CNCT, tiến tới không thực hiện chức năng kiểm sát hoạt
động tư pháp trong TTHS như hiện nay vì những lí do sau:
Thứ nhất, chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát ở nước ta là vấn đề có tính lịch
sử. Hiện nay, cơ sở cho việc thành lập Viện kiểm sát với chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật (yêu cầu về nền pháp chế thống
nhất) đã không còn như trước. Hệ thống pháp luật nước ta không
ngừng phát triển, hoàn thiện.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
39 trang | 
Chia sẻ: honganh20 | Lượt xem: 600 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Chức năng công tố trong tố tụng hình sự Việt Nam và Đức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tội nhằm đưa người đó ra xét xử trước Tòa án và đồng 
thời bảo vệ sự buộc tội đó. Tác giả bài tạp chí đã chỉ ra được phạm 
vi lĩnh vực của quyền công tố, về nội dung của quyền công tố, và 
mối quan hệ giữa CNCT và chức năng điều tra. Nghiên cứu sinh sẽ 
tiếp thu và phát triển quan điểm trong Luận án của mình. 
1.2.2. Các đặc điểm của chức năng công tố 
1.2.2.1. Đặc điểm về đối tượng của chức năng công tố 
Để xác định đúng đối tượng của CNCT, cần xuất phát trước 
tiên từ quan điểm đối tượng nói chung. Theo Đại Từ điển tiếng việt 
do GS.TS. Nguyễn Như Ý chủ biên, đối tượng được hiểu là người, 
sự vật, hiện tượng được con người nghiên cứu và hành động. Đối 
tượng của CNCT là người, sự vật, hiện tượng được nghiên cứu và tác 
động đến nhằm mục đích duy trì trật tự xã hội - một trong các chức 
năng quan trọng của Nhà nước. Vì vậy, quyền công tố chỉ có thể 
13 
được xem xét trong lĩnh vực mà bản chất của nó gắn liền với việc 
nhân danh nhà nước - nhân danh công quyền duy trì và đấu tranh với 
hiện tượng xã hội tiêu cực nhất, có ảnh hưởng đến trật tự xã hội. Đó 
là lĩnh vực TTHS. Trên cơ sở lập luận nêu trên, chúng tôi cho rằng, 
CNCT có đối tượng là tội phạm và người phạm tội. 
1.2.2.2. Đặc điểm về chủ thể của chức năng công tố 
“Công tố là nét đặc trưng không thể thiếu của nền hành 
chính tư pháp hiện đại” và sự hình thành chức năng thay mặt Nhà 
nước phát hiện, buộc tội đối với tội phạm và người thực hiện hành vi 
phạm tội bắt nguồn chủ yếu từ sự phát triển về khái niệm quốc gia – 
khi mà hành vi phạm tội không còn là vấn đề cá nhân và duy trì trật 
tự công cộng được ưu tiên. Do đó, chủ thể của CNCT có sự thống 
nhất cao trong khoa học cũng như thực tiễn TTHS ngày nay. CNCT, 
với nội hàm là chức năng của một thiết chế được nhà nước ủy quyền 
thực hiện việc buộc tội đối với tội phạm và người phạm tội, được 
trao cho hệ thống CQCT. Tùy theo truyền thống tố tụng, phạm vi 
thẩm quyền trao cho thiết chế công tố mà hệ thống cơ quan này được 
tổ chức và hoạt động theo mô hình Viện công tố hay Viện kiểm sát. 
1.2.2.3. Đặc điểm về phạm vi của chức năng công tố 
Xuất phát từ bản chất của CNCT là chức năng nhân danh nhà 
nước thực hiện sự buộc tội đối với người phạm tội, nghiên cứu sinh cho 
rằng, CNCT chỉ phát sinh trong lĩnh vực TTHS. Nghiên cứu phạm vi 
của CNCT còn phục vụ việc xác định thời điểm phát sinh chức năng 
này. CNCT bắt đầu từ khi tội phạm được thực hiện và kết thúc khi bản 
án có hiệu lực pháp luật. 
