Theo Li và cộng sự (2005c), sự ủng hộ của các đối tượng hữu quan
nhấn mạnh rằng thái độ của các bên liên quan trong dự án PPP có ảnh hưởng
đến chất lượng đầu ra. Sự tương tác giữa những bên tham gia dự án thường là
một yếu tố quan trọng trong quản lý dự án. Các quy trình tương tác bao gồm
lập kế hoạch, truyền thông, giám sát và kiểm soát và tổ chức dự án để tạo
điều kiện phối hợp hiệu quả trong suốt vòng đời dự án.
Mohsini và Davidson (1992) cho rằng xung đột giữa các tổ chức trong
một dự án xây dựng thường có ảnh hưởng xấu đến hiệu suất dự án. Jacobson
và Choi (2008) đã xác định giao tiếp và tin tưởng mở, hướng đến sự thỏa
hiệp và hợp tác, và tôn trọng là những yếu tố quan trọng để cung cấp thành
công các dự án thực hiện theo hình thức PPP. Điều này được hỗ trợ bởi
Innes và Booher (2004), người đã nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng
niềm tin giữa các bên liên quan của dự án và giải quyết xung đột trước khi
chúng trở nên phức tạp. Thành công của dự án có thể được đảm bảo nếu
những người tham gia làm việc cùng nhau như một nhóm với các mục tiêu
chung (Larson, 1995
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 13 trang
13 trang | 
Chia sẻ: honganh20 | Lượt xem: 651 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Tóm tắt Luận án Nghiên cứu các yếu tố thành công then chốt đối với dự án xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ theo hình thức bot ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạnh sự cần thiết của 
một môi trường pháp lý đầy đủ, toàn diện chính là yếu tố cần thiết đảm bảo 
các dự án PPP thành công. Llanto (2008) trong nghiên cứu về kinh nghiệm 
của Philippines trong việc sử dụng hình thức BOT trong phát triển cơ sở hạ 
tầng, ông chỉ ra chính phủ cần xây dựng luật về BOT và khung khung thể chế 
áp dụng BOT trong xây dựng cơ sở hạ tầng. 
Zhang (2005), Li và cộng sự (2005a) cũng đã lập luận rằng sự thành 
công của hình thức đối tác công tư phụ thuộc rất lớn vào có hay không một 
khung pháp lý đầy đủ (Cheung và Chan, 2009; Shrestha, 2011; Emanuel, 
2014; Yusof và Salami,2013) 
 7
1.2.2.2.Dự án khả thi về mặt kỹ thuật 
Một dự án xây dựng cơ sở hạ tầng được coi là khả thi về mặt kỹ thuật 
thường được xem xét xem liệu công nghệ và các tài nguyên (vật liệu và nhân 
lực) cần thiết để thực hiện dự án có hay không (Li và cộng sự, 2005c). Li 
và cộng sự (2005c) cho rằng sự thành công của hợp đồng PPP phụ thuộc vào 
dự án khả thi về mặt kỹ thuật. Ismail (2013) và Jiaju Yang và cộng sự (2017) 
cũng chỉ ra dự án khả thi về mặt kỹ thuật là yếu tố quan trọng quyết định sự 
thành công của các dự án BOT tại Trung Quốc. 
1.2.2.3. Phân bổ rủi ro hợp lý giữa các bên tham gia 
Kwak và cộng sự (2009) chỉ ra đặc điểm nổi bật của các dự án xây dựng 
hạ tầng theo hình thức PPP là mức độ rủi ro cao do chủ yếu là thời gian nhượng 
quyền dài và sự đa dạng của những người tham gia vào quan hệ đối tác. Vì thế, 
Một nguyên tắc cốt lõi trong việc thực hiện PPP là phân bổ rủi ro hợp lý giữa 
các bên tham gia nhằm giảm thiểu rủi ro và kiểm soát nó tốt nhất (Efficiency 
Unit, 2003). Hay có thể nói, phân bổ rủi ro hợp lý là một trong những yếu tố 
quyết định sự thành công của dự án PPP/BOT (Li và cộng sự,2005c, Hammami 
và cộng sự, 2006 và Nisar, 2007, Jiaju Yang và cộng sự ,2017). 
1.2.2.4. Sự tuân thủ cam kết công – tư 
Theo Bộ Giao thông Vận tải Hoa Kỳ (2007), sự tuân thủ cảm kết công 
– tư của các bên chính là điều kiện cần thiết tạo nên sự thành công của một 
dự án PPP. Reijniers (1994), Esther Cheung và cộng sự (2012), Ismail (2013) 
cũng đã chỉ ra sự tuân thủ cam kết công – tư là một trong 5 yếu tố yếu tố 
thành công then chốt đối với dự án PPP/BOT. 
