Vũ trụ quan trong dân ca nghi lễ của người Dao Tuyển bao gồm mọi thứ
đang tồn tại, đã tồn tại và sẽ tồn tại. Ở vũ trụ ấy con người mơ ước “thông
quan” với thế giới thần linh qua những làn điệu dân ca nghi lễ của dân tộc
mình. Trong ba loại dân ca nghi lễ của người Dao Tuyển mà luận án tập trung
nghiên cứu thì dân ca trong nghi lễ tang ma bộc lộ rõ nét nhất quan niện về vũ
trụ quan dân gian của tộc người. Chính vì vậy, mà trong phần nghiên cứu về vũ
trụ quan trong dân ca nghi lễ của người Dao Tuyển chúng tôi tập trung nghiên
cứu trong loại dân ca nghi lễ tang ma để thấy được rõ, quan niệm về vũ trụ của
tộc người Dao Tuyển.
Dân ca trong nghi lễ tang ma có các bài: 1/ Bài Nhập quan ca là bài hát để
nhập hồn và xác người chết vào quan tài; 2/ Bài Thập diện ca đây là bài hát các
thầy cúng hát lên để dẫn dắt linh hồn người chết qua các cửa, các chướng ngại
vật để “Lên đến Dương Châu”; 3/ Các bài Cúng đám gồm các bài ca Từ biệt,
Dâng hiến và Đưa ma. Các bài hát này được thầy cúng chính xướng lên trong
các nghi thức chính của đám ma kết hợp với trống, chiêng và kèn Pí lè. Trong
tín ngưỡng của người Dao Tuyển, khi một người chết đi có nghĩa là họ đã được
trở về với tổ tiên ở Mai Sơn. Tuy nhiên, muốn người chết nhanh chóng tìm được
về với cội nguồn thì người sống phải thực hiện đầy đủ những nghi lễ tang ma
theo đúng phong tục của tộc người.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Dân ca nghi lễ trong đời sống văn hóa của người dao tuyển ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ển hiện nay có tới 12
họ.
Trong mỗi gia đình người Dao Tuyển, người chồng giữ vị trí chủ gia
đình, tuy nhiên người chủ gia đình phải trải qua lễ cấp sắc, theo phong tục của
họ nếu bố chết con trai trưởng sẽ thay thế vị trí chủ gia đình. Người chủ gia
đình có trách nhiệm phân công lao động, đảm nhiệm các công việc nặng nhọc.
Người Dao Tuyển quan niệm trời đất là do Cao Vương và Bình Vương
tạo ra. Mặt đất rộng hơn bầu trời, nên Cao Vương đã tạo ra mặt trời chiếu sáng
trần gian rồi mới có “nhân loài”, “núi cao núi đối núi”, “ các thầy với các
cô”. Đó cũng chính là nét độc đáo trong quan niệm về trời đất của người Dao
Tuyển là mặt trời xuất hiện trước, rồi mới đến con người và vạn vật.
Người Dao Tuyển quan niệm con người có hai phần là phần hồn và phần
xác. Nếu hồn rời khỏi cơ thể đi “lang thang” ở đâu đó, con người rơi vào trạng
thái đau ốm. Khi bị ốm người Dao Tuyển làm lễ cúng để gọi hồn về với xác
nhưng nếu gọi mãi mà hồn với xác không nhập vào với nhau, cái chết sẽ xảy ra
8
với con người. Người Dao Tuyển quan niệm: “Sinh, tử, nhân hồn tầm lưỡng
cực/ Ngũ vận tuần hoàn với luân xe” (Có nghĩa là: “Sinh ra là người ở thế giới
cực dương/ Chết đi là hồn ở thế giới cực âm/ Con người như bánh xe quay
vòng qua năm vận”) nên họ có những nghi lễ (làm ma) cho người chết rất khác
biệt so với các dân tộc khác.
1.3.2. Khái quát về dân ca nghi lễ của người Dao Tuyển
Trong đề tài nghiên cứu của luận án, chúng tôi tập trung đi sâu vào
nghiên cứu ba loại dân ca tiêu biểu trong nghi lễ vòng đời là dân ca nghi lễ cấp
sắc, dân ca nghi lễ đám cưới và dân ca nghi lễ tang ma. Bởi đây là ba nghi lễ
lớn trong vòng đời của một người Dao Tuyển, còn nghi lễ đặt tên mặc dù được
coi là nghi lễ đầu tiên, đánh dấu sự ra đời của một con người nhưng nó chỉ là
một nghi lễ nhỏ, không có sự tham góp của cả cộng đồng, chủ thể diễn xướng
chỉ là cha đứa trẻ, hoặc ông nội. Nghi lễ này không mời thầy cúng và chỉ sử
dụng duy nhất một bài dân ca nghi lễ đó là bài La jủng kẻng (Bài hát đặt tên).