14 
1.2.2.4. Đặc điểm về nội dung của chức năng công tố 
CNCT, ngoài nội dung là sự buộc tội, còn bao gồm nội dung 
truy tố người phạm tội và tội phạm ra trước tòa án để xét xử. CQCT 
thực hiện việc truy tố người phạm tội ra trước Tòa án bằng bản cáo 
trạng hoặc quyết định truy tố. Nội dung này cũng là cơ sở cho việc 
thực hiện một nội dung quan trọng của CNCT ở giai đoạn tiếp theo - 
giai đoạn xét xử. Đó là bảo vệ sự buộc tội tại phiên tòa trong trường 
hợp vụ án được đưa ra xét xử. 
1.2.3. Định nghĩa chức năng công tố và mối quan hệ giữa 
chức năng công tố của Viện kiểm sát và một số chức năng của chủ 
thể khác 
1.2.3.1. Định nghĩa chức năng công tố 
Để xây dựng định nghĩa đúng đắn về CNCT, cần phải đảm 
bảo các yêu cầu sau: (1) xây dựng khái niệm CNCT trên cơ sở nội 
hàm, đặc điểm chung về khái niệm chức năng (từ góc độ thuật ngữ, 
từ thuyết chức năng luận); (2) xây dựng khái niệm CNCT trên cơ sở 
cách hiểu đúng đắn về quyền công tố, cụ thể, cần xác định được các 
đặc điểm của CNCT về: đối tượng, chủ thể, phạm vi và nội dung. 
Chúng tôi mạnh dạn đưa ra định nghĩa CNCT như sau: chức năng 
công tố là phương diện hoạt động chủ yếu của cơ quan công tố [Viện 
kiểm sát/Viện công tố], phát sinh ngay khi tội phạm xảy ra và kết 
thúc khi vụ án được giải quyết bằng bản án, quyết định của cơ quan 
có thẩm quyền, nhân danh nhà nước để phát hiện tội phạm, thực 
hiện việc buộc tội, truy tố người phạm tội ra trước Tòa án và bảo vệ 
sự buộc tội đó tại phiên tòa, vì lợi ích công, lợi ích cơ quan, tổ chức, 
cá nhân. 
15 
1.2.3.2. Mối quan hệ giữa chức năng công tố của Viện kiểm 
sát và một số chức năng của chủ thể khác 
a. Mối quan hệ giữa chức năng công tố và chức năng kiểm 
sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự 
Một là, CNCT và chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong 
TTHS đều là chức năng hiến định và được trao cho Viện kiểm sát; 
Hai là, CNCT phát sinh ngay khi tội phạm được thực hiện. 
Khác với CNCT, chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp chỉ phát sinh 
khi có các hành vi thực hành quyền công tố của cơ quan tiến hành tố 
tụng. Hay nói cách khác, trên thực tiễn, kiểm sát hoạt động tư pháp 
và thực hành quyền công tố có thể xem như tương đồng về thời điểm 
phát sinh. 
 CNCT kết thúc khi bản án tuyên có hiệu lực pháp luật (và 
không bị kháng nghị) hoặc vụ án bị đình chỉ bởi cơ quan có thẩm 
quyền còn chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong TTHS kết 
thúc khi người phạm tội chấp hành xong hình phạt. 
Ba là, công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong TTHS ở 
Việt Nam có mối quan hệ chặt chẽ, kiểm sát hoạt động tư pháp là 
một trong những hoạt động giám sát bảo đảm cho việc điều tra, xét 
xử, thi hành án hợp pháp, khách quan. 
b. Mối quan hệ giữa chức năng công tố và chức năng xét xử 
của Tòa án 
Chức năng xét xử là sự đánh giá, phân định đối với kết quả 
của chức năng buộc tội (CNCT) và chức năng bào chữa, có tính chất 
quyết định đối với vụ án. Như tác giả Lê Tiến Châu khẳng định, 
16 
chức năng xét xử có vị trí quan trọng trong việc đảm bảo cho TTHS 
được vận hành theo đúng quy định của pháp luật để đi đến mục tiêu 
cuối cùng của TTHS. Chức năng xét xử được xem là chức năng 
trung tâm, giữ vai trò quyết định trong TTHS. 
c. Mối quan hệ giữa chức năng công tố và chức năng bào chữa của 
bên gỡ tội 
Mối quan hệ giữa CNCT và chức năng bào chữa là mối quan 
hệ giữa hai mặt đối lập. Nếu như mục đích của CNCT là bảo vệ lợi 
ích công cộng, lợi ích của Nhà nước và của cá nhân thông qua việc 
phát hiện tội phạm và thực hiện việc buộc tội đối với người phạm tội 
thì mục đích của chức năng bào chữa là trao cho người bị buộc tội cơ 
hội được bảo vệ quyền lợi chính đáng trước những diễn biến của thủ 
tục tố tụng, hỗ trợ họ tự vệ trước những cáo buộc của bên buộc tội. 