1.2.2.5. Năng lực của nhà đầu tư 
Theo Kwak và cộng sự (2009), Esther Cheung và cộng sự (2010), Li 
và cộng sự (2005c) đều chỉ ra sự phù hợp về năng lực của nhà đầu tư với 
mục tiêu chung của dự án PPP có vai trò quan trọng trong việc thành công 
của dự án PPP. Nhiều nhà nghiên cứu khác (Jefferies và cộng sự, 2002; 
Tiong, 1996; Birnie, 1999, Kwak và cộng sự, 2009) cũng có những đồng 
thuận với những ý kiến trên. Gần đây, Jiaju Yang và cộng sự (2017) đã chỉ ra 
yếu tố tập đoàn tư nhân phát triển mạnh (năng lực của nhà đầu tư) là một 
8
trong 5 yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến sự thành công của dự án BOT 
tại Trung Quốc. 
1.2.3. Cam kết của Chính phủ 
1.2.3.1. Sự ủng hộ của Nhà nước về chủ trương thực hiện các dự án 
theo hình thức PPP/BOT 
Sự ủng hộ của Nhà nước về chủ trương thực hiện dự án xây dựng cơ sở 
hạ tầng công cộng theo hình thức PPP có vai trò quan trọng đối với sự thành công 
của dự án đó (Qiao và cộng sự,2001;Zhang và cộng sự, 1998). Hay như Cheung 
và Chan (2009) đã phát hiện thấy trước đây Hồng Kông đã có một giai đoạn thiếu 
sự quan tâm, hỗ trợ của chính phủ đối với khu vực tư nhân trong việc thực hiện dự 
án dẫn đến sự trì hoãn và đôi khi là quyết định không thực hiện dự án và theo Bộ 
Giao thông Vận tải Hoa Kỳ (2007) thiếu sự ủng hộ của nhà nước về chủ trương 
thực hiện dự án theo hình PPP có thể dẫn đến sự thất bại của một dự án. 
1.2.3.2. Sự bảo lãnh và hỗ trợ từ chính phủ 
Theo Cesar và Ada (2008), để tăng tính hấp dẫn của các dự án PPP đối 
với các nhà đầu tư tư nhân, chính phủ cần cung cấp các hỗ trợ cụ thể và / 
hoặc nhượng quyền cho các nhà đầu tư trong việc khai thác dự án trong một 
khoảng thời gian nhất định. Các nguồn thu nhập thay thế và các cơ hội về tài 
chính (như các cơ hội phát triển bất động sản dọc theo tuyến đường, cơ hội để 
thực hiện một dự án khác trong tương lai) sẽ là những cơ hội mà chính phủ 
bù đắp cho các nhà đầu tư tư nhân (Abdul-Rashid và cộng sự, 2006, Corbett và 
Smith, 2006, Li cùng cộng sự, 2005. Nijkamp cùng cộng sự, 2002, Qiao cùng 
cộng sự, 2001, Tam cùng cộng sự, 1994, Tiong, 1996, Zhang, 2005). 
Gần đây, Khalid Almarri và Halim Boussabaine (2017), Jiaju Yang và 
cộng sự (2017) cũng chỉ ra bảo lãnh và hỗ trợ của chính phủ là một trong 5 
yếu tố thành công then chốt đối với các dự án PPP/BOT. 
1.2.4. Các yếu tố liên quan đến hoạt động đấu thầu 
1.2.4.1. Tính minh bạch trong đấu thầu 
Theo Ong'olo (2006) cho rằng minh bạch trong đấu thầu đề cập đến 
qua trình thiết kế, lập kế hoạch, tổ chức và triển khai các dự án. Các nghiên 
 9
cứu trước đã chỉ ra rằng minh bạch trong đấu thầu là điều cần thiết trong việc 
giảm thiểu chi phí giao dịch và rút ngắn thời gian đàm phán, hoàn thành thỏa 
thuận trong thực hiện dự án PPP (Corbett và Smith, 2006, Gentry và 
Fernandez, 1997, Jefferies và cộng sự, 2002, Jefferies, 2006, Li và cộng sự, 
2005, Qiao và cộng sự, 2001, Zhang, 2005). 
