Tóm tắt Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của chấn động nổ mìn khi thi công đường hầm đến kết cấu công trình ngầm lân cận

Kích thước lưới mô hình được kiểm tra bằng cách sử dụng phương pháp so sánh vận tốc sóng

Rayleigh đặt được bằng phương pháp giải tích (theo công thức của Bergmann-Viktorov (E.G.

Nesvijski, 2000)) [76] và kết quả mô hình số với kích thước lưới là 0,5m. Giá trị sai khác theo

hai phương pháp là 2,71% nên kích thước lưới được xem là phù hợp, đảm bảo độ hội tụ của mô

hình. Ngoài ra, kích thước lưới cũng đã được kiểm tra theo điều kiện quan hệ giữa bước sóng và

kích thước phần tử (công thức của Lysmer và Kuhlemeyer, 1969 [38]). Phạm vi tần số thông

thường của chấn động gây ra bởi nổ mìn cho công trình ngầm dao động trong khoảng (50,0÷100,0)

Hz theo (Dowing, 1996 và Yang và n.n.k, 2003) [38]. Với những kiểm chứng trên cho thấy kích

thước phần tử đã chọn hoàn toàn thỏa mãn với điều kiện hội tụ của mô hình số

pdf28 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 25/02/2022 | Lượt xem: 423 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của chấn động nổ mìn khi thi công đường hầm đến kết cấu công trình ngầm lân cận, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
óng nén. Hai loại sóng trên là nguyên nhân sinh ra ứng suất kéo trong vỏ chống và là nguyên gây phá hủy vỏ chống. Có nhiều phương pháp tính toán, mô phỏng áp lực nổ mìn khi tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của chấn động nổ mìn. Việc lựa chọn mô hình áp lực nổ ảnh 7 hưởng trực tiếp đến kết quả mô hình. Việc lựa chọn mô hình mô phỏng có thể dưạ trên các yếu tố khác nhau như các dữ liệu đầu vào, các kết quả đo đạc thực tế hoặc dựa trên việc có sẵn các mô-đun trong các phần mềm chuyên dụng. Do việc lựa chọn phương pháp mô phỏng áp lực nổ được chọn: Khi có các kết quả đo đạc chuẩn xác, việc mô phỏng áp lực nổ có thể sử dụng công thức (2.37)(2.39), (2.42). Khi tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của chấn động nổ mìn đào đường hầm, thuốc nổ trên gương đường hầm được chia thành nhiều đợt nổ. Trong trường hợp thuốc nổ trên gương đường hầm nổ thành nhiều đợt khác nhau (thời gian vi sai lớn hơn 8 ms) nên chọn mô hình áp lực nổ theo công thức (2.42) (Wang, 1984) [67]. Công thức này do cho phép biểu diễn áp lực theo số đợt nổ trên gương. Trong phần sau của luận án tác giả sử dụng công thức trên để mô phỏng áp lực nổ mìn. CHƯƠNG 3. NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA CHẤN ĐỘNG NỔ MÌN ĐẾN KẾT CẤU ĐƯỜNG HẦM LÂN CẬN THI CÔNG ĐƯỜNG HẦM BẰNG PHƯƠNG PHÁP KHOAN NỔ MÌN BẰNG PHƯƠNG PHÁP ĐO ĐẠC HIỆN TRƯỜNG 3.1. Các phương pháp đánh giá ảnh hưởng chấn động nổ mìn đến công trình lân cận Trên thế giới để đánh giá chấn động nổ mìn có thể tiến hành theo một số phương pháp sau: ❖ Phương pháp 1- Giới hạn tiêu chuẩn PPV: yêu cầu mỗi vụ nổ được giám sát bởi một thiết bị đo chấn động có khả năng giám sát PPV, theo đó PPV nằm dưới mức quy định; ❖ Phương pháp 2 - Tiêu chuẩn tỉ lệ khoảng cách, đòi hỏi các nhà thầu khi thiết kế các vụ nổ với tỉ lệ khoảng cách. Với phương pháp này có thể không cần phải sử dụng thiết bị giám sát. ❖ Phương pháp 3-Tiêu chuẩn đồ thị mức độ chấn động nổ mìn. Nhìn chung ba phương pháp nêu trên đã bao quát được vấn đề đánh giá, các tiêu chuẩn nêu trên có thể áp dụng cho hầu hết các hạng mục công trình. 