Chức năng đó phản ánh một đòi hỏi khách quan của nguyên tắc 
“công bằng giữa các bên”. 
d. Mối quan hệ giữa chức năng công tố và chức năng điều 
tra của Cơ quan điều tra 
Hoạt động điều tra và hoạt động buộc tội (công tố) là hai hoạt 
động độc lập, nhưng gắn bó chặt chẽ vì đều chung một mục đích là 
chứng minh tội phạm. Trong đó, hoạt động điều tra là hoạt động hỗ trợ 
cho hoạt động buộc tội (công tố). Kết quả của hoạt động điều tra là cơ sở 
để buộc tội có căn cứ và hợp pháp. Nói cách khác, mối quan hệ giữa 
chức năng điều tra và CNCT sẽ không thể là mối quan hệ đơn thuần 
giữa chức năng chính và chức năng bổ trợ. Đặt mối quan hệ này trong 
tham chiếu về mục đích và mô hình TTHS có thể thấy chức năng điều 
17 
tra là chức năng hỗ trợ CNCT. CNCT sử dụng kết quả của chức năng 
điều tra. 
Chương 2. 
CHỨC NĂNG CÔNG TỐ 
TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ ĐỨC 
2.1. Khái quát chung về tố tụng hình sự Việt Nam và Đức 
2.1.1. Khái quát về tố tụng hình sự Việt Nam 
Mô hình TTHS hiện nay ở nước ta là mô hình kết hợp thiên 
về thẩm vấn, mặc dù, trong quá trình phát triển, đã tiếp thu một số 
hạt nhân của mô hình TTHS tranh tụng, phù hợp với điều kiện phát 
triển kinh tế - xã hội cụ thể của Việt Nam. BLTTHS năm 2015 ra 
đời đã có nhiều đổi mới, tuy nhiên đặc trưng của mô hình TTHS ở 
nước ta vẫn thể hiện ở những điểm cơ bản, cụ thể gồm: (1) TTHS 
Việt Nam không coi vụ án hình sự là tranh chấp, xung đột pháp lý 
giữa các bên; (2) TTHS Việt Nam đặt mục tiêu tìm đến chân lý 
khách quan của sự việc; (3) TTHS Việt Nam phân chia quá trình 
giải quyết vụ án thành các giai đoạn tố tụng; (4) Xuất phát từ mục 
tiêu xác định sự thật của vụ án, TTHS Việt Nam phân chia các chủ 
thể tố tụng thành hai loại: chủ thể tiến hành tố tụng và chủ thể tham 
gia tố tụng. 
2.1.2. Khái quát về tố tụng hình sự Đức 
Hệ thống pháp luật của Đức thuộc dòng họ pháp luật Châu 
âu lục địa, cơ bản được xếp vào hệ thống các quốc gia luật thành văn 
(Civil law). Mô hình TTHS Đức, về cơ bản, là mô hình TTHS thẩm 
vấn. Qua thời gian cùng với xu hướng học tập lẫn nhau giữa các mô 
18 
hình tố tụng, mô hình TTHS của Đức có kết hợp với một số đặc 
điểm tranh tụng và được mô tả như một hệ thống hỗn hợp nhưng 
thiên về thẩm vấn. Do đó, tiến trình TTHS Đức phát huy vai trò các 
biện pháp điều tra thẩm vấn trong hoạt động điều tra, sử dụng 
nguyên tắc chủ đạo là truy tố bắt buộc, kiểm tra, đánh giá trực tiếp 
chứng cứ tại phiên tòa nhưng vẫn đảm bảo vai trò tham gia tố tụng 
công bằng giữa các chủ thể thực hiện việc buộc tội và gỡ tội trong 
quá trình tìm kiếm sự thật vụ án. 