Babatunde và cộng sự (2012) chỉ ra tính minh bạch trong đấu thầu và 
phân quyền công tư rõ ràng là yếu tố thành công then chốt đối với các dự án 
PPP. Đồng quan điểm này, Alinaitwe và Ayesiga (2013) cũng kết luận tính 
minh bạch trong đấu thầu là một trong 5 yếu tố thành công then chốt đối với 
dự án PPP ở Uganda. 
1.2.4.2. Quy trình đấu thầu cạnh tranh 
Sự thành công của dự án xây dựng KCHTGTĐB theo hình thức 
PPP/BOT phụ thuộc rất lớn vào việc lựa chọn đối tác tư nhân phù hợp nhất 
tham gia vào quá trình xây dựng, vận hành và khai thác dự án. Theo Miller 
(2000) đã gợi ý rằng một quy trình đấu thầu cạnh tranh, đối xử công bằng 
giữa nhà đầu tư/doanh nghiệp tư nhân tham gia là điều kiện cần thiết để thu 
hút sự tham gia của khu vực tư nhân trong thực hiện các dự án PPP/BOT. 
Đồng quan điểm đó, Hodges và Dellacha (2007), Meng và cộng sự (2011), 
Alinaitwe và Ayesiga (2013) cũng chỉ ra quy trình đấu thầu cạnh tranh là một 
trong 5 yếu tố thành công then chốt đối với dự án PPP/BOT. 
1.2.4.3. Quản trị tốt 
Chính phủ đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển và quản lý 
dự án PPP. Sự tham gia không phù hợp của chính phủ/ sự bất lực của chính 
phủ trong việc quản lý các dự án PPP có thể dẫn đến thất bại của dự án 
(Kwak 2002). 
Nhiều tác giả khác (Abdul-Rashid và cộng sự,2006; Corbett & Smith 
2006; El-Gohary và cộng sự, 2006; Jamali 2004; Kanter 1999; Li và cộng sự. 
2005c; Tarn, Li và Chan 1994; Tiong 1999; Zhang 2005) chỉ ra rằng để đạt 
được thành công của dự án theo hình thức PPP, Chỉnh phủ cần duy trì các 
biện pháp kiểm soát về chất lượng, tiến độ và năng lực của nhà đầu tư, đơn vị 
thực hiện/ thi công dự án. Mặt khác, chính phủ nên giữ quyền kiểm soát 
10
trong trường hợp ngầm định và sẵn sàng tham gia và cung cấp lại dịch vụ nếu 
cần thiết. Vì vậy, có thể nhận định quản trị tốt là một yếu tố quan trọng đối với 
sự thành công của dự án PPP/BOT (Ismail, 2013; Khan và cộng sự, 2008). 
1.2.4.4. Năng lực của cơ quan nhà nước 
Ong'olo (2006) cho rằng quản trị công hiệu quả nhất là thông qua một 
đơn vị/trung tâm điều hành PPP nằm trong chính phủ để có thể giám sát toàn 
bộ quy trình, hoạt động của dự án thực hiện theo hình thức PPP. Cuttaree và 
Mandri-Perrott (2010) cũng đề nghị thành lập các tổ chức hoặc cơ quan 
chuyên môn để hỗ trợ, một đơn vị PPP có thể giúp giải quyết các hạn chế về 
năng lực của Chính phủ và góp phần kiểm soát chất lượng. 
Babatunde và cộng sự (2012) và Yusof và Salami (2013) cũng đồng 
thuận với nhận định trên vì kết quả nghiên cứu của họ đã chỉ ra năng lực của 
cơ quan nhà nước là một trong 5 yếu tố thành công then chốt đối với các dự 
án PPP/BOT. 
1.2.4.5. Sự đồng thuận của xã hội 
Theo Li và cộng sự (2005c), sự đồng thuận của xã hội là một thành 
phần quan trọng trong việc thực hiện đấu thầu theo hình thức PPP. Sự thiếu 
đồng thuận của xã hội này có thể dẫn đến sự bất mãn của công chúng, và 
thậm chí là các cuộc biểu tình bạo động (Li và cộng sự 2005c). Sự đồng 
thuận của xã hội được nhìn nhận là yếu tố thành công then chốt đối với các 
dự án thực hiện theo hình thức PPP/BOT đã được một số nhà nghiên cứu chỉ 
ra như hội Frilet (1997), Qiao và cộng sự (2001). Tuy nhiên, nghiên cứu của 
Jiaju Yang và cộng sự (2017) lại không đồng thuận với các nghiên cứu khác 
về điều trên, khi kết quả nghiên cứu của họ chỉ ra sự đồng thuận xã hội ít 
quan nhất đối với sự thành công của các dự án BOT tại Trung Quốc. 