Dân ca của người Dao Tuyển cũng giống như dân ca của các nhóm Dao
khác nó được hình thành từ thơ và ca, bởi thơ và ca gắn liền với nhau. Các bài
dân ca nghi lễ của người Dao Tuyển chiếm một vị trí đáng kể, có 83/ 90 bài
dân ca được sử dụng trong nghi lễ cấp sắc và tang ma, còn 07 bài dân ca đó là
các bài: Hiến hương, Hiến hoa, Hiến đèn, Hiến trà, Hiến cơm, Hát dâng trống,
Hát dâng thanh la được sử dụng chung cho phần hát dâng hiến của 2 nghi lễ.
Nghi lễ đám cưới ngoài 43 bài dân ca được sử dụng trong các nghi lễ chính thì
còn có tới 58 bài dân ca được ông mối hát đơn xin ma tổ tiên phù hộ cho việc
xin dâu thành công, hát xin nghỉ trạm, hát xin được vào làng Bên cạnh đó
một số truyện thơ của dân tộc như: Trường ca Bàn Hộ, Truyện Bàn Vương, Inh
tòi dung (Hát Anh Đài), Ly hương ca, Cửu giang ca... cũng được người Dao
Tuyển sử dụng trong các nghi lễ vòng đời. Các bài ca ấy người Dao Tuyển gọi
là Có, bởi nội dung những bài dân ca nghi lễ (đồng thời là những bài cúng) ấy
đã “phản ánh quan niệm của người Dao về nguồn gốc vũ trụ, nguồn gốc muôn
vật, nguồn gốc loài người nói chung và nguồn gốc người Dao nói riêng”, các
bài “Dằm ja jủng” được người Dao Tuyển ghi chép trong các sách dạy hát (dạy
cúng) bằng chữ Nôm Dao.
Các bài dân ca nghi lễ có ý nghĩa quan trọng với cuộc đời mỗi người
Dao Tuyển, bởi thông qua các bài ca người đọc, người nghe hiểu được những
khát vọng, những mong muốn của con người với thế giới tự nhiên với thế giới
thần linh.
Tiểu kết chương 1
Như vậy, từ những lát cắt về dân ca nghi lễ, về văn hóa tâm linh...
chúng ta có thể hình dung một cách khái quát về lịch sử cư trú, những đặc
trưng cơ bản về văn hóa tộc người và dân ca nghi lễ của người Dao Tuyển.
Những vấn đề đó mang tính chất tiền đề cho việc tìm hiểu, nghiên cứu
chuyên sâu về nội dung phản ánh và nghệ thuật trong dân ca nghi lễ của
người Dao Tuyển. Bên cạnh đó, việc trình bày tổng quan về lịch sử vấn đề
nghiên cứu, khái niệm, thuật ngữ, phương pháp nghiên cứu, đóng góp của
9
luận án.cũng là cơ sở để chúng tôi tìm hiểu từng vấn đề cụ thể trong quá
trình khám phá dân ca nghi lễ của người Dao Tuyển.
Chương 2
DIỄN TRÌNH DIỄN XƯỚNG DÂN CA NGHI LỄ
CỦA NGƯỜI DAO TUYỂN
Trong khuôn khổ của luận án, chúng tôi chỉ đi vào nghiên cứu mảng các
bài dân ca nghi lễ trong sinh hoạt gia đình với ba loại hình tiêu biểu đó là: Dân
ca nghi lễ cấp sắc, dân ca nghi lễ đám cưới và dân ca nghi lễ tang ma. Ba loại
hình dân ca nghi lễ tiêu biểu của người Dao Tuyển được chúng tôi xem xét
trong quy trình diễn xướng dân ca, cụ thể như sau:
2.1. Dân ca trong nghi lễ cấp sắc
Chúng tôi thiết lập bảng biểu theo diễn trình các nghi lễ sử dụng dân ca
trong bối cảnh buổi lễ cấp sắc của người Dao Tuyển như sau:
Bảng 1: Diễn trình nghi lễ cấp sắc của người Dao Tuyển
Bối cảnh diễn xướng Bài ca
Sáng ngày thứ nhất: Mở chay đàn
mời Công Tào, Thánh Sư
Thầy cúng chính hát bài Mời thầy Công
Tào, Thánh Sư.