3.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của chấn động nổ mìn đến vỏ chống cố định của đường hầm lân cận khi đào hầm bằng phương pháp khoan nổ thông qua phương pháp đo đạc 3.2.1. Khảo sát mối quan hệ giữa PPV và tỉ lệ khoảng cách Trên cơ sở các dữ liệu đo thu được từ các cảm biến đặt trong vỏ chống bê tông cũ của đường hầm Croix-Rousse, Lyon, Pháp, bằng việc khảo sát mối quan hệ giữa PPV và tỉ lệ khoảng cách (𝑆𝐷 = 𝐷/√𝑄) luận án đưa ra biểu đồ tương quan như Hình 3.1 đến Hình 3.6. 8 Hình 3.1. Quan hệ giữa ln(PPV2) và tỉ lệ khoảng cách (D/√𝑄) (cảm biến A) Hình 3.2. Quan hệ giữa ln(PPV1) và tỉ lệ khoảng cách (D/√𝑄) (cảm biến P trong đoạn PM 220÷PM340) Hình 3.3. Quan hệ giữa ln(PPV2) và tỉ lệ khoảng cách (D/√𝑄) (cảm biến P tại vị trí PM 220÷PM340) Hình 3.4. Quan hệ giữa ln(PPV3) và tỉ lệ khoảng cách (D/ √𝑄) (cảm biến P tại vị trí PM 220÷PM340) Hình 3.5. Quan hệ giữa ln(PPV) theo ba phương và tỉ lệ khoảng cách (D/√𝑄) (cảm biến P tại vị trí PM 220÷PM340) Hình 3.6. Quan hệ giữa ln(PPV) theo ba phương (V, H, L) và tỉ lệ khoảng cách (D /√𝑄 ) (cảm biến T tại vị trí PM1400) [15] Dựa trên biểu đồ trên ta tính được các hệ số K và α, từ đó đưa ra công thức dự báo giá trị PPV cho hầm Croix-Rousse: + PPV theo phương thẳng đứng: ( ) 1,82 PPV 19,4 D/ Q − =  + PPV theo phương dọc trục: ( ) 1.56 PPV 1,93 D/ Q − =  + PPV tổng hợp của cảm biến T1400: 9 + PPV theo phương nằm ngang: ( ) 2,01 PPV 28,5 D/ Q − =  + PPV theo ba phương: ( ) 1,08 PPV 16,44 D/ Q − =  ( ) 1,68 PPV 340 D/ Q − =  3.2.2. Khảo sát mối quan hệ giữa PPV và tỉ lệ lượng nạp dựa trên dữ liệu của các cảm biến Bằng các dữ liệu đo đạc tại hiện trường ở trên, kết quả mối quan hệ giữa PPV và tỉ lệ lượng nạp 𝑆𝑐 = √𝑄 𝑛 𝐷 theo các công thức của Chapot, công thức của Nhật Bản, công thức của Sodev (Nga), công thức của Ấn Độ được thể hiện trên Hình 3.7. Từ mối quan hệ giữa PPV và tỉ lệ nạp thuốc SC, luận án xây dựng được các công thức kinh nghiệm xác định được giá trị PPV theo các công thức (3.1) ÷ (3.4): a) b) c) d) Hình 3.7. Mối quan hệ giữa PPV và tỉ lệ lượng nạp SC: a-Theo công thức Sodev; b-Theo công thức của Nhật bản; c-Theo công thức của Ấn Độ; d- Theo công thức Chapot (Châu Âu) ( ) 1,5261 3PPV = 344,349× Q / D , (3.1) ( ) 1,2267 34PPV = 8,214× Q / D , (3.3) 0186,1 3 2 899,1681         = D Q V , (3.2) ( ) 1,4172 PPV = 64,92 Q / D (3.4) Kết quả đưa ra bốn công thức kinh nghiệm sử dụng để dự báo giá trị PPV gây ra bởi nổ mìn khi đào đường hầm theo các tiêu chuẩn khác nhau trên thế giới. Trong trường hợp này, công thức (3.4) tìm được có hệ số tương quan lớn nhất được lựa chọn để tính toán. Mặc dù hệ số tương quan còn thấp nhưng đây là những nghiên cứu bước đầu về việc khảo sát PPV theo tỉ lượng nạp do hầu hết các tiêu chuẩn hiện hành hiện nay chưa đề cập. 10 3.2.3. Khối lượng nạp thuốc cho mỗi lần chậm nổ khi đào đường hầm Luận án đã xác định tổng khối lượng nạp của mỗi lần chậm nổ, trên cơ sở đó có thể xác định số lượng lần chậm nổ theo tổng khối lượng thuốc nạp trên gương. Phương pháp tốt nhất để giảm giảm thiểu các tác động tiêu cực của chấn động nổ mìn là tăng số lượng lần chậm nổ, giảm khối lượng thuốc nổ tức thời. -Theo ngưỡng [PPV] ([4]), theo tiêu chuẩn của Pháp, khối lượng nạp lớn nhất cho mỗi lần chậm nổ có thể tính công thức (3.5), ta có: 𝑄𝑚𝑎𝑥1 = 0,002768 × 𝐷 2 × [𝑃𝑃𝑉]1,4112; mm/s (3.5) -Theo ngưỡng giới hạn thiệt hại giá trị Dib= 0,125, khối lượng nạp lớn nhất cho mỗi lần chậm nổ có thể tính theo công thức (3.6): 𝑄𝑚𝑎𝑥2 = 286,63𝑥10 5𝑥 ( 𝐾𝑟.