1.2.4.6. Phân quyền công tư rõ ràng 
Nelson và Zadek (2000) cho rằng PPP thể hiện sự hợp tác trong hành 
động cho cả khu vực công và khu vực tư nhân để hướng đến thành công 
chung. Do đó, điều quan trọng là khu vực công và tư nhân làm việc cùng 
nhau cần có các quy định cụ thể, có mục đích, chương trình làm việc và sự 
 11
phối hợp giữa các bên theo tinh thần cởi mở, rõ ràng trong thực hiện dự án, 
cũng như hướng đến sự hợp tác lâu dài giữa hai bên. 
Đồng quan điểm đó, Li và cộng sự (2005c) nhận thấy sự phân quyền rõ 
ràng giữa khu vực công và khu vực tư là một là một thành phần quan trọng 
của quá trình đấu thầu hiệu quả và qua đó quyết định sự thành công của dự 
án thực hiện theo hình thức PPP. 
1.2.4.7. Đánh giá toàn diện chi phí và lợi ích 
Li và cộng sự (2005c) khuyến nghị rằng trước khi dự án thực hiện quy 
trình đấu thầu, thì lợi ích chính phủ và người dân có được khi xây dựng và 
vận hành dự án cần được nhìn nhận là tiêu chí đánh giá về tính khả thi của dự 
án. Zhang (2005) và Li và cộng sự (2005a) đã lập luận rằng sự thành công 
của sự hợp tác công tư xoay quanh chiến lược đấu thầu ‘giá trị đồng tiền’ 
(Value for money - VFM). 
Moralos và Amekudzi (2008) định nghĩa VFM là một trong những 
công cụ hàng đầu dành cho các nhà quản lý công để đánh giá giá trị của việc 
theo đuổi dự án thông qua PPP so với đấu thầu truyền thống. Sarmento 
(2010), Theo Fitzgerald (2004), VFM có thể được phân phối thông qua 
chuyển giao rủi ro, đổi mới, sử dụng tài sản lớn hơn và tích hợp quản lý đồng 
bộ. Vai trò của khu vực tư nhân trong các dự án PPP chỉ được chứng minh 
khi sự tham gia của khu vực tư nhân làm tăng thêm giá trị và không làm tăng 
chi phí so với hình thức dự án được cơ quan nhà nước thực hiện hoàn toàn. 
1.2.5. Các yếu tố khác có liên quan 
1.2.5.1. Thời gian nhượng quyền hợp lý 
Thời gian nhượng quyền là khoảng thời gian do chính phủ dành cho 
khu vực tư nhân trong đó khu vực tư nhân chịu trách nhiệm cho việc tài trợ, 
xây dựng và vận hành dự án BOT. Đây là hình thức phổ biến khi mà cơ quan 
đầu mối về cơ sở hạ tầng của Chính phủ đặt ra thời gian cho phép của các dự 
án được nhượng quyền cho khu vực tư nhân và yêu cầu bên nhận nhượng 
quyền đấu thầu về lệ phí và các khía cạnh khác của dự án (Zhang, 2009). 
Alhumoud và cộng sự (2010) đã nghiên cứu việc thực hiện hợp đồng BOT 
của một công ty địa phương để tài trợ, thiết kế, xây dựng và vận hành một 
12
nhà máy xử lý nước thải tiên tiến tại Sulaibiya ở môi trường Kuwait. Họ 
nhận thấy chính chi phí sử dụng màng siêu lọc chính là cơ sở dẫn đến thời 
gian nhượng quyền 30 năm mới đủ bù đắp chi phí và đem lại lợi ích phù hợp 
cho sự đóng góp của công ty tư nhân trong việc tham gia vào dự án BOT. 
1.2.5.2. Sự ủng hộ của các đối tượng hữu quan 
Theo Li và cộng sự (2005c), sự ủng hộ của các đối tượng hữu quan 
nhấn mạnh rằng thái độ của các bên liên quan trong dự án PPP có ảnh hưởng 
đến chất lượng đầu ra. Sự tương tác giữa những bên tham gia dự án thường là 
một yếu tố quan trọng trong quản lý dự án. Các quy trình tương tác bao gồm 
lập kế hoạch, truyền thông, giám sát và kiểm soát và tổ chức dự án để tạo 
điều kiện phối hợp hiệu quả trong suốt vòng đời dự án. 