Buổi trưa ngày thứ nhất: Lễ mời
các thần Bàn Vương, Ngọc Hoàng
về giúp các Thánh, Sư bảo vệ
người cấp sắc
Thầy cúng chính và hai thầy cúng phụ
hát bài Mời thần:
Buổi chiều ngày thứ nhất: Dâng
lễ mời các thầy của các thầy cúng
về giúp sức
Các thầy hát bài Mời sư thầy.
Tại cửa lầu nơi ngự của thần Đế
Mẫu
Sau khi mời các sư thầy các thầy cúng
sẽ hát bài Mời Thần Đế mẫu.
Tại cửa nơi địa ngục, cửa Lạnh,
cửa Huyền môn (đây là các cửa
tượng trưng)
Các thầy hát xin mở các cửa để người
cấp sắc đi qua, các thầy hát bài Ngọc nữ
hát xin qua cửa.
Đêm thứ nhất: Trước bàn thờ các
thầy làm lễ khai quang cho người
cấp sắc
Hát bài Ngọc nữ lên đèn, lên hương,
Ngọc nữ về đàn, Tạ ơn Pháp sư, Tạ ơn
Ngọc Hoàng..
Lễ Đồng tử giáng sinh tại Mai Sơn Các thầy hát bài Ngọc nữ lên đèn.
Buổi trưa ngày thứ hai : Lễ cấp
ấn tín
Thầy cúng chính hát bài Trao ấn tín.
Chiều ngày thứ hai: Lễ dạy đệ tử
kinh giáo lý
Các thầy cúng dạy người cấp sắc các
bài kinh Đạo làm con, đạo làm trò, biết
ơn các Thánh Sư
Tối ngày thứ hai : Trước Choong
tàn, các thầy cúng trao lại con cho
cha mẹ
Các thầy cúng cùng đệ tử của các thầy
múa và hát bài Dâng trống, dâng thanh
la, dâng tiền.
Sáng ngày thứ ba: Các thầy cúng Các thầy hát bài Ngọc nữ hát giáng
10
thực hiện nghi lễ đưa người thụ lễ
từ Mai Sơn giáng sinh về dương
thế đã có đủ âm binh và ấn tín trở
thành đệ tử của Công Tào, Thánh
Sư trước Choong tàn.
sinh.
Trưa ngày thứ ba: Lễ cấp Lương
liệu bổng lộc cho người cấp sắc.
Thầy cúng chính hát bài Cấp lương liệu
bổng lộc.
Chiều ngày thứ ba: Lễ chúc mừng
Tân Ân (tức là chúc mừng người
thụ lễ đã được cấp sắc).
Các thầy cúng hát bài Mừng Tân Ân.
Đêm ngày thứ ba: Lễ dâng hiến Các thầy hát các bài ca dâng hiến: Hiến
hoa, Hiến cơm, Hiến rau, Hát dâng
bảng, Hát tiễn thần
Dựa vào bảng mô tả diễn trình dân ca nghi lễ cấp sắc đã nêu ở trên chúng
tôi phân ra thành hai chặng đoạn sử dụng các bài dân ca trong nghi lễ cấp sắc,
đó là: Các bài dân ca trước khi thực hành nghi lễ cấp sắc và các bài dân ca
trong khi thực hành nghi lễ cấp sắc.
2.2. Dân ca trong nghi lễ đám cưới
Diễn trình nghi lễ cưới xin của người Dao Tuyển được tiến hành theo các
nghi thức cụ thể, chúng tôi lập bảng biểu các nghi thức có sử dụng các bài dân
ca như sau:
Bảng 2: Diễn trình nghi lễ cưới hỏi của người Dao Tuyển
Bối cảnh diễn xướng Các bài dân ca
Lễ so tuổi Không có bài dân ca mang tính chất cố
định nào được diễn xướng, chỉ có
những câu ca đối đáp tự do
Lễ dạm ngõ Ông mối hát bài hát cố định: So duyên,
sau đó hai bên hát những bài hát giao
duyên tự do
Lễ ăn hỏi Ông mối và ông cậu cô dâu hát đối đáp
về các lễ vật thách cưới như: Thách lợn,
rượu, gạo, gà Các bài hát này thường
là những lời hát tự do có thể do hai bên
tự ứng tác hoặc cũng có thể là dựa vào
những lời hát cố định có sẵn để ứng tác.
Lễ cưới, gồm các nghi thức sau:
Thành hoàng ải (Ải thôn)
Hát đối đáp 15 bài dân ca về các nội
dung sau: Cửa ải, lý do đến ải, đưa tiền
cúng thành Hoàng làng, hát hỏi các sự
vật ở quanh cửa ải, nguồn gốc ra đời
của đồng tiền Ti Lộ
Hát ở sân nhà gái (trong nghi
thức trao lễ vật cưới)
Hát đối đáp 38 bài về các nội dung sau:
Các lễ vật nhà trai mang đến nhà gái để
xin dâu, hát về công lao sinh thành của
11
cha mẹ, hát về nguồn gốc ra đời của
các lễ vật, hát về công lao của các vị
thần đã xe duyên và phù trợ.