2.2. Những điểm tương đồng về chức năng công tố trong 
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và Đức 
2.2.1. Những điểm tương đồng về đối tượng, chủ thể và 
phạm vi của chức năng công tố 
2.2.1.1. Những điểm tương đồng về đối tượng của chức năng 
công tố 
Có thể dễ dàng nhận thấy, các học giả của hai quốc gia có 
cách hiểu hoàn toàn tương đồng về đối tượng của CNCT. Điều này 
được thể hiện đồng thời trong pháp luật thực định cũng như các công 
trình nghiên cứu khoa học. 
2.2.1.2. Những điểm tương đồng về chủ thể của chức năng 
công tố 
Chủ thể của CNCT là vấn đề có sự thống nhất cao trong lí 
luận khoa học về chức năng này. TTHS của Việt Nam và Đức đều 
trao quyền nắm giữ chức năng quan trọng này cho hệ thống CQCT. 
Ở Việt Nam là hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân, ở Đức là 
hệ thống Viện Công tố. 
19 
2.2.1.3. Những điểm tương đồng về phạm vi của chức năng 
công tố 
Trong TTHS Việt Nam và Đức, CNCT không phát sinh 
trong lĩnh vực ngoài TTHS và phát sinh ngay khi hành vi phạm tội 
xảy ra và kết thúc khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp 
luật hoặc vụ án chấm dứt bằng quyết định tố tụng của cơ quan có 
thẩm quyền. 
2.2.2. Những điểm tương đồng về nội dung của chức năng 
công tố 
CNCT, ngoài nội dung là sự buộc tội, còn bao gồm nội dung 
truy tố người phạm tội và tội phạm ra trước Tòa án để xét xử và bảo 
vệ sự truy tố đó. Để nghiên cứu sâu hơn những điểm tương đồng (và 
khác biệt) về nội dung của CNCT trong TTHS Việt Nam và Đức, tác 
giả tiến hành nghiên cứu nội dung CNCT trên cơ sở phân tích một số 
nội dung sau: (1) Những điểm tương đồng về thẩm quyền của CQCT 
trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự; (2) Những điểm 
tương đồng về thẩm quyền của CQCT trong giai đoạn truy tố; (3) 
Những điểm tương đồng về thẩm quyền của CQCT trong giai đoạn 
xét xử vụ án hình sự. 
2.2.2.1. Những điểm tương đồng về thẩm quyền của Cơ 
quan công tố trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự 
CNCT, với bản chất là việc một thiết chế được Nhà nước ủy 
quyền, thay mặt Nhà nước thực hiện việc buộc tội đối với tội phạm 
và người phạm tội. Ở giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự, thông 
tin về tội phạm ngày càng rõ ràng hơn thông qua hoạt động thu thập 
chứng cứ, được đánh dấu bằng kết luận điều tra của cơ quan có thẩm 
20 
quyền. Trong giai đoạn này, sự tương đồng về nội dung của CNCT 
được quy phạm hóa thành sự tương đồng trong những quyền hạn cụ 
thể, bao gồm: (1) Thẩm quyền trong việc tiếp nhận và giải quyết tin 
báo, tố giác về tội phạm; (2) Thẩm quyền quyết định việc khởi tố 
(Phát động công tố); (3) Thẩm quyền đối với các biện pháp hạn chế 
quyền con người, quyền công dân; (4) Thẩm quyền điều tra và kết 
thúc điều tra. 
2.2.2.2. Những điểm tương đồng về thẩm quyền của Cơ 
quan công tố trong giai đoạn truy tố 
Nguyên tắc truy tố trong TTHS được cả hai quốc gia áp 
dụng là nguyên tắc truy tố bắt buộc. Nguyên tắc truy tố bắt buộc 
trong TTHS, có thể được hiểu là, CQCT không thể và không có 
quyền cân nhắc đối với việc quyết định truy tố. Vai trò của CQCT bị 
giới hạn bởi những đánh giá pháp lí đối với chứng cứ trong việc xác 
định đủ hay không đủ yếu tố cấu thành tội phạm. 
