Trên cơ sở kết quả đánh giá thiệt hại nhà cửa theo hai cách tiếp cận xác suất
và tất định, cho thấy thiệt hại nhà cửa lớn hơn do động đất kịch bản sông Hồng
gây ra. Do đó, các kết quả đánh giá thiệt hại nhà cửa từ kịch bản động đất sông
Hồng sẽ được lựa chọn làm dữ liệu đầu vào để tính toán và ước lượng thiệt hại
người.
Các kết quả đánh giá thiệt hại về người ứng với kịch bản động đất trên vào
thời điểm trong ngày (02h00, 14h00 và 17h00) cho khu vực quận Hoàn Kiếm,
Ba Đình, Hai Bà Trưng, Đống Đa và Thanh Xuân cụ thể như sau:
Phân bố thiệt hại về người theo không gian phản ánh tác động của các yếu tố
như khoảng cách tới nguồn chấn động, loại nền và mật độ dân số tại khu vực
nghiên cứu. Ở phạm vi phường, thiệt hại lớn nhất về người tập trung tại các
phường nằm ở rìa tây nam của các quận Đống Đa và Thanh Xuân, nơi gần chấn
tâm động đất kịch bản nhất, và tại các phường nằm ở phía đông nam quận Hai
Bà Trưng, nơi có nền đất yếu nhất. Ở phạm vi quận, ba quận có số thương vong
nhiều là Đống Đa, Thanh Xuân và Hai Bà Trưng cũng là những quận có mật độ
dân cư cao nhất của thành phố Hà Nội. Ngoài ra, thiệt hại về người do động đất
cũng có liên quan tới loại kết cấu và chức năng sử dụng nhà.
28 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 04/03/2022 | Lượt xem: 452 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Nghiên cứu đánh giá rủi ro động đất khu vực đô thị thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng đó P là ký hiệu chỉ xác suất, A là biến cố có xác suất cần tìm và M, r là các
biến ngẫu nhiên liên tục có ảnh hưởng tới biến cố A. Như vậy, nếu coi A là giá trị
rung động nền tại điểm đang xét, M là giá trị độ lớn động đất (hay cường độ chấn
động trên mặt), và r là khoảng cách từ nguồn tới điểm đang xét, thì từ (2.1) ta có
xác suất để cho rung động tại điểm đang xét đạt giá trị A khi động đất xảy ra, tính
được bằng phép lấy tích phân theo M và r của tích giữa xác suất có điều kiện của
A (khi cho trước M và r) với các xác suất độc lập của M và r. Phép tích phân theo
độ lớn được đưa về dạng giải tích, còn hàm mật độ xác suất của khoảng cách fR(r)
được cho bởi biểu thức lan truyền chấn động giữa nguồn và điểm đang xét (2.1).
2.1.2. Đánh giá tất định độ nguy hiểm động đất
Trong đánh giá nguy hiểm động đất, phương pháp tất định truyền thống
còn được gọi là phương pháp đánh giá độ nguy hiểm động đất trên cơ sở các kịch
6
bản. Phương pháp tất định đánh giá rung động nền tại một điểm cho trước chỉ xét
hiệu ứng rung động nền của một trận động đất đơn lẻ (còn gọi là động đất kịch
bản) gây ra bởi một nguồn chấn động xác định trên khu vực nghiên cứu.
Bốn bước thực hiện chính của quy trình đánh giá độ nguy hiểm động đất
theo cách tiếp cận tất định được minh hoạ trên hình 2.2:
Hình 2. 2. Quy trình đánh giá độ nguy hiểm động đất bằng phương pháp tất định
2.2. Hiệu chỉnh giá trị khuếch đại rung động nền
Ở Việt Nam, các giá trị rung động nền thông thường được xác định theo
PSHA hay DSHA. Các giá trị này thường được tính cho nền loại A theo Tiêu
chuẩn Việt Nam 9386:2012, sau đó các giá trị rung động nền được hiệu chỉnh
theo các loại nền tương ứng. Đây được gọi là cách hiệu chỉnh gián tiếp giá trị
rung động nền (Hình 2.3).