Hát ở trước bàn thờ nhà gái
(trong nghi thức trầu cau)
Hát đối đáp 32 bài về các nội dung sau:
Bình “Lạy éng”, nguồn gốc trầu cau,
nguồn gốc lúa ngô, nguồn gốc chè,
thuốc lào, trình báo ma tổ tiên
Hát ở cửa buồng cô dâu (Trong
nghi thức trao tờ bản mệnh)
Hát đối đáp 36 bài về các nội dung sau:
Trình hồng thư cho nhà gái, làm lễ xe
duyên âm cho cô dâu chú rể, bàn giao
“Clong gai” (12 hồng lễ)
Cửa nhà gái (trong nghi thức
vượt ải bố mẹ)
Hát đối đáp 38 bài về các nội dung sau:
Xin vượt qua ải bố mẹ, lại lễ cho nhà
trai, hát cảm ơn ông mối
Hát ở ngoài sân ban đêm tại nhà
trai
Các bài hát tự do được hai bên nhà trai
gái tự ứng tác hát để chào tạm biệt
nhau.
Nhìn vào bảng mô tả diễn trình nghi lễ nêu trên chúng ta có thể thấy bối
cảnh diễn xướng được gắn liền với các lời ca trong từng nghi lễ và trong từng
không gian thời gian.
2.3. Dân ca trong nghi lễ tang ma
Chúng tôi xin trình bày diễn trình các nghi lễ có sử dụng dân ca trong
nghi lễ tang ma trong bối cảnh diễn xướng qua bảng biểu về các nghi lễ ấy như
sau:
Bảng 3: Diễn trình nghi lễ tang ma của người Dao Tuyển
Bối cảnh diễn xướng Bài ca
Nghi lễ làm ma tươi
được diễn xướng trong
các bối cảnh sau: Lễ
nhập quan
Thầy cúng hát bài: Nhập quan ca.
Lễ khởi trống Thầy cúng hát bài: Khởi trống.
Lễ báo ân Thầy cúng hát bài: Báo ân.
Lễ hưởng thực Thầy cúng hát bài: Mời cơm, mời rượu, mời trà.
Nghi thức đưa ma Thầy cúng hát bài: Thập diện ca, ra đồng ca.
Lễ hạ huyệt Thầy cúng hát bài: Thập biệt ca
Nghi lễ làm ma khô,
được diễn xướng trong
các bối cảnh sau: Lễ cải
táng
Thầy cúng hát bài: Tiễn hồn
Lễ phá ngục Thầy cúng hát bài: Phá ngục ca
Lễ dâng nhà táng Thầy cúng hát bài: Bài ca dâng nhà táng
12
Nhìn vào bảng trên chúng ta có thể thấy bối cảnh diễn xướng được gắn
liền với các lời ca trong từng nghi lễ ma tươi, ma khô và trong từng không gian
thời gian.
Tiểu kết chương 2
Trong quá trình thực hành các nghi thức cấp sắc, đám cưới, tang ma, các
bài dân ca được người Dao Tuyển sử dụng gắn trực tiếp với quá trình diễn tiến
của các nghi thức ấy. Dân ca được ra đời và vận hành trong đời sống tộc người
với tư cách như một thành tố văn hóa tạo nên bản sắc riêng cho văn hóa tộc
người. Đó là một hệ thống các giá trị của văn hóa phản ánh những cá tính riêng
của tộc người. Dân ca trong thực hành nghi lễ của người Dao Tuyển từ xa xưa
đã trở thành tiếng nói tâm tình, tiếng nói tâm linh của cộng đồng. Ở đó không
chỉ là ứng xử giữa con người với con người mà còn là ứng xử giữa con người
với thế giới siêu nhiên bí ẩn mà họ tin rằng đang chi phối cuộc sống con người
nơi trần gian.
Từ việc phác họa diện mạo của dân ca nghi lễ ở chương này chúng tôi
mô tả lại quá trình diễn ra của các nghi lễ. Mỗi nghi lễ ấy được tiến hành qua
nhiều bước với nhiều lễ thức khác nhau ứng với từng bài ca nghi lễ. Song
qua các lễ thức và các bài dân ca các quan niệm, tập quán, tín ngưỡng của
tộc người được phản ánh rõ nét. Đặc biệt các nghi lễ ấy cho đến tận ngày nay
vẫn được duy trì và đảm bảo được các nguyên tắc, các luật tục, các quan
niệm về thế giới quan, nhân sinh quan của tộc người, điều đó thể hiện sự đa
dạng và thống nhất trong văn hóa tộc người Dao Tuyển.