2.2.2.3. Những điểm tương đồng về thẩm quyền của Cơ 
quan Công tố trong giai đoạn xét xử 
Pháp luật TTHS của hai quốc gia ghi nhận sự tương đồng 
lớn đối với quyền năng của CQCT trong giai đoạn xét xử vụ án hình 
sự. Ở cả hai quốc gia, phiên tòa xét xử (sau khi tiến hành các thủ tục 
khai mạc) sẽ bắt đầu bằng việc công bố bản cáo trạng (Điều 306 
BLTTHS năm 2015, khoản 3 Điều 243 BLTTHS Đức). Tiếp đến, nội 
dung của CNCT trong giai đoạn xét xử được thể hiện rõ nét thông 
qua thẩm quyền xét hỏi, luận tội và tranh luận tại phiên tòa. Kiểm sát 
viên/Công tố viên thực hiện những hoạt động tố tụng này nhằm mục 
đích xuyên suốt, đó là khẳng định sự buộc tội ở giai đoạn trước có 
21 
căn cứ, đúng người, đúng pháp luật hoặc đưa ra những quyết định tố 
tụng dựa trên các chứng cứ đánh giá công khai tại phiên toà. 
2.3. Những điểm khác biệt về chức năng công tố trong 
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và Đức 
2.3.1. Những điểm khác biệt về đối tượng, chủ thể và 
phạm vi của chức năng công tố 
Hai quốc gia lại ghi nhận sự khác biệt trong thực tiễn thi 
hành pháp luật TTHS về CNCT. Có những loại tội phạm là đối 
tượng của CNCT trong TTHS Đức (các tội phạm nhỏ) nhưng không 
thuộc đối tượng của CNCT trong TTHS Việt Nam bởi theo pháp luật 
Việt Nam, những vi phạm đó bị xử lí hành chính. 
Chủ thể của CNCT ở hai quốc gia đều được trao cho hệ thống 
CQCT (Viện Công tố ở Đức và Viện Kiểm sát ở Việt Nam). Do đó, nếu 
chỉ nghiên cứu từ bản chất của vấn đề, thì quy định của hai quốc gia về 
chủ thể của CNCT không có sự khác biệt: CNCT chỉ được Nhà nước ủy 
quyền cho một hệ thống cơ quan duy nhất - hệ thống CQCT. Ở Việt 
Nam, CNCT là chức năng hiến định - là sự khẳng định tối cao của Nhà 
nước về việc ủy quyền cho hệ thống Viện kiểm sát. Tuy nhiên, khi tiếp 
cận từ góc độ thực tiễn về chủ thể thực hiện CNCT và mối quan hệ giữa 
các chủ thể này, đặc biệt là mối quan hệ giữa CQCT và CQĐT trong 
TTHS thì sự khác biệt trong pháp luật TTHS của hai quốc gia thể hiện 
trước tiên và rõ nét ở tư duy lập pháp [trong BLTTHS]. 
2.3.2. Những điểm khác biệt về nội dung của chức năng 
công tố 
2.3.2.1. Những điểm khác biệt về nội dung của chức năng 
công tố trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự 
22 
Nếu như sự tương đồng về nội dung của CNCT trong giai 
đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự nằm ở “vai trò quyết định” của 
CQCT thì sự khác biệt về nội dung của chức năng này trong các giai 
đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự thể hiện ở “sự chủ động” của 
CQCT đối với các hoạt động điều tra. Sự chủ động của CQCT trong 
hoạt động điều tra của hai quốc gia có sự khác biệt rõ rệt. 
Trong khi ở Đức, CQCT giữ vai trò độc quyền ra cáo buộc 
hình sự thì ở Việt Nam, vai trò chủ động trong phát động công tố lại 
ghi nhận cho CQĐT. 
Về thẩm quyền kết thúc điều tra, sự khác biệt có thể nói là 
đối lập hoàn toàn trong lập pháp TTHS của hai quốc gia. Ở Đức, nhà 
làm luật chỉ trao quyền kết thúc điều tra cho CQCT. Ngược lại, 
BLTTHS năm 2015 quy định khá rõ nét vai trò chủ động của CQĐT 
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, bao gồm cả thẩm quyền kết 
thúc điều tra. Mặc dù, Viện kiểm sát là cơ quan có thẩm quyền quyết 
định cuối cùng trong việc tạm dừng điều tra vụ án, chấm dứt hoạt 
động điều tra nhưng vai trò chủ động của CQĐT vẫn được ghi nhận: 
“Việc điều tra kết thúc khi CQĐT ra bản kết luận điều tra đề nghị 
truy tố hoặc ra bản kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra”. 