Hiện nay trên thế giới, việc hiệu chỉnh trực tiếp giá trị rung động nền thông
qua bản đồ Vs30 cũng được áp dụng khá phổ biến. Trên sơ đồ hình 2.3 mô tả quy
trình hiệu chỉnh giá trị rung động nền.
Hình 2. 3. Sơ đồ quy trình hiệu chỉnh giá khuếch đại rung động nền
7
2.3. Đánh giá rủi ro động đất đô thị
2.3.1. Cơ sở lý thuyết đánh giá thiệt hại nhà cửa do động đất
Các kết quả hiệu chỉnh giá trị khuếch đại rung động nền theo hai cách trực
tiếp và gián tiếp sẽ được sử dụng làm đầu vào cho các tính toán đánh giá thiệt hại
nhà cửa. Quy trình đánh giá thiệt hại nhà cửa được xây dựng theo cách tiếp cận
của HAZUS-MH, bao gồm hai bước chính được mô tả dưới đây.
Trong bước thứ nhất của quy trình, phương pháp phổ năng lực được áp
dụng để xác định phản ứng cực đại của một toà nhà đối với những rung động nền
do động đất gây ra (Mahaney et. al., 1993; FEMA, 1996; SSC, 1996; Freeman et
al., 1998). Theo phương pháp này, phản ứng cực đại của một tòa nhà có kết cấu
xác định dưới tác động của động đất được xác định bằng cách so sánh đại lượng
dịch chuyển nền biểu diễn trên đồ thị khả năng chịu lực của tòa nhà đó với đồ thị
phổ phản ứng của rung động nền do động đất kịch bản gây ra tại chân tòa nhà. Ở
đây đồ thị khả năng chịu lực của một toà nhà đặc trưng cho phản ứng của toà nhà
đó đối với những lực tác động do động đất gây ra, còn đồ thị phổ phản ứng được
xây dựng từ các bản đồ phổ gia tốc nền tại khu vực nghiên cứu.
Trong bước thứ hai của quy trình, trạng thái phá huỷ của mỗi loại nhà do
động đất gây ra tại khu vực nghiên cứu ở các mức độ khác nhau được xác định.
Phá huỷ kết cấu của mỗi loại nhà dưới tải trọng của động đất có thể biểu diễn
dưới dạng các hàm phân bố chuẩn lô ga. Đồ thị của các hàm này thường còn được
gọi là các đồ thị trạng thái phá huỷ, biểu diễn mối tương quan giữa xác suất để
cho một toà nhà rơi vào một trong các trạng thái phá huỷ, và phổ dịch chuyển
nền. Phổ dịch chuyển nền Sd xác định giá trị ngưỡng của một trạng thái phá huỷ
ds được tính bởi công thức:
Sd = dsdS , .εds (2.4)
ở đây: dsdS , là giá trị mêđian của phổ dịch chuyển gây ra trạng thái phá huỷ ds,
và εds là biến ngẫu nhiên có phân bố chuẩn lôga có mêđian bằng đơn vị và độ lệch
chuẩn lô ga rít là βds. Xác suất có điều kiện để cho một trạng thái phá huỷ ds cho
trước xảy ra hay bị vượt quá được xác định bởi hàm tích luỹ của phân bố chuẩn
lôga. Đối với phá huỷ cấu trúc, nếu cho trước đại lượng phổ dịch chuyển Sd, xác
suất để cho một trạng thái phá huỷ ds xảy ra hay bị vượt quá là:
𝑃[(𝑑𝑠|𝑆𝑑)] = Ф [
1
𝛽𝑑𝑠
𝑙𝑛 (
𝑆𝑑
𝑆̅𝑑,𝑑𝑠
)] (2.5)
8
ở đây: dsdS , là giá trị mêđian của phổ dịch chuyển, tại đó công trình xây dựng đạt
tới giá trị cận trên ds của trạng thái phá huỷ, βds là độ lệch chuẩn của lô ga rít tự
nhiên của phổ dịch chuyển của trạng thái phá huỷ ds, và Ф là hàm phân bố tích
luỹ của phân bố chuẩn.