𝜎𝑡𝑑 𝜌.𝐶 ) 1,4112 × 𝐷2; mm/s (3.6) -Khối lượng nạp tối đa cho mỗi lần chậm nổ trên gương hầm xác định theo hai điều kiện trên như công thức (3.7): Qmax = min (Qmax1, Q max2) (3.7) Từ khoảng cách giữa hai đường hầm, khoảng cách từ gương hầm đến vị trí quan sát, đặc tính cơ lý của các lớp đất đá đường hầm đào qua, lượng nạp lớn nhất cho mỗi lần chậm nổ được tính ra như trên Bảng 3.1 dựa vào công thức (3.5) ÷ (3.7). Bảng 3.1. Dự báo khối lượng thuốc lớn nhất cho một lần nổ, kg Khối lượng thuốc nổ tối đa, kg Khoảng cách giả định giữa hai đường hầm, m 40,00 50,00 60,00 70,00 80,00 Qmax1, kg 201,6 315,0 453,6 617,4 806,40 Qmax2, kg 283,4 442,8 637,6 867,9 1133,6 Qmax 201,6 315,0 453,6 617,4 806,40 3.4. Khảo sát mối quan hệ giữa RMR của khối đá và các thông số K và α trong công thức của Chapot Trên cơ sở dữ liệu đo đạc, ta tiến hành chia khu vực nghiên cứu thành hai vùng tương ứng, giá trị RMR của khối đá tại vùng 1 là RMR = 6780. Kết quả khảo sát quan hệ giữa PPV và ln(K) và  trong công thức của Chapot cho phép rút ra mối quan hệ giữa PPV và RMR chẳng hạn như trên Hình 3.8 và Hình 3.9. 11 Hình 3.8. Quan hệ giữa RMR và K khi H>0 [12] Hình 3.9. Quan hệ giữa “ln(K)”, “”và“RMR” tại cảm biến P [12] Kết luận: Từ các kết quả trên, chúng tôi rút ra các công thức thực nghiệm dự báo giá trị “PPV” xuất hiện trong khối đá vùng nghiên cứu số 1 khi đường hầm đào trong khối đá granit ở những điều kiện tương tự theo công thức (3.8) ÷ (3.10): ➢ Khi H>0: ( ) ( )  −− −  3 22,4991.RMR 539,79.RMR + +387368 .-0, RMR1 921971.RMR 61PPV = . D0 /7.1 .e Q ; (3.8) ➢ Khi H<0: ( ) ( ) ( )− −  −   292,43.RMR 13686.RMR+7 507 6799P 10 .ln RMRPV = .4 10 D / Q+ . ; (3.9) ➢ Khi 0<H<45 m: ( ) ( )  − −− −  −   3 20,0054.RMR +1,2779.RMR 99,635.RMR+2579,48 810 .ln RMR +5.1PPV = . D /0 Q . (3.10) + Tương tự khảo sát như vậy trong vùng nghiên cứu 2 dựa trên dữ liệu của cảm biến T chúng ta thu được các công thức tính PPV theo chỉ số phân loại chất lượng khối đá (RMR): ➢ Trong trường hợp chung: 𝑃𝑃𝑉 = [0,0007xRMR3,6295](𝐷/√𝑄)[0,0367𝑅𝑀𝑅 0,9236]; (3.11) ➢ Khi H>0: 𝑃𝑃𝑉 = [0,00005x𝑅𝑀𝑅4,4823](𝐷/√𝑄)[ 0,0173x𝑅𝑀𝑅 1,1472] (3.12) ➢ Khi H<0: 𝑃𝑃𝑉 = [−4278 ln(RMR) + 22705](𝐷/√𝑄)[ 2,4002x𝑅𝑀𝑅 −0,089]; (3.13) 3.5. Kết luận chương 3: Các kết quả nghiên cứu trong Chương 3 cho thấy những kết quả bước đầu về hướng nghiên cứu mới về sự ảnh hưởng của đặc tính khối đá (thông qua chỉ số RMR) đến tốc độ PPV do chấn động nổ mìn đào đường hầm. Thông qua việc khảo sát chỉ số RMR của đá với các thành phần ln(K) và  trong công thức thực nghiệm của Chapot có thể cho phép đưa ra được công thức gần đúng xác định giá trị của PPV cho đá granit và gơnai tại đường hầm Croix- Rousse và có thể áp dụng cho các đường hầm khác trong điều kiện tương tự. Kết quả phương pháp đo đạc đã được xử lý và chọn lọc sử dụng các giá trị phù hợp nhất sẽ làm