Mohsini và Davidson (1992) cho rằng xung đột giữa các tổ chức trong 
một dự án xây dựng thường có ảnh hưởng xấu đến hiệu suất dự án. Jacobson 
và Choi (2008) đã xác định giao tiếp và tin tưởng mở, hướng đến sự thỏa 
hiệp và hợp tác, và tôn trọng là những yếu tố quan trọng để cung cấp thành 
công các dự án thực hiện theo hình thức PPP. Điều này được hỗ trợ bởi 
Innes và Booher (2004), người đã nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng 
niềm tin giữa các bên liên quan của dự án và giải quyết xung đột trước khi 
chúng trở nên phức tạp. Thành công của dự án có thể được đảm bảo nếu 
những người tham gia làm việc cùng nhau như một nhóm với các mục tiêu 
chung (Larson, 1995). 
1.2.5.3. Chuyển giao công nghệ 
Theo Robinson và cộng sự (2004), các dự án PPP liên quan đến sự hợp 
tác lâu dài và kết nối giữa các bên tham gia vào dự án, do đó việc chuyển 
giao kiến thức và các công cụ quản lý kiến thức được nhìn nhận mức độ nào 
đó tạo sự chia sẻ và qua đó giúp các bên hiểu nhau hơn trong quá trình thực 
hiện dự án. Vì thế, Dahir (2012) chỉ ra rằng Chính phủ cần cung cấp các 
chính sách và chiến lược chuyển giao công nghệ trong các thỏa thuận về 
BOT cho các bên liên quan. 
Baba Shehu Waziri và cộng sự (2017) thực hiện mục tiêu tìm ra CSF 
đối với các dự án thực hiện theo hình thứ BOT ở Nigeria. Với 45 yếu tố, 
 13
nhóm nghiên cứu đã chỉ ra chuyển giao công nghệ có vai trò quan trọng thứ 5 
đối với sự thành công của các dự án thực hiện theo hình thứ BOT ở Nigeria. 
Tuy nhiên, Jiaju Yang và cộng sự (2017) lại chỉ ra các yếu tố như xác 
định hài hòa lợi ích của các bên, chuyển giao công nghệ, sự đồng thuận của 
xã hội là những yếu tố ít quan trọng đến sự thành công của các dự án BOT tại 
Trung Quốc. 
1.3. Tổng quan các phương pháp áp dụng trong nghiên cứu về CSF đối 
với dự án xây dựng thực hiện theo hình thức PPP/BOT 
Kế thừa kết quả tổng quan của Osei-Kyei và Chan (2015) kết hợp với 
các nghiên cứu về các yếu tố thành công then chốt đối với các dự án xây 
dựng theo hình thức PPP/BOT gần đây mà tác giả có thể tiếp cận, tác giả 
nhận thấy, khi nghiên cứu về CSF đối với các dự án xây dựng theo hình thức 
PPP/BOT thì có 3 phương pháp nghiên cứu chính được áp dụng là nghiên 
cứu tình huống, nghiên cứu thông qua bảng hỏi khảo sát điều tra và nghiên 
cứu hỗn hợp. 
Đặc biệt đa số các nghiên cứu sử dụng phương pháp khảo sát bằng 
bảng hỏi và phương pháp nghiên cứu hỗn hợp (khảo sát bằng bảng hỏi và 
phỏng vấn, nghiên cứu tình huống) đều áp dụng phương pháp kế thừa các 
yếu tố được đưa vào nghiên cứu về CSF của các nghiên cứu trước và áp dụng 
kỹ thuật xếp hạng điểm trung bình, phân tích kết hợp của Kendall để chỉ ra 
thứ tự/xếp hạng của các yếu tố thành công then chốt. 
Chính vì những phân tích trên, luận án sẽ áp dụng phương pháp nghiên 
cứu hỗn hợp (thông qua khảo sát bằng bảng hỏi và phỏng vấn sâu) và áp 
dụng kỹ thuật xếp hạng điểm trung bình, phân tích kết hợp của Kendall để 
chỉ ra các yếu tố thành công. 
1.4. Các lý thuyết liên quan đến các yếu tố thành công then chốt đối dự án 
xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ theo hình thức BOT 
− Lý thuyết Keynes về vai trò điều tiết của Nhà nước trong nền kinh tế 
thị trường: hạ tầng giao thông đường bộ là hàng hóa công cộng thuộc khu 
vực công cộng (Theo Phạm Văn Vận và Vũ Cương, 2005) và để phát triển 
các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ thì cần có sự can 
14
thiệp, điều tiết của Nhà nước. Cụ thể ở đây nhà nước phải duy trì cầu đầu tư 
và có các chính sách (chính sách thuế, chính sách đầu tư) để thu hút, thúc 
đẩy sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân vào các dự án xây dựng kết cấu 
hạ tầng giao thông đường bộ. 