2.3.2. Cơ sở lý thuyết ước lượng thiệt hại về người do động đất
Trong nghiên cứu này, mô hình do Stojanovski và Dong (1994) đề nghị
được sử dụng để đánh giá thiệt hại về người do động đất cho khu vực nghiên cứu.
Mô hình thương vong về người do động đất sử dụng các kết quả đánh giá thiệt
hại nhà cửa đã mô tả trong mục trước làm dữ liệu đầu vào. Số nạn nhân do động
đất được tính bằng tích của tỷ lệ thương vong xác định trước cho từng trạng thái
thiệt hại nhà và từng loại nhà khi động đất xảy ra. Kết quả cuối cùng là số người
bị thương vong do động đất ở bốn mức độ khác nhau (C1- bị thương nhẹ, không
phải nằm bệnh viện; C2- bị thương, phải nằm bệnh viện; C3 - bị thương nặng; và
C4 - Chết), tại ba thời điểm trong ngày 02h00, 14h00 và 17h00.
2.4. Cơ sở dữ liệu
- Cơ sở dữ liệu về địa chấn kiến tạo được kế thừa từ các đề tài nghiên cứu
và các công trình trước đây. Cụ thể, các sơ đồ đứt gãy, sơ đồ các vùng nguồn
chấn động, độ sâu các đới sinh chấn.
- Số liệu động đất được thu thập từ năm 1903 đến năm 2019 với phạm vi
φ=18,0-23.5,0oN; λ=102-108.5oE.
- Bản đồ phân khu địa chất công trình Hà Nội tỷ lệ 1:25000.
- Giá trị Vs30 xác định được tại 191 điểm đo địa chấn thăm dò và 181 điểm
đo vi địa chấn trên địa bàn thành phố cũng được sử dụng để phân loại nền.
- Dữ liệu nhà cửa được kế thừa từ các số liệu điều tra khảo sát trong các đề
tài nghiên cứu trước đây được minh họa trên hình 2.2.
- Số liệu dân cư được thu thập từ nguồn điều tra của Tổng cục điều tra dân
số năm 2019 được minh họa trên hình 2.3. Trong đó dân số tại các quận Hoàn
Kiếm, Ba Đình, Hai Bà Trưng, Đống Đa và Thanh Xuân chi tiết tới cấp phường
được sử dụng tính thiệt hại về người do động đất.
9
Hình 2.2. Bản đồ phân loại nhà cửa theo kết cấu tại 5 quận Hoàn kiếm,
Ba Đình, Hai Bà Trưng, Đống Đa và Thanh Xuân.
Hình 2.3. Phân bố mật độ dân số theo Phường tại thành phố Hà Nội cập nhật
đến năm 2019.
2.5. Công cụ đánh giá rủi ro động đất đô thị
Quy trình đánh giá độ rủi ro động đất đô thị được thực hiện trong chương
trình ArcRisk bao gồm các bước minh họa trên hình 2.1 Quy trình được thực hiện
qua nhiều giai đoạn, trong đó các giai đoạn lại có mối liên hệ “nhân quả” với
nhau, hay nói cách khác, kết quả thực hiện mỗi giai đoạn được sử dụng làm số
liệu đầu vào cho giai đoạn tiếp theo. ArcRisk được phát triển trên môi trường
GIS bao gồm ba mô đun chính: Mô đun 1 - Xác định vùng nghiên cứu; Mô đun
2 - Đánh giá khả năng rung động nền; Mô đun 3 - Ước lượng tổn thất. Mỗi mô
đun mô phỏng một bước thực hiện trong quy trình đánh giá độ rủi ro động đất
được minh họa trên hình 2.1.