Chương 3
SỰ PHẢN ÁNH THẾ GIỚI TÂM LINH VÀ ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI
TRONG DÂN CA
NGHI LỄ CỦA NGƯỜI DAO TUYỂN
Dân ca nghi lễ của người Dao Tuyển chứa đựng những nét văn hóa
truyền thống của cộng đồng, ở đó phong tục tập quán, tín ngưỡng và tôn giáo
được “phát lộ” trong tiến trình thực hành nghi lễ cấp sắc, đám cưới, tang ma.
Trong dân ca nghi lễ của người Dao Tuyển còn phản ánh cả những tư tưởng,
tình cảm, thế giới quan, vũ trụ quan, những quy tắc ứng xử giữa các thành viên
trong gia đình, dòng tộc và trong cộng đồng, những yếu tố văn hóa tinh thần
vừa cụ thể vừa trừu tượng được lồng kết qua những lời ca nghi lễ của người
Dao Tuyển.
3.1. Dân ca nghi lễ phản ánh thế giới quan của người Dao Tuyển
Khái niệm thế giới quan chúng ta có thể hiểu như sau: “Thế giới quan bao
gồm những hiểu biết rộng lớn nhất về sự vận hành của thế giới, con người có
khuynh hướng xem xét những gì họ đã biết và dựa trên hiểu biết này mà tìm ra
những manh mối giúp họ hiểu được phần nào những điều họ còn băn khoăn,
ngỡ ngàng”. Qua dân ca nghi lễ chúng ta chỉ ra sự vận hành của thế giới ảnh
hưởng như thế nào đến những quan niện, tín ngưỡng, tâm lý của người Dao
Tuyển.
13
Đối với người Dao nói chung và người Dao Tuyển nói riêng, Đạo giáo
được coi là một tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc nhất đến tín ngưỡng của họ.
Đạo giáo cũng ảnh hưởng sâu sắc đến quan niệm về vũ trụ của họ. Người Dao
Tuyển quan niệm vũ trụ có ba tầng, bốn thế giới được phân bố theo một trục
dọc: tầng cao nhất là Ngọc Hoàng, các vị thần thánh và tổ tiên, tầng thứ hai là
thế giới của con người đang sống, phía dưới đáy các con sông là tầng thứ ba
của thế giới, ở tầng thứ ba này được chia ra làm 2 thế giới, thế giới sinh sống
của thủy thần và thế giới sinh sống của “Trăm họ Thủy Tiên”. Ba tầng của vũ
trụ có mối quan hệ qua lại không tách rời nhau.
Xuất phát từ quan niệm về vũ trụ có ba tầng, người Dao Tuyển cho rằng
những con người “nhỏ bé ở dưới đất” nếu như không được cấp sắc thì khi chết
không được về với tổ tiên, lúc sống không được cúng bái cha mẹ, không được
công nhận là con cháu Bàn Vương. Cũng do ảnh hưởng của Đạo giáo nên
người Dao nói chung và người Dao Tuyển nói riêng quan niệm Ngọc Hoàng là
người “hóa cách” giúp người Dao Tuyển vượt qua mọi khó khăn. Bàn Vương
(hay còn gọi là Bàn Cổ) là người sinh ra vạn vật và con người trong thế giới tự
nhiên. Bàn cổ, Ngọc Hoàng và các vị thần sinh sống ở tầng thứ nhất (tầng trời),
con người sinh sống ở tầng thứ hai và người chết linh hồn chưa được luân hồi
sẽ sinh sống ở thế giới thứ 2 của tầng thứ ba vũ trụ. Do vậy, Bàn Vương được
người Dao Tuyển coi như một tiểu vũ trụ mênh mông, huyền bí, tạo ra châu
thành, mặt trời, biển, rừng đồng thời cũng là ông tổ của người Dao Tuyển có
sức mạnh siêu nhiên hộ mệnh, chi phối mọi duyên số, công danh, sức khỏe,
đường đời của vạn vật trong tự nhiên cũng như con người.