2.3.2.2. Những điểm khác biệt về nội dung của chức năng 
công tố trong giai đoạn truy tố 
Sự khác biệt về thẩm quyền của CQCT trong giai đoạn truy 
tố giữa Việt Nam và Đức nằm ở mức độ “tùy nghi truy tố” được tích 
hợp và vận hành trong hệ thống của quốc gia. Mức độ tùy nghi đối 
với thẩm quyền quyết định việc truy tố của các đồng nghiệp ở Đức 
23 
được thừa nhận chính thức, trong khi ở Việt Nam, nguyên tắc tùy 
nghi truy tố vẫn chưa được ghi nhận trong BLTTHS năm 2015. 
2.3.2.3. Những điểm khác biệt về nội dung của chức năng 
công tố trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự 
Sự khác biệt về nội dung của CNCT trong giai đoạn xét xử 
vụ án hình sự giữa hai quốc gia nằm ở “sự chủ động” của CQCT 
trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, đặc biệt là trong xét hỏi/thẩm 
vấn. Phân tích từ cơ chế thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét 
xử, đặc biệt là trong chế định xét hỏi/ thẩm vấn tại phiên tòa, các 
Công tố viên/Kiểm sát viên đến từ Châu âu được tạo cơ chế linh 
hoạt, chủ động hơn các đồng nghiệp ở Việt Nam. 
2.4. Đánh giá tổng quan về sự tương đồng và khác biệt 
của chức năng công tố trong pháp luật tố tụng hình sự Đức và 
Việt Nam 
2.4.1. Đánh giá tổng quan về những điểm tương đồng cần 
tiếp tục ghi nhận, phát triển 
2.4.1.1. Tương đồng về đối tượng, phạm vi và chủ thể của chức 
năng công tố cần tiếp tục ghi nhận, phát triển 
Đối tượng và phạm vi của CNCT là hai vấn đề thể hiện sự 
tương đồng rất lớn trong TTHS Việt Nam và Đức. Sự tương đồng 
hoàn toàn trong nhận thức khoa học và lập pháp TTHS thể hiện 
chính sách hình sự nói chung, chính sách công tố của hai quốc gia có 
những chuẩn mực chung. 
Tương đồng về đối tượng, phạm vi của CNCT ở hai quốc 
gia một lần nữa khẳng định tính đúng đắn của lí luận và thực tiễn 
24 
TTHS về vấn đề này. Điều này cũng khẳng định thêm tính đúng đắn 
của quan điểm quyền công tố chỉ phát sinh trong lĩnh vực (tố tụng) 
hình sự - lĩnh vực quan trọng, thể hiện rõ nét nhất vai trò của Nhà 
nước, các cơ quan nhà nước được ủy quyền đối với chức năng duy trì 
trật tự, an ninh xã hội. 
Tiếp đó, sự thống nhất cao trong lí luận về chủ thể của 
CNCT trong TTHS ở hai quốc gia khẳng định sự đúng đắn trong 
định hướng cải cách tư pháp, cải cách CNCT ở quốc gia với mô hình 
TTHS thiên về thẩm vấn như Việt Nam. 
2.4.1.2. Tương đồng về nội dung của chức năng công tố cần 
tiếp tục ghi nhận, phát triển 
Sự tương đồng về nội dung của CNCT trong TTHS của hai 
quốc gia nằm ở những đặc trưng của mô hình TTHS thẩm vấn. Việt 
Nam và Đức, đều có nguồn gốc từ mô hình TTHS thẩm vấn, do đó, 
mặc dù quy định cụ thể về các chế định điều tra, truy tố, xét xử có 
những điểm khác biệt, tuy nhiên, những đặc trưng của mô hình này 
vẫn thể hiện rõ nét trong pháp luật TTHS Việt Nam và Đức, đặc biệt 
là mục tiêu của TTHS và phương pháp để đạt được mục tiêu đó trong 
TTHS. 