− Lý thuyết “các bên tham gia”: Trong lĩnh vực xây dựng CHTGTĐB 
theo hình thức BOT thì các bên tham gia bao gồm Chính phủ (bên nhượng 
quyền), nhà đầu tư (bên nhận nhượng quyền), Bên cho vay (tổ chức cấp tín 
dụng) và công chúng. 
− Lý thuyết hợp tác công tư (Public Private partnership - PPP) 
1.5. Khoảng trống nghiên cứu và hướng nghiên cứu của luận án 
Từ các nội dung trên, tác giả nhận thấy với cách tiếp cận nghiên 
cứu, mục tiêu và đối tượng nghiên cứu khác nhau, các nhà nghiên cứu đã 
chỉ ra CSF đối với dự án PPP/BOT có những điểm tương đồng và có sự 
khác biệt. Và ở Việt Nam hiện chưa có nghiên cứu nào về CSF đối với dự 
án xây dựng KCHTGTĐB được thực hiện ở Việt Nam – Đây chính là 
khoảng trống nghiên cứu và luận án sẽ hướng đến thu hẹp khoảng trống 
trong nghiên cứu này. Luận án sẽ sử dụng bộ câu hỏi do Li (2003) xây 
dựng để điều tra về nhận thức của khu vực công và khu vực tư nhân về các 
yếu tố thành công then chốt đối với dự án xây dựng KCHTGTĐB theo 
hình thức BOT ở Việt Nam. 
CHƯƠNG 2: 
 CƠ SỞ LÝ LUẬN 
2.1. Tổng quan về dự án xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ 
Theo Luật Giao thông đường bộ (2008) quy định KCHTGTĐB gồm 
công trình đường bộ, bến xe, bãi đỗ xe, trạm dừng nghỉ và các công trình 
phụ trợ khác trên đường bộ phục vụ giao thông và hành lang an toàn đường 
bộ. Trong đó, công trình đường bộ là bộ phận quan trọng nhất. Công trình 
đường bộ gồm đường bộ, nơi dừng xe, đỗ xe trên đường bộ,. Đường bộ là 
bộ phận chủ yếu trong công trình đường bộ. Đường bộ gồm đường, cầu 
đường bộ, hầm đường bộ, bến phà đường bộ. 
 15
Dựa trên điều 46, Luật Giao thông đường bộ (2008) có thể hiểu dự 
án xây dựng KCHTGTĐB là việc đầu tư xây dựng mới, nâng cấp, cải tạo 
kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ. Trong đó, dự án xây dựng 
KCHTGTĐB phải phù hợp với quy hoạch giao thông vận tải đường bộ đã 
được cấp có thẩm quyền phê duyệt; tuân thủ trình tự quản lý đầu tư xây 
dựng và các quy định khác của pháp luật; bảo đảm cấp kỹ thuật đường bộ, 
cảnh quan, bảo vệ môi trường. Và tổ chức, cá nhân Việt Nam và nước 
ngoài được đầu tư xây dựng, kinh doanh khai thác KCHTGTĐB theo quy 
định của pháp luật. 
2.2. Cơ sở lý luận chung về vai trò của Nhà nước đối với hoạt động 
phát triển đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật nói chung và kết cấu hạ tầng 
giao thông đường bộ nói riêng của nền kinh tế quốc dân 
• Nhà nước có vai trò là Nhà cung ứng dịch vụ công 
• Nhà nước giữ vai trò là nhà quản lý sự phát triển đầu tư cơ sở hạ tầng 
kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân 
• Nhà nước có vai trò là nhà đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật 
của nền kinh tế quốc dân 
• Nhà nước có vai trò là người kiểm soát sự phát triển đầu tư cơ sở hạ 
tầng kỹ thuật 
2.3. Vai trò của khu vực kinh tế tư nhân đối với phát triển kết cấu 
hạ tầng giao thông đường bộ 
Sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân vào phát triển kết cấu hạ tầng 
giao thông đường bộ mang lại lợi ích kinh tế- xã hội, đóng góp nguồn lực 
cho phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, góp phần nâng cao hiệu 
quả hoạt động của khu vực Nhà nước trong việc cung ứng dịch vụ công, tạo 
điều kiện kiện cho nền kinh tế phát triển. 