cơ sở để kiểm chứng với các mô hình số ở phần sau của luận án. Đây là hướng nghiên cứu hoàn toàn mới và có ý nghĩa thực tế lớn do RMR là chỉ số được sử dụng chính trong các khảo sát địa chất tại các công trình ngầm. Kết quả đạt được mới chỉ là bước đầu, cần có những nghiên cứu sâu hơn. 12 CHƯƠNG 4. NGHIÊN CỨU CÁC THÔNG SỐ ĐỘNG CỦA KHỐI ĐÁ VÀ VỎ CHỐNG 4.1. Cơ sở lý thuyết của thí nghiệm động Split Hopkinson Pressure Bar Test (SHPB) 4.1.1. Mục đích của thí nghiệm Thí nghiệm SHPB được sử dụng để xác định tính chất cơ học của mẫu đá, xây dựng quy luật ứng xử của mẫu dưới tải trọng động, sự phá hủy mẫu đá/vỏ chống gần giống với sự phá hủy của khối đá/vỏ chống dưới áp lực nổ mìn. Thí nghiệm thực hiện tại Phòng thí nghiệm của Viện Nghiên cứu và Ứng dụng quốc gia Pháp (INSA Lyon). 4.1.2. Cấu tạo thiết bị thí nghiệm Hệ thống SHPB có cấu tạo trên Hình 4.1, tín hiệu thu được nhờ cảm biến đặt trong thanh tới khi thí nghiệm không mẫu để xác định đặc tính động của thanh như Hình 4.2. 4.1.3. Thiết bị tải trọng Hình 4.1. Hệ thống thí nghiệm SHPB Hình 4.2. Tín hiệu trong thanh tới 4.5. Tính toán đặc tính động học của các thanh Với thí nghiệm không mẫu cho phép xác định được mô đun đàn hồi động của thanh tới: CB=5128 m/s, 89,73.102,81.5128ρCE 62 B 2 d === − ; GPa 4.6. Thí nghiệm SHBP trên mẫu đá granit Thí nghiệm được tiến hành trên mẫu N°38 với áp lực tăng tương ứng từ 0,10 ÷ 0,35 MPa. Kết quả mẫu N°38 bị phá hủy tại áp lực lên thanh đánh đạt 0,35 MPa. 4.6.1. Thí nghiệm SHBP trên mẫu N°38 với áp lực lên thanh đánh bằng 0,30 MPa Mỗi cảm biến thu được khoảng 60.000 tín hiệu khác nhau trong thí nghiệm. Hình 4.3 thể hiện các tín hiệu dạng điện áp đo được bằng các cảm biến. Theo kết quả trên Hình 4.3, thời gian thanh đánh chuyển động qua hai cảm biến là ∆t=3,26 ms. Khoảng cách giữa hai cảm biến S=50,0 mm nên vận tốc thanh đánh tính theo công thức [53]: Vst=S /∆t=0,05/(3,26.10-3)=15,34 m/s.Dựa trên kết quả thí nghiệm, chúng ta có thể tính toán mô đun đàn hồi động của mẫu N°38: 𝐸𝑑 = (𝜌𝐶𝑆0 2 ) = (2351,8 × 13252) = 4,129𝐺𝑃𝑎. Biến dạng của thanh tới được thể hiện trên Hình 4.5. 13 Hình 4.3. Tín hiệu cảm biến vận tốc [53] Hình 4.4. Biến dạng của thanh tới (cảm biến 5) và thanh truyền (cảm biến 7) theo thời gian 4.6.2. Thí nghiệm SHPB trên mẫu N°38 với áp lực lên thanh đánh bằng 0,35 MPa Tại áp lực lên thanh đánh 0,35 MPa, mẫu bị phá hủy. Vận tốc thanh tới thể hiện trên Hình 4.5 Kết quả ứng suất lớn nhất trong thanh tới là khoảng 144,0 MPa. Tốc độ biến dạng của mẫu với hai giá trị áp lực tác dụng lên thanh đánh là 0,3 MPa và 0,35 MPa như trên Hình 4.6. Hình 4.5. Biểu đồ vận tốc thanh tới Hình 4.6. Tốc độ biến dạng theo thời gian của mẫu đá với áp lực tác dụng lên thanh đánh khác nhau 4.4. Phát triển mô hình số ba chiều 3D mô phỏng thí nghiệm SHPB Việc mô hình số thí nghiệm SHPB cho phép mô phỏng thí nghiệm trong các loại đá khác nhau dựa trên kết quả thí nghiệm. 