Đạo giáo đã phát huy được ảnh hưởng mạnh mẽ của mình trong tín
ngưỡng thờ thần của người Dao Tuyển, bởi nó xuất phát từ lòng tin của họ là
xung quanh cuộc sống con người có một thế giới vô hình, ở đó các vị thần linh
luôn theo dõi và phù trợ cho con người. Với lòng tin đó nên khi mở đầu các
nghi lễ, thầy cúng chính phải thực hiện nghi lễ mời thần về trợ giúp trong suốt
quá trình thực hành nghi lễ, các thần được mời về là: Ngọc Hoàng, Bàn Vương,
Tam Thanh, Tam Nguyên, Bà Mụ Đặc biệt người Dao Tuyển luôn mơ ước
mình sẽ được đặt chân vào không gian thiêng Mai Sơn. Để thực hiện được mơ
ước này, những người đàn ông Dao Tuyển phải trải qua nghi lễ cấp sắc, khi đó
họ sẽ được các thầy công nhận là đệ tử của Đạo Giáo, cũng có nghĩa là họ được
đặt chân vào không gian thiêng của Mai Sơn. Có như vậy, khi họ lấy vợ, sinh
con, khi già chết đi những người đàn ông Dao Tuyển mới được các vị thần
linh ở Mai Sơn về trợ giúp.
Không gian thiêng ấy không chỉ bó hẹp ở Mai Sơn mà nó còn trải dài ra
tận cửa biển, ở không gian đó người Dao Tuyển đã lưu giữ lại ký ức vượt biển
trong quá trình di cư của tộc người. Cũng từ không gian thiêng nơi cửa biển ấy,
chúng ta thấy thấp thoáng hiện ra thời gian lịch sử của tộc người Dao Tuyển.
Trong dân ca nghi lễ của người Dao Tuyển, thời gian lịch sử được nhìn từ phía
hiện thực phản ánh, là sự đồng hiện của ba mảng lớn: lịch sử tộc người, quá
trình di cư và quá trình định cư tại vùng đất mới. Thời gian lịch sử thể hiện
trong dân ca nghi lễ là thời gian quá khứ xác định, thông qua những lời ca
14
người nghe nhận biết được những mốc lịch sử cụ thể của tộc người như: vào
triều đại nhà Tùy, Đường, Tống người Dao nói chung trong đó có người Dao
Tuyển di chuyển từ “phương Bắc” sang phía Đông Tây; Rồi đến đời Minh,
Thanh họ bắt đầu di cư đến Giao Chỉ... Như vậy, thời gian lịch sử trong dân
ca nghi lễ của người Dao Tuyển chính là thời gian diễn xướng vì thời gian lịch
sử và thời gian diễn xướng hòa vào làm một và không thể phân biệt rạch ròi.
Dân ca nghi lễ được chủ thể diễn xướng và người tham dự nghi lễ hát lên như
chính mình là người đang sống trong giai đoạn lịch sử đó.
3.2. Dân ca nghi lễ phản ánh vũ trụ quan của người Dao Tuyển
Vũ trụ quan trong dân ca nghi lễ của người Dao Tuyển bao gồm mọi thứ
đang tồn tại, đã tồn tại và sẽ tồn tại. Ở vũ trụ ấy con người mơ ước “thông
quan” với thế giới thần linh qua những làn điệu dân ca nghi lễ của dân tộc
mình. Trong ba loại dân ca nghi lễ của người Dao Tuyển mà luận án tập trung
nghiên cứu thì dân ca trong nghi lễ tang ma bộc lộ rõ nét nhất quan niện về vũ
trụ quan dân gian của tộc người. Chính vì vậy, mà trong phần nghiên cứu về vũ
trụ quan trong dân ca nghi lễ của người Dao Tuyển chúng tôi tập trung nghiên
cứu trong loại dân ca nghi lễ tang ma để thấy được rõ, quan niệm về vũ trụ của
tộc người Dao Tuyển.
Dân ca trong nghi lễ tang ma có các bài: 1/ Bài Nhập quan ca là bài hát để
nhập hồn và xác người chết vào quan tài; 2/ Bài Thập diện ca đây là bài hát các
thầy cúng hát lên để dẫn dắt linh hồn người chết qua các cửa, các chướng ngại
vật để “Lên đến Dương Châu”; 3/ Các bài Cúng đám gồm các bài ca Từ biệt,
Dâng hiến và Đưa ma. Các bài hát này được thầy cúng chính xướng lên trong
các nghi thức chính của đám ma kết hợp với trống, chiêng và kèn Pí lè. Trong
tín ngưỡng của người Dao Tuyển, khi một người chết đi có nghĩa là họ đã được
trở về với tổ tiên ở Mai Sơn. Tuy nhiên, muốn người chết nhanh chóng tìm được
về với cội nguồn thì người sống phải thực hiện đầy đủ những nghi lễ tang ma
theo đúng phong tục của tộc người.