Sự tương đồng về nội dung của CNCT nêu trên một lần nữa 
khẳng định quan điểm đúng đắn của Nhà nước ta về cải cách mô 
hình TTHS. Đó là phải trên cơ sở tổng kết thực tiễn nhằm khắc phục 
một cách căn bản những vướng mắc, bất cập của mô hình TTHS hiện 
hành; nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động tư pháp hình sự, 
đồng thời phải xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, khẳng định việc tiếp 
tục duy trì và phát huy những ưu điểm vốn có trong mô hình TTHS 
25 
hiện hành; tiếp thu có chọn lọc những hạt nhân hợp lí của mô hình 
TTHS tranh tụng phù hợp với truyền thống văn hoá, điều kiện chính 
trị, kinh tế, xã hội cụ thể của nước ta. 
2.4.2. Đánh giá tổng quan về những điểm khác biệt của 
chức năng công tố ở Đức và kinh nghiệm cho Việt Nam 
2.4.2.1. Những điểm khác biệt về đối tượng, chủ thể và phạm 
vi của chức năng công tố ở Đức và kinh nghiệm cho Việt Nam 
Sự khác biệt [về mặt thực tế TTHS] về đối tượng, phạm vi 
của CNCT không xuất phát từ nội hàm của hai vấn đề này, mà xuất 
phát từ nội hàm của khái niệm tội phạm và sự phân loại tội phạm của 
hai quốc gia. 
Sự khác biệt từ nội hàm của khái niệm tội phạm và sự phân 
loại tội phạm đã dẫn đến một thực tế khác biệt trong áp dụng pháp 
luật TTHS giữa Việt Nam và Đức. Có những hành vi bị coi là tội 
phạm và là đối tượng của CNCT trong TTHS Đức, tuy nhiên, những 
hành vi đó lại không phải là đối tượng truy cứu trách nhiệm hình sự 
của CQCT của Việt Nam. Sự khác biệt góp phần làm phát sinh sự 
khác biệt về một nội dung quan trọng của CNCT - thẩm quyền tùy 
nghi truy tố. 
Sự khác biệt về chủ thể thực hiện CNCT giữa hai quốc gia 
phản ánh sự khác biệt rất lớn trong tư duy lập pháp TTHS, cụ thể hóa 
bởi các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của CQCT, Tòa án, CQĐT 
và mối quan hệ của các cơ quan này trong TTHS kể từ khi phát sinh 
cho đến khi chấm dứt chức năng quan trọng này. Tư duy lập pháp 
của các nhà làm luật ở Đức thể hiện vai trò “thống lĩnh” của CQCT - 
cơ quan nắm giữ CNCT. Trong khi đó, tư duy lập pháp của các nhà 
26 
làm luật ở Việt Nam cho thấy “vai trò quan trọng” của CQĐT. Sự 
khác biệt về tư duy lập pháp này là lăng kính phản ánh thực tiễn 
TTHS của chính quốc gia đó. 
2.4.2.2. Những điểm khác biệt về nội dung của chức năng 
công tố ở Đức và kinh nghiệm cho Việt Nam 
Sự khác biệt về nội dung của CNCT trong TTHS của hai quốc 
gia thể hiện ở ba vấn đề: (i) Trách nhiệm công tố trong hoạt động điều 
tra; (ii) Thẩm quyền đối với các biện pháp hạn chế quyền con người, 
quyền công dân; (iii) Mức độ tích hợp “yếu tố tranh tụng” trong giai 
đoạn truy tố và xét xử vụ án hình sự. 
Thứ nhất, trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra thể 
hiện mối quan hệ giữa CQCT và CQĐT. Nhìn từ bản chất của vấn 
đề, trách nhiệm công tố thể hiện mối quan hệ giữa CNCT và chức 
năng điều tra. Ở Đức, CQCT giữ vai trò chủ động và quyết định đối 
với việc phát động và chấm dứt công tố. Trong khi đó, ở Việt Nam, 
CQCT nắm quyền “quyết định” đối với các thẩm quyền này nhưng 
vai trò “chủ động” của CQĐT được ghi nhận trong cả lập pháp và 
thực tiễn TTHS. 