10
CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤN KIẾN TẠO KHU VỰC THÀNH
PHỐ HÀ NỘI VÀ LÂN CẬN
Để xây dựng mô hình nguồn chấn động phục vụ đánh giá độ nguy hiểm địa
chấn cho thành phố Hà Nội, phạm vi nghiên cứu được mở rộng ra khu vực miền
Bắc Việt Nam để có thể bao gồm được tất cả các nguồn chấn động cả xa lẫn gần
có khả năng gây ra nguy hiểm địa chấn cho thành phố. Trên hình 3.1 minh họa
bản đồ các đới đứt gãy cấp I-II và chấn tâm động đất khu vực miền Bắc Việt
Nam và lân cận, được thành lập trên cơ sở tổng hợp những kiến thức cập nhật về
hệ thống các đứt gãy sinh chấn và dữ liệu động đất quan trắc được cập nhật tới
hết năm 2019.
Hình 3. 1. Bản đồ các đới đứt gãy sinh chấn và chấn tâm động đất khu vực miền
Bắc Việt Nam và lân cận.
3.1. Các đới đứt gãy hoạt động
Trên lãnh thổ Việt Nam, đới đứt gãy Sông Hồng được đặc trưng bởi đới
biến chất dãy núi Con Voi, kéo dài từ biên giới Việt - Trung tới Việt Trì, được
coi như là “tuyến trục” của đới, bề rộng chừng 10 km và được giới hạn bởi đứt
gãy Sông Hồng và đứt gãy Sông Chảy. Theo các tài liệu địa vật lý và địa chất thì
đứt gãy Sông Hồng là đứt gãy sâu xuyên Moho, có chiều sâu trung bình đạt trên
30 km [96]. Mặt trượt của đứt gãy cắm về đông bắc với góc cắm 78 - 80o và trong
giai đoạn hiện đại là trượt bằng thuận hoặc thuận phải.
Đứt gãy Sông Chảy cũng được xác định là một đứt gãy sâu xuyên vỏ, chạy
dọc theo rìa phía ĐB của đới biến chất dãy núi Con Voi, kéo dài thành một đường
thẳng từ Lào Cai tới Việt Trì, với chiều dài hàng trăm km. Phương trượt của đới
đứt gãy nghiêng về phía đông bắc với góc cắm rất khác nhau, từ 64-800.
Nằm về phía đông bắc và chạy gần như song song với đứt gãy Sông Chảy
là đứt gãy Sông Lô. Đứt gãy này xuất hiện từ Paleozoi sớm và có lịch sử phát
11
triển lâu dài, thể hiện chủ yếu như một đứt gãy thuận cắm về tây nam với góc
cắm 70-800.
3.2. Tính địa chấn khu vực thành phố Hà Nội và lân cận
Từ hình 3.1, có thể thấy mặc dù không ghi nhận được động đất mạnh, hoạt
động các động đất có độ lớn trung bình vẫn diễn ra với tần suất cao tại đới ĐGSH.
Trong khoảng thời gian từ năm 1903 đến 2019, trong phạm vi đới ĐGSH nằm
trên lãnh thổ Việt Nam đã có tới 36 trận động đất có độ lớn từ 4.0 trở lên được
ghi nhận bằng máy. Ngoài ra cũng phải kể đến các trận động đất lịch sử đã từng
xảy ra vào các năm 1277, 1278, 1285 và được ghi lại trong sử sách của các triều
vua trị vì ở các thời kỳ này. Trận thứ nhất làm đất nứt 7 trượng, trận thứ hai là
một chuỗi ba kích động mạnh xảy ra trong vòng một ngày, còn trận thứ ba đã làm
bia đá trong chùa Báo Thiên (xây năm 1057 ở địa điểm Nhà Thờ Lớn hiện nay)
gãy làm đôi, và làm núi Cao sơn bị lở. Có thể đánh giá cấp độ mạnh của các trận
động đất này tương đương với cấp 7, cấp 7 và cấp 7-8.
3.3. Khảo sát quy luật tỷ lệ đồng dạng động đất khu vực miền Bắc Việt
Nam và lân cận.