4.4.1. Kích thước mô hình mô phỏng Hình dạng kích thước mẫu và các thanh cùng mô hình được thể hiện trên Hình 4.7, kích thước các thanh và đặc tính vật liệu được thể hiện trên Bảng 4.2. Hình 4.7. Kích thước mô hình thí nghiệm SHPB 4.4.2. Mô hình áp lực nên thanh chuyển động, loại phần tử và mô hình tiếp xúc 14 Áp lực tác dụng lên thanh đánh có biên độ phụ thuộc vào vận tốc chuyển động của thanh đánh, vật liệu thanh. Áp lực phụ thuộc vào thời gian có dạng hình thanh như Hình 4.8. ; Trong đó: ρ- Mật độ thanh đánh; kg/m3, Sb- Diện tích mặt cắt ngang thanh đánh; m2, C-Vận tốc truyền trong thanh đánh; m/s, Vst - Vận tốc chuyển động của thanh đánh; m/s, giá trị thời gian tA = 99µs, tB =101 µs, tC = 200µs, T = 200 µs. Hình 4.8. Mô hình áp lực tác dụng lên thanh tới 4.4.3. Các trường hợp nghiên cứu Trường hợp 1: mô hình phá hủy mẫu là mô hình đàn hồi với các thông số cơ học cho mẫu đá  = 2451kg/m3; E=26,5MPa; hệ số Poatxông  = 0,3; mô hình được tiến hành với nhiều trường hợp bằng cách thay đổi kích thước lưới. Việc so sánh kết quả của các trường hợp này sẽ cho phép chọn kích thước lưới phù hợp cho mô hình cho các trường hợp khác; Trường hợp 2: sử dụng mô hình phá hủy đàn-dẻo cho mẫu đá với ứng suất trong mẫu là 117,312 MPa (lấy trung bình ứng suất trong mẫu đá granit bằng 94% ứng suất của đá granit trong thí nghiệm tĩnh); Trường hợp 3: sử dụng mô hình phá hủy Mohr-Coulomb cho mẫu đá, các thông số cho mẫu đá gồm: =53,990; góc dãn nở:  =40; Lực dính kết C=23,07596MPa. 4.4.5. Nhận xét: Giá trị ứng suất lớn nhất thay đổi theo từng mô hình trong đó giá trị ứng suất lớn nhất của mô hình đàn hổi dẻo là lớn hơn mô hình phá hủy Mohr-Coulomb. So sánh kết quả của mô hình số với kết quả thí nghiệm vẫn có sự khác nhau đáng kể. Lý do cho sự khác nhau có thể là do sự khác nhau của mô hình áp lực trong mô hình và áp lực tác dụng lên thanh tới trong thực tế. Một lý do khác là do trong mô hình số, điều kiện biên là chuyển vị của thành truyền được giả thiết là bằng 0 còn trong thực tế không hoàn toàn như vậy. 4.4.6. Kết quả mô hình Hình 4.9. Ứng suất và sự làm việc của mẫu trong mẫu trường hợp 3 f(t).PP strmax = stbtr V.C.S.ρ. 2 1 P = 15 4.5. Kết luận Chương 4: Thí nghiệm SHPB là thí nghiệm mới chưa từng được thực hiện tại Việt Nam, thí nghiệm được NCS thực hiện tại phòng thí nghiệm thuộc INSA Lyon, Cộng Hòa Pháp. Kết quả thí nghiệm đã được kiểm chứng với các kết quả trước đó nên có độ tin cậy. Qua thí nghiệm SHBP cho thấy sự làm việc của đá dưới tác động của áp lực động (áp lực nổ mìn): quan hệ giữa ứng suất và biến dạng, sự thay đổi của biến dạng theo thời gian. Các kết quả thí nghiệm cho phép xác định được các thông số động của khối đá và có thể sử dụng làm kết quả đầu vào của mô hình số trong các phần tiếp theo của luận án. Phần mô hình số 3D đã đạt được các kết quả bước đầu như kiểm chứng được sự hội tụ của lưới, sau khi so sánh với kết quả thí nghiệm có thể sử dụng để nghiên cứu các thông số của mẫu, sự tiếp xúc của mẫu và thanh đến kết quả thí nghiệm trong các điều kiện tương tự. CHƯƠNG 5. NGHIÊN CỨU SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA CHẤN ĐỘNG NỔ MÌN KHI ĐÀO HẦM ĐẾN KẾT CẤU CHỐNG ĐƯỜNG HẦM LÂN CẬN BẰNG PHƯƠNG PHÁP SỐ 5.1. Đặt vấn đề 5.2. Xây dựng mô hình số khảo sát ảnh hưởng của chấn động nổ mìn Luận án chọn sử dụng phương pháp phần tử hữu hạn để xây dựng mô hình số bằng phần mềm Abaqus. Kích thước các mô hình số 2D, và 3D như trên Hình 5.1 và Hình 5.2. Hình 5.1 Kích thước mô hình 2D [54÷57] Hình 5.2. Kích thước mô hình 3D [57], [59] Trong