Trong tiềm thức của người Dao Tuyển chết có nghĩa là họ được trở về với
cội nguồn và trở về với vũ trụ “hỗn độn, đen ngòm”. Song đối lập với vũ trụ “hỗn
độn, đen ngòm” của người chết là vũ trụ phân khai thành trời đất của “kẻ hiện
là dương” đang ở “Cõi trần sinh sống”. Họ luôn coi khi kết thúc cuộc sống ở
cõi trần, trở về cuộc sống nơi cõi âm, đi qua 10 cửa nơi cõi âm, vượt qua cầu
Nại Hà họ trở về cõi trời nơi mà linh hồn con người trú ngụ để chờ tái sinh.
Thông qua các bài ca nghi lễ chúng ta thấy, người chết luôn mong muốn
được quay lại cõi trời nên sau khi chết xuống 18 tầng địa ngục con cháu phải
làm lễ phá ngục, đưa linh hồn đi qua tình trạng hỗ mang của vụ trụ trở về tầng
trời rồi, ở đó họ chờ ngày được tái sinh quay trở lại mặt đất, bắt đầu một cuộc
sống mới nơi cõi trần. Trong bài Thập diện ca thông qua diễn xướng của thầy
cúng chính, linh hồn của người chết đã phải “đối thoại” với các ma canh ở 10
cửa, khát vọng hóa thân, đầu thai trở lại thành con người sống ở trần gian, để ma
canh cửa báo lại với Ngọc Hoàng mong muốn của họ: Ở cửa “Tần quảng điện
đế vương” linh hồn người chết xin được “phục sinh” để qua cửa không “bị
chìm”; ở cửa “Sở giang điện vương đế” linh hồn người chết phải “giải tội
15
tình”, “Giải thích oan uổng trên dương thế” để khi được tái sinh họ sẽ tránh
được mọi “phiền hà”; ở cửa “Tông đế điện vua” xin mở rộng, thông đường đến
ngục Minh ty để linh hồn không phải “ưu sầu” trên quãng đường tối tăm, mờ
mịt đó; ở cửa “Ngũ quan điện vương đế” linh hồn xin ra khỏi ngục tối để được
lên trời, tránh gặp các loài vật, thú dỡ ngăn cản; ở cửa “Diên la đế” linh hồn xin
Diêm la đế cho được tái sinh ở đời sau; ở cửa “Minh Vương Đô Thị đế” linh
hồn mong được con cháu báo hiếu để có cuộc sống “Phúc đầy cửu dương”,
“Vui vẻ ngao du đất không đêm”; ở cửa “Minh Ty Bình Đẳng đế” linh hồn
mong muốn nhanh được “Thác sinh đời sau được phong lưu”; ở cửa “Thái Sơn
Điện Vương đế” linh hồn mong khi được “hoàn dương” ở “Kiếp sau linh hồn
được trường thọ”; ở cửa “Kiều Hà điện ngọc đế” linh hồn mong muốn được
các ma dẫn qua “Cầu vàng cầu bạc” để không bị “sẩy chân rơi Nại Hà”; ở cửa
thứ 10 cũng là cửa của “ đế vương” qua được cửa này linh hồn sẽ được thác ở
kiếp sau và lên thẳng “thiên đường nơi tiên cảnh”.
Trong quan niệm của người Dao Tuyển, người chết là “mắt nhắm rồi”,
“Dung nhan khép lại”, tắt thở khi đó con cháu mời thầy cúng về để giao tiếp với
hồn, bởi hồn là cái mà người thường không nhìn, sờ, nắm, bắt được, hồn không
chết như thân xác nó chỉ chuyển từ không gian sống cùng con cháu vào không gian
“ chiếc quan tài nhỏ xinh”, đến không gian mộ. Người Dao Tuyển cho rằng con
người có “ba hồn, chín vía” nên hồn thứ nhất sẽ nằm trong không gian mộ, hồn
thứ hai sẽ được con cháu đón từ không gian mộ về không gian linh vị “Điện biệt
tam hồn ở linh vị”, hồn thứ hai sẽ ở nhà cùng con cháu, hồn thứ ba sẽ “luân
chuyển linh hồn” và “Lên đến Dương Châu, án gia tiên”. Theo như thầy cúng Lý
Vần Sẩu, Bản Lầu, Mường Khương, Lào Cai thì hồn gắn chặt với xác ở không
gian mộ gọi là “hòn thỉn thuung” (hồn xác), còn hồn ở không gian nhà và không tổ
tiên Dương Châu được gọi là “hòn” (linh hồn), phần “hòn” sẽ có một hành trình
đầy gian nan vất vả từ linh vị xuống âm phủ.