Thông thường, khu vực kinh tế tư nhân tham gia vào phát triển 
KCHTGTĐB theo một số hình thức: (i) đầu tư theo hình thức PPP; (ii) đầu tư 
theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp vào các doanh 
nghiệp nhà nước trong lĩnh vực đầu tư xây dựng KCHTGTĐB; (iii) đầu tư 
16
theo hợp đồng hợp tác kinh doanh (Hợp đồng BCC) trong lĩnh vực 
KCHTGTĐB. Trong các hình thức trên, đầu tư theo hình thức PPP là phổ 
biến nhất và được nhiều quốc gia áp dụng. 
2.4. Quan hệ đối tác công - tư trong thực hiện dự án đầu tư xây dựng kết 
cấu hạ tầng giao thông đường bộ 
Nghị định 63/2018/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức đối tác công tư đã 
quy định cụ thể và rõ ràng hơn: Đầu tư theo hình thức đối tác công tư (sau 
đây gọi tắt là PPP) là hình thức đầu tư được thực hiện trên cơ sở hợp đồng 
dự án giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự 
án để xây dựng, cải tạo, vận hành, kinh doanh, quản lý công trình hạ tầng, 
cung cấp dịch vụ công. 
Hiện nay trên thế giới có hình thức phổ biến của mối quan hệ đối tác 
công tư trong các dự án (trong đó có dự án xây dựng kết cấu hạ tầng giao 
thông đường bộ) như sau: (i) Các hợp đồng dịch vụ; (ii) Các hợp đồng quản 
lý; (iii) Các hợp đồng cho thuê hoặc hợp đồng giao thầu; (iv) Các thoả thuận 
xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT) hoặc các thoả thuận tương tự; 
(v) Nhượng quyền; (vi)Liên doanh 
2.5. Cơ sở lý luận về các yếu tố thành công then chốt với dự án xây dựng 
kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ theo hình thức BOT 
Nghị định 63/2018/NĐ-CP ngày 4/5/2018 về đầu tư theo hình thức đối 
tác công tư đã quy định: Hợp đồng BOT là hợp đồng được ký giữa cơ quan 
nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để xây dựng 
công trình hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư, doanh nghiệp 
dự án được quyền kinh doanh công trình trong một thời hạn nhất định; hết 
thời hạn, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án chuyển giao công trình đó cho cơ 
quan nhà nước có thẩm quyền. 
Thành công và lợi thế của việc áp dụng BOT ở những nơi này đã được 
ghi chép đầy đủ. Nhưng tiếc là không phải tất cả các dự án BOT đều thành 
công như nhau. Dựa trên quan điểm của McCabe (2001) cho rằng yếu tố 
thành công then chốt (Critical Success Factors – CSF) rất quan trọng đối với 
 17
các nhà quản lý tham gia vào việc cải tiến tổ chức của họ vì các yếu tố này 
cho họ biết mức độ tiến bộ đang đạt được ở những lĩnh vực cụ thể. Vì vậy, 
tác giả cho rằng xác định các yếu tố thành công then chốt (CSF) đối với các 
các quốc gia mới áp dụng BOT như Việt Nam là cần thiết và giúp giảm thiểu 
rủi ro cho tất cả các bên liên quan khi tham gia vào các dự án BOT. Các yếu 
tố thành công then chốt (Critical Success Factors – CSF) đối với dự án xây 
dựng kết cấu giao thông đường bộ theo hình thức BOT được hiểu là một số 
yếu tố có vai trò rất quan trọng đối với thành công chung của dự án. 
CHƯƠNG 3: 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
3.1 Thiết kế nghiên cứu 
Phương pháp nghiên cứu áp dụng trong luận án là phương pháp nghiên 
cứu hỗn hợp với nghiên cứu định tính (nghiên cứu tại bàn, phỏng vấn sâu) và 
nghiên cứu định lượng (khảo sát bằng bảng hỏi). Dựa trên kết quả tổng quan 
nghiên cứu và bảng tổng hợp các yếu tố thành công then chốt đối với các dự 
án PPP/BOT tác giả nhận thấy việc sử dụng bảng câu hỏi (các yếu tố nào để 
đánh giá sự ảnh hưởng của yếu tố đó đến sự thành công của dự án PPP/BOT) 
phụ thuộc rất lớn vào mục đích nghiên cứu, bối cảnh nghiên cứu. Do đó, mẫu 
bảng hỏi do Li (2003) thiết kế sẽ được sử dụng trong nghiên cứu này, và tác 
giả không bổ sung thêm yếu tố nào vào bảng hỏi đó bởi vì: 
- Thứ nhất, giá trị của bảng hỏi của Li (2003) đã được công nhận bởi 
nhiều nghiên cứu về CSF của các dự án PPP/BOT. 