hình vẽ: 1- Vùng phần tử vô hạn; 2- Biên mô hình giữa hai miền phần tử vô hạn và hữu hạn; 3-Biên của vùng phần tử vô hạn; L0- Chiều dài phần tử vô hạn; B0- Chiều rộng mô hình; H0- Chiều cao mô hình 5.2.3. Cơ sở lý thuyết của phương pháp 5.2.5. Mô hình vật liệu Khối đá xung quanh đường hầm Croix-Rousse đào qua gồm đá granit và gơnai. Trong mô hình, khối đá được giả định là vật liệu đàn hồi-dẻo cùng với quá trình tăng ứng suất-biến dạng tuân theo mô hình Mohr-Coulomb. Vỏ chống bê tông đường hầm được mô phỏng sử dụng mô hình phá hủy dẻo có sẵn trong phần mềm Abaqus. Các thông số động của khối đá và bê tông, quy 16 luật ứng xử vật liệu sử dụng cho mô hình được xác định từ thí nghiệm động học SHPB đã tiến hành ở Chương 4. 5.3. Kiểm tra kích thước lưới và kiểm chứng mô hình số 5.3.1. Mô hình áp lực nổ mìn 5.3.2. Lựa chọn phần tử sử dụng cho mô hình 5.3.3. Kiểm tra kích thước lưới của mô hình Kích thước lưới mô hình được kiểm tra bằng cách sử dụng phương pháp so sánh vận tốc sóng Rayleigh đặt được bằng phương pháp giải tích (theo công thức của Bergmann-Viktorov (E.G. Nesvijski, 2000)) [76] và kết quả mô hình số với kích thước lưới là 0,5m. Giá trị sai khác theo hai phương pháp là 2,71% nên kích thước lưới được xem là phù hợp, đảm bảo độ hội tụ của mô hình. Ngoài ra, kích thước lưới cũng đã được kiểm tra theo điều kiện quan hệ giữa bước sóng và kích thước phần tử (công thức của Lysmer và Kuhlemeyer, 1969 [38]). Phạm vi tần số thông thường của chấn động gây ra bởi nổ mìn cho công trình ngầm dao động trong khoảng (50,0÷100,0) Hz theo (Dowing, 1996 và Yang và n.n.k, 2003) [38]. Với những kiểm chứng trên cho thấy kích thước phần tử đã chọn hoàn toàn thỏa mãn với điều kiện hội tụ của mô hình số. 5.3.4. Kiểm chứng mô hình số Để kiểm chứng mô hình, tác giả đã tiến hành so sánh giá trị PPV đạt được bằng mô hình số với dữ liệu đo đạc thực tế trong vỏ chống bê tông của hầm cũ thuộc dự án hầm Croix- Rousse, Lyon, Pháp ở các vị trí tương đồng. Điểm quan sát gồm điểm quan sát A trong mô hình trùng với vị trí cảm biến A ngoài thực địa; điểm B trùng với vị trí cảm biến P; điểm C trùng với vị trí cảm biến T như trên Hình 5.3. Hình 5.3. Các điểm quan sát Kết quả cho thấy, sai số trung bình giữa hai phương pháp là 14,73 % không lớn có thể chấp nhận được nên mô hình số xây dựng có độ tin cậy. 5.3.5. Nhận xét chung Với việc sử dụng biên loại không phản xạ (Non-Reflecting Boundary Condition) nhờ việc sử dụng loại phần tử vô hạn (Infinite Element) có thể cải thiện kết quả của mô hình số đối với bài toán truyền sóng. Kích thước lưới và độ hội tụ của mô hình số 2 chiều (2D) và 3 chiều (3D) xây dựng trong luận án đã được kiểm chứng đảm bảo độ chính xác cho các kết quả nghiên cứu. 17 5.4. Khảo sát các thông số của mô hình số 5.4.1. Khảo sát sự ảnh hưởng tính chất cơ lý của khối đá và vỏ chống a. Khảo sát sự ảnh hưởng của hệ số giảm chấn “” đến PPV Việc khảo sát ảnh hưởng của hệ số giảm chấn được thực hiện bằng cách thay đổi giá trị hệ số giảm chấn tương ứng với bốn trường hợp: =3,0 %; =4,0 %; =5,0 %; =6,0 % cho đá, đối với vỏ chống bê tông =4,0 %. Theo kết quả Hình 5.4, Hình 5.5, Hình 5.6 sau khi so sánh các giá trị PPV đạt được bằng mô hình số và kết quả đạt được bằng phương pháp đo đạc thực tế “DLD” cho thấy: khi giá trị hệ số giảm chấn =5,0% thì sự sai khác giữa hai phương pháp đạt giá trị nhỏ nhất (sự sai khác trung bình tb=16,09 %). Do vậy, giá trị cho khối đá =5,0 % được xem là phù hợp và sẽ được chọn để sử dụng cho các bước tính toán tiếp theo trên mô hình khảo sát. a) b) Hình 5.4.