Thứ hai, đối với các biện pháp hạn chế quyền con người, 
quyền công dân, sự khác biệt giữa hai quốc gia cũng rất rõ nét. Ở 
Việt Nam, CQĐT được trao quyền chủ động trong việc áp dụng các 
biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân trong giai đoạn 
khởi tố, điều tra vụ án hình sự, trách nhiệm của Viện kiểm sát là phê 
chuẩn hoặc không phê chuẩn các quyết định của CQĐT. Trong khi 
đó, việc các nhà lập pháp của Đức đặt trách nhiệm lên vai hệ thống 
27 
Tòa án thẩm quyền đối với các biện pháp hạn chế quyền con người, 
quyền công dân là có cơ sở và rất đáng nghiên cứu, học tập. 
Thứ ba, trong giai đoạn truy tố và xét xử vụ án hình sự, 
BLTTHS Đức cho thấy mức độ tích hợp “yếu tố tranh tụng” rõ nét 
hơn so với BLTTHS năm 2015. Phân tích từ cơ chế thực hành quyền 
công tố trong giai đoạn xét xử, đặc biệt là trong chế định xét hỏi/ 
thẩm vấn tại phiên tòa, các Công tố viên đến từ Châu âu được tạo cơ 
chế linh hoạt, vị thế “khách quan” hơn các đồng nghiệp ở Việt Nam. 
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa sẽ không chủ động trong xét hỏi/thẩm 
vấn, sự chủ động này thuộc về các bên. Trong khi đó, ở Việt Nam, 
mặc dù đã có nhiều đổi mới nhằm đảm bảo kết hợp hài hòa giữa mô 
hình tố tụng thẩm vấn và mô hình tố tụng tranh tụng, bảo đảm 
nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, tuy nhiên vai trò chủ động của 
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa trong xét hỏi vẫn thể hiện rõ nét hơn so 
với chủ tọa phiên tòa ở Đức. 
Chương 3. 
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG 
CHỨC NĂNG CÔNG TỐ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT 
NAM TỪ KINH NGHIỆM CỦA ĐỨC 
28 
3.1. Yêu cầu của giải pháp nâng cao hiệu quả chức năng 
công tố trong tố tụng hình sự Việt Nam 
3.1.1. Quán triệt tư tưởng tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước 
pháp quyền 
3.1.2. Yêu cầu tăng cường tranh tụng trong hoạt động tố 
tụng hình sự, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong tình hình 
mới 
3.1.3. Yêu cầu bảo đảm quyền con người 
3.1.4. Yêu cầu bảo đảm tính khả thi 
3.1.5. Yêu cầu hội nhập quốc tế 
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả chức năng công tố 
trong tố tụng hình sự Việt Nam 
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về chức năng 
công tố 
3.2.1.1. Hoàn thiện kết cấu của BLTTHS về chủ thể tố tụng 
Chúng tôi đề xuất cần thay đổi cơ cấu của BLTTHS hiện 
hành theo hướng quy định 01 Chương chung với tên gọi là “Các chủ 
thể tố tụng hình sự”, trong đó bao gồm chế định về chủ thể buộc tội, 
chủ thể bào chữa, Tòa án và các chủ thể khác tham gia TTHS. Nội 
dung Chương này sẽ thay thế các Chương III (Cơ quan có thẩm 
quyền THTT, người có thẩm quyền THTT) và Chương IV (Người 
tham gia tố tụng) trong BLTTHS 2015 hiện hành. 
3.2.1.2. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự bảo đảm tăng 
cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra 
29 
Chúng tôi cho rằng, cần nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật 
TTHS theo hướng trao cho Viện kiểm sát thẩm quyền đúng đắn, phù 
hợp với nội hàm của CNCT mà hệ thống cơ quan này được giao nắm 
giữ, cụ thể như sau: 
(1) Đối với thẩm quyền quyết định phát động và chấm dứt 
công tố, cần sửa đổi quy định có liên quan của BLTTHS, Luật Tổ 
chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 theo hướng chỉ CQCT mới 
có thẩm quyền quyết định việc khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can 
và đình chỉ vụ án. 
(2) Đối với các hoạt động điều tra nhằm thu thập chứng cứ, 
hỗ trợ cho hoạt động công tố mà không có tính chất phát động hay 
chấm dứt quyền công tố (khám nghiệm hiện trường, hỏi cung bị can, 
trưng cầu giám định), CQĐT được quyền chủ động tiến hành. Tuy 
nhiê
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
tom_tat_luan_an_chuc_nang_cong_to_trong_to_tung_hinh_su_viet.pdf