3.2. Dân ca nghi lễ phản ánh triết lý nhân sinh quan của người Dao Tuyển
Triết lý nhân sinh quan là quan niệm về cuộc sống của con người. Nhân
sinh quan phản ánh sự tồn tại trong xã hội của con người. Nội dung biểu hiện
của nó chính là những nhu cầu, lợi ích, khát vọng và hoài bão của con người
trong mỗi chế độ xã hội cụ thể.
Dân ca nghi lễ của người Dao Tuyển phản ánh được những quy tắc ứng
xử trong tình yêu. Nét đẹp trong tình yêu đôi lứa, trong hôn nhân, gia đình của
người Dao Tuyển được hình thành và phát triển trên nền tảng của tình yêu gắn
liền với sự chung thủy. Đó được coi là nền tảng vững chắc để duy trì hạnh
phúc gia đình và chống lại chế độ đa thê. Trai gái người Dao Tuyển thường
tham gia các cuộc hát “Páo dung” được tổ chức vào những dịp đầu xuân, hát
hội để chọn vợ, chọn chồng. Khi trai gái đã vừa ý nhau họ thường mượn
những lời “Páo dung” để bày tỏ tới người bạn tình của mình mơ ước xây dựng
một gia đình đầm ấm, hạnh phúc trong tương lai. Khi đã yêu nhau hướng đến
xây dựng gia đình họ luôn luôn thể hiện khát vọng “thủy chung”, “mãi mãi dài
lâu ở bên nhau”. Chung thủy trong tình yêu nên trai gái người Dao luôn mong
ước người yêu của mình không thay lòng đổi dạ, chung thủy trước sau như một.
16
Họ “ước nguyện” thủy chung với nhau không chỉ ở kiếp này mà họ còn thề
nguyền sẽ chung thủy với nhau cả ở kiếp sau.
Trong dân ca nghi lễ của người Dao Tuyển quan niệm về lao động sản
xuất, thích ứng với tự nhiên cũng được phản ánh rõ nét thông qua việc ca ngợi
những sản vật do chính bàn tay lao động họ làm ra như: chuối, chè, trầu cau,
rượu trắng, thịt lợn, gạo, rau cải, măng trúc những sản vật ấy gắn liền với
đời sống văn hóa vật chất của tộc người. Trong các nghi lễ cấp sắc, đám cưới,
tang ma của người Dao Tuyển, các sản vật ấy vừa là lương thực, thực phẩm,
vừa là lễ vật dâng lên các thần, tổ tiên, vừa là lễ vật của nhà trai đem sang nhà
gái, vừa là lễ vật để con cháu báo hiếu với linh hồn người chết, bởi vậy trong
các bài dân ca trong nghi lễ có rất nhiều lời ca hát về nguồn gốc ra đời cũng
như giá trị của các loại sản vật này.
Không chỉ phản ánh những quy tắc ứng xử trong cuộc sống, dân ca nghi lễ
của người Dao tuyển còn phản ánh niềm tin tín ngưỡng của tộc người. Niềm tin
tin tín ngưỡng của người Dao Tuyển thể hiện qua hình ảnh các vị thần chẳng
khác gì những vị khách đặc biệt của gia đình, của làng bản được mời về để
chứng kiến các nghi lễ, cũng như chứng kiến niềm vui, sự bình an cho gia đình,
cho bản làng. Họ mong muốn các khách mời đặc biệt “Thánh thần” cùng các
“tân khách” sẽ vui vẻ, no say khi về tham dự các nghi lễ lớn trong vòng đời của
họ.
Tiểu kết chương 3
Thế giới tâm linh và đời sống con người trong dân ca nghi lễ của người
Dao Tuyển thể hiện ở quan niệm của tộc người về thế giới quan, vũ trụ quan,
bởi trong ý niệm của họ thế giới của thần linh, thế giới của người sống, thế giới
của người chết, nằm trên một trục dọc thẳng đứng. Song ở mỗi thế giới cuộc
sống của thần linh, con người, hồn xác là hoàn toàn khác biệt.
Phân tích sự phản ánh thế giới và đời sống con người trong dân ca nghi
lễ của người Dao Tuyển, chúng ta thấy rõ hơn sự nhìn nhận của họ về thế giới
vũ trụ, thế giới tâm linh và những quan niệm về tín ngưỡng, tôn giáo của tộc
người, cách ứng xử với đời sống, kinh tế, chính trị trong sinh hoạt hàng ngày,
cách ứng xử với thế giới thần
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dan_ca_nghi_le_trong_doi_song_van_hoa_cua_nguoi_dao_tuyen_o_viet_nam_7884_1937779.pdf