Ảnh hưởng của hệ số giảm chấn “” đến giá trị PPV tại điểm B [54]: a - PPV theo phương thẳng đứng; b - PPV theo phương nằm ngang Hình 5.5. Ảnh hưởng của hệ số giảm chấn “” đến giá trị PPV tại điểm B [14], [54], [56] Hình 5.6. Sơ đồ lựa chọn hệ số giảm chấn “” cho mô hình số [14], [57], [54] b. Khảo sát sự ảnh hưởng của mô đun đàn hồi động “Ed” đến PPV Chúng tôi tiến hành thay đổi giá trị “Ed” trong khoảng Ed=30,0÷70,0 GPa với biên độ thay đổi 10,0 GPa. Kết quả sự ảnh hưởng của mô đun đàn hồi động “Ed” của khối đá đến giá trị PPV trong vỏ chống bê tông liền khối được thể hiện trên các Hình 5.7, Hình 5.8. 18 Hình 5.7. Quan hệ giữa “Ed” và PPV1 tại điểm Hình 5. 8. Quan hệ “Ed” và PPV2 tại điểm B [54] Kết quả nghiên cứu cho thấy: giá trị PPV trong vỏ chống bê tông cố định của đường hầm cũ tỉ lệ nghịch với mô đun đàn hồi động của khối đá xung quanh đường hầm; giá trị PPV đạt được bằng phương pháp khảo sát mô hình số khi mô đun đàn hồi động Ed=60,0 GPa có kết quả tương đối giống với giá trị đạt được bằng phương pháp đo đạc thực tế (sự sai khác trung bình giữa hai phương pháp  tb=16,09 %). Do đó, giá trị mô đun đàn hồi động Ed=60,0 GPa đạt được từ thí nghiệm SHPB đủ độ tin cậy và được sử dụng cho những nghiên cứu dưới đây. c. Khảo sát sự ảnh hưởng của mô hình phá hủy vật liệu Hai mô hình phá hủy vật liệu được lựa chọn cho khối đá để khảo sat gồm: mô hình đàn hồi tuyến tính và mô hình Mohr-Coulomb. Các giá trị PPV (mm/s) đạt được với hai mô hình phá hủy vật liệu khác nhau được lựa chọn ở trên và theo phương pháp đo đạc hiện trường thể hiện trên Hình 5.9, Hình 5.10. Kết quả cho thấy có một sự phù hợp về giá trị của PPV đạt được bằng mô hình số với mô hình phá hủy của khối đá là Mohr-Coulomb và dữ liệu đo đạc tại hiện trường. Ngược lại, giá trị PPV đạt được khi sử dụng mô hình đàn hồi tuyến tính cao hơn khoảng 50,0 % so với dữ liệu đo đạc hiện trường như trên Hình 5.10. Hình 5.9. Tổng hợp sự ảnh hưởng của mô đun đàn hồi động “Ed” đến giá trị PPV Hình 5.10. Ảnh hưởng của mô hình phá hủy vật liệu đến PPV của vỏ chống bê tông [56] Đây là cơ sở quan trọng để đưa ra nhận định: mô hình đàn hồi tuyến tính không đủ phức tạp và không đủ khả năng sử dụng trong bài toán động nghiên cứu ảnh hưởng của chấn động nổ mìn. Do đó, mô hình phá hủy Mohr-Coulomb được chọn để sử dụng trong toàn bộ luận án. 19 5.4.2. Khảo sát sự ảnh hưởng của chiều dài của mô hình số Nghiên cứu tiến hành khảo sát mô hình 3D với 3 chiều dài khác nhau (L1 3xDN = 28,0 m; L24xDN = 42,0 m; L38xDN = 84,0 m với DN là chiều rộng đào của hầm mới). Sự ảnh hưởng của chiều dài mô hình 3D đến giá trị PPV1 (PPV theo phương thẳng đứng), PPV2 (PPV theo phương nằm ngang), theo ba phương có thể quan sát trên Hình 5.12 và Hình 5.13, Hình 5.14. Hình 5.11. Mô hình khảo sát sự ảnh hưởng của chiều dài mô hình 3D [16] Hình 5.12. So sánh giá trị (PPV1) tại điểm B Hình 5.13. So sánh giá trị (PPV2) tại điểm B Hình 5.14. So sánh biên độ của PPV tại điểm B Hình 5.15. Ảnh hưởng của khoảng cách giữa hai đường hầm đến giá trị PPV [17] Kết quả so sánh giá trị và quy luật biến đổi của PPV trong ba mô hình với 3 chiều dài khác nhau (Hình 5.12, Hình 5.13, Hình 5.14) cho thấy: dạng biểu đồ và điểm đạt giá trị PPV lớn nhất (peak) giống nhau. Sự thay đổi giá trị PPV là do với mô hình 3D có sự tiêu hao một phần năng lượng nổ trong khối đá và vỏ chống do mô hình có dạng khối; do đó, khi mô hình số có chiều dài càng lớn thì năng lượng bị hấp thụ càng nhiều dẫn đến giá trị PPV càng nhỏ. Ngoài ra, kết quả cũng chỉ ra khi chiều dài mô hình thay đổi trong khoảng 42,084,0 m thì giá trị PPV trong vỏ 20 chống bê tông không thay đổi. Vì vậy, có thể kết luận: chiều dài 42,0 m (bằng khoảng 4.DN) được coi đủ độ chính xác cần thiết để có thể loại bỏ sự ảnh hưởng của điều kiện biên (chiều dài mô hình) đến kết quả khảo sát trên mô hình số. 5.4.3. Khảo sát sự ảnh hưởng khoảng cách giữa hai đường hầm Cùng với lượng thuốc nổ “Q” được giữ không đổi, việc thay đổi khoảng cách giữa hai đường hầm cho thấy sự ảnh hưởng của chúng tới giá trị PPV. Mục đích khảo sát giúp tìm ra giá trị khoảng cách ngắn nhất nhưng vẫn đảm bảo an toàn cho kết cấu chống đường hầm cũ. Kết quả khảo sát (Hình 5.15) cho thấy khi khoảng cách giữa hai đường hầm 32,50 m thì vỏ chống của đường hầm cũ sẽ đảm bảo an toàn. 5.4.4. Khảo sát sự ảnh hưởng của khoảng cách từ gương đường hầm đến vị trí quan sát trong vỏ chống cố định của đường hầm cũ lân cận dọc theo trục đường hầm Việc nghiên cứu được thực hiện theo sơ đồ Hình 5.16. Hình 5.16. Sơ đồ nghiên cứu sự ảnh hưởng của chấn động nổ mìn tại gương hầm mới đến vỏ chống bê tông của đường hầm cũ lân cận theo phương dọc trục hầm [56] Từ kết quả so sánh hai phương pháp: phương pháp số (thông qua mô hình số 2D và 3D) và phương pháp đo đạc thực tế tại hiện trường Hình 5.17 cho phép rút ra một số nhận xét sau: Hình 5.17. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của khoảng cách H đến giá trị PPV [56] ➢ Các giá trị PPV đạt được bằng mô hình số phù hợp với kết quả đo đạc thực nghiệm; ➢ Giá trị PPV tỉ lệ nghịch với khoảng cách từ gương đường hầm đến điểm quan sát trong vỏ chống theo phương dọc trục đường hầm cũ; ➢ Khi điểm quan sát nằm trong mặt phẳng trùng với mặt phẳng gương thi công đường hầm mới thì PPV đạt giá trị lớn nhất trong vỏ chống đường hầm cũ. 21 Hình 5.18. Sự xuất hiện của vùng phá hủy trong vỏ chống bê tông của hầm cũ lân cận khi t = 0,00332 s: a - Vị trí hai đường hẩm; b - Ví trí tường bên đối diện với gương hầm; c - Ví trí tường bên không đối diện với gương hầm [56] 5.4.5. Đánh giá độ ổn định của vỏ chống bê tông của đường hầm cũ lân cận Để đánh giá trạng thái phá hủy của vỏ chống đường hầm dưới sự ảnh hưởng của chấn động nổ mìn, thông thường hai tiêu chuẩn được chọn sử dụng như sau: (1) giới hạn của PPV hoặc (2) độ bền kéo của vỏ chống. Trong nghiên cứu này, giá trị PPV lớn nhất đo được bằng cảm biến là 15,53 mm/s, nhỏ hơn giới hạn đã được đề cập. Ngoài ra, giá trị độ bền kéo trong vỏ chống do

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftom_tat_luan_an_nghien_cuu_anh_huong_cua_chan_dong_no_min_kh.pdf
Tài liệu liên quan