- Thứ hai, mục tiêu nghiên cứu của luận án là nhằm chỉ ra CSF đối với 
dự án xây dựng KCHTGTĐB theo hình thức BOT ở Việt Nam thông qua 
khảo sát nhận thức của người trả lời. Điều này phù hợp với bảng hỏi do Li 
(2003) xây dựng và đã được nhiều nghiên cứu áp dụng với mục tiêu tương tự. 
- Thứ ba, bằng việc áp dụng bảng hỏi của Li (2003) sẽ giúp tác giả thực 
hiện được so sánh kết quả nghiên cứu tại Việt Nam so với ở các quốc gia có 
tính tương đồng như Malaysia, Trung Quốc, Hồng Kông và những quốc gia 
có sự thành công khi áp dụng hình thức PPP/BOT như Anh, Australia. 
18
Bảng 3.1. Các yếu tố thành công then chốt áp dụng trong phiếu khảo sát 
CSF Các yếu tố thành công 
CSF 1 Điều kiện kinh tế vĩ mô ổn định 
CSF 2 Khung pháp lý đầy đủ (toàn diện) 
CSF 3 Chính sách kinh tế tốt (lành mạnh) 
CSF 4 Khả năng huy động vốn vay từ thị trường tài chính 
CSF 5 Xác định hài hòa lợi ích của các bên 
CSF 6 Phân bổ rủi ro hợp lý giữa các bên tham gia 
CSF 7 Tuân thủ cam kết công – tư 
CSF 8 Năng lực của nhà đầu tư 
CSF 9 Quản trị tốt 
CSF 10 Dự án khả thi về mặt kỹ thuật 
CSF 11 Phân quyền công - tư rõ ràng 
CSF 12 
Sự ủng hộ của Nhà nước về chủ trương thực hiện 
các dự án theo hình thức PPP/BOT 
CSF 13 Sự đồng thuận của xã hội 
CSF 14 Năng lực của cơ quan nhà nước 
CSF 15 Đấu thầu cạnh tranh 
CSF 16 Tính minh bạch trong đấu thầu 
CSF 17 Sự bảo lãnh và hỗ trợ từ chính phủ 
CSF 18 Đánh giá toàn diện chi phí và lợi ích 
 Nguồn: Li (2003) 
3.2. Mẫu nghiên cứu 
Mẫu nghiên cứu là các cá nhân tham gia vào việc quản lý và thực hiện 
các các dự án xây dựng KCHTGTĐB theo hình thức BOT ở Việt Nam và 
những cá nhân này là những người có kinh nghiệm nhất định (đã và đang 
tham gia) đối với các dự án xây dựng KCHTGTĐB theo hình thức BOT ở 
 19
Việt Nam. Vì thế, sẽ là phù hợp và tin cậy khi những người trả lời là những 
người có kinh nghiệm và có sự am hiểu sâu thông qua việc đã và đang hợp 
tác/ tham gia dự án BOT và là những người có vị trí ở các khu vực tham gia 
vào dự án. Chính vì vậy, phương pháp lấy mẫu có chủ đích là phù hợp hơn 
trong nghiên cứu này và quy mô mẫu 91 tuy không lớn nhưng với nghiên 
cứu này là chấp nhận được. 
3.3. Thu thập dữ liệu và kỹ thuật phân tích 
Việc thu thập dữ liệu được thực hiện bằng phương pháp khảo sát trực 
tiếp. Bằng phương pháp này, tác giả đã thu thập được 52 phiếu trả lời hợp lệ 
của cán bộ thuộc cơ quan quản lý nhà nước và 39 phiếu trả lời hợp lệ từ cán 
bộ thuộc khối tư nhân. 
Bằng việc nhập dữ liệu trên Excel, tác giả nhập riêng 2 nhóm đối tượng 
nghiên cứu, mỗi nhóm vào 1 shee
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 tom_tat_luan_an_nghien_cuu_cac_yeu_to_thanh_cong_then_chot_d.pdf tom_tat_luan_an_nghien_cuu_cac_yeu_to_thanh_cong_then_chot_d.pdf