Kết quả khảo sát thời gian chờ giữa hai trận động đất liên và quy luật tỷ lệ
đồng dạng thống nhất động đất cho miền Bắc Việt Nam được thực hiện cho cả
hai trường hợp tính địa chấn dài hạn và ngắn hạn. Kết quả phân tích cũng cho
thấy, trong trường hợp tính địa chấn dài hạn, có thể thấy sự phù hợp tốt của các
trận động đất có cận dưới độ lớn từ 4.0 trở lên khi ngoài đường cong xây dựng
cho cận dưới bằng 3, cả ba đường cong còn lại xây dựng cho các tập dữ liệu với
cận dưới độ lớn lần lượt bằng 4, 4.5 và 5 đều nằm trùng khớp lên nhau. Trong
trường hợp tính địa chấn ngắn hạn, các đường cong xây dựng cho các giá trị cận
dưới lần lượt bằng 3 và 4 cũng nằm khá trùng lên nhau với điểm xoắn nằm tại vị
trí x=1. Các yếu tố trên đây có thể làm sáng tỏ hơn cho việc lựa chọn giá trị độ
lớn tiêu biểu Mmin = 4.0 cho Miền Bắc, Việt Nam trong các nghiên cứu tiếp theo.
CHƯƠNG 4: ĐÁNH GIÁ ĐỘ NGUY HIỂM ĐỘNG ĐẤT CHO KHU VỰC
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Trong Chương này sẽ trình bày đánh giá độ nguy hiểm động đất cho khu
vực thành phố Hà Nội theo hai cách tiếp cận là xác suất và tất định. Quy trình
đánh giá độ nguy hiểm động đất được thực hiện gồm các bước sau:
1) Xác định các vùng nguồn chấn động khu vực thành phố Hà Nội và lân cận;
2) Ước lượng các tham số nguy hiểm động đất cho từng vùng nguồn chấn
động;
3) Thiết lập quy luật tắt dần chấn động cho khu vực nghiên cứu;
4) Tính toán và thành lập bản đồ độ nguy hiểm động đất.
4.1. Mô hình nguồn chấn động
Mô hình các vùng nguồn chấn động cho khu vực thành phố Hà Nội và lân
cận được xác định trên cơ sở nghiên cứu các qui luật hoạt động động đất, cụ thể
là mối liên quan giữa động đất và các yếu tố địa chất kiến tạo và địa động lực.
Đầu tiên, ranh giới các vùng phát sinh động đất mạnh được vạch ra dọc theo các
12
đứt gãy hoạt động liên quan theo nguyên tắc sau: các vùng phát sinh động đất
được coi là tổng cộng các vùng cực động của tất cả các trận động đất cực đại có
khả năng xảy ra trong mỗi đới phá hủy kiến tạo. Tổng cộng có 18 vùng nguồn
được coi là có ảnh hưởng chấn động tới thành phố Hà Nội được xác định theo
cách tiếp cận này (Hình 4.1):
1) Sơn La
2) Sông Mã-Pumaytun
3) Phong Thổ - Thanh
Sơn
4) Mường La – Bắc Yên
5) Sông Đà
6) Lai Châu-Điện Biên
7) Mường Tè
8) Mường Nhé
9) Sông Hiếu
10) Sông Hồng-Sông Chảy
11) Cao Bằng-Tiên Yên
12) Đông Bắc trũng Hà Nội
13) Sông Lô
14) Thái Nguyên-Bắc Cạn
15) Văn Sơn-Hà Giang
16) Đông Triều-Uông Bí
17) Cẩm Phả
18) Quốc Lộ 13a
Hình 4. 1. Bản đồ các vùng nguồn phát sinh động đất khu vực thành phố Hà
Nội và lân cận.
4.2. Ước lượng các tham số nguy hiểm động đất cho các vùng nguồn chấn động
Đã có nhiều tranh luận về việc xác định giá trị độ lớn cận dưới M0 trong
nghiên cứu đánh giá nguy hiểm động đất ở Việt Nam, các giá trị M0 thường được
sử dụng là 4.0 và 4.5. Việc lựa chọn sử dụng các giá trị này sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến kết quả đánh giá độ nguy hiểm động đất. Trong nghiên cứu này, giá trị
M0 = 4.0 được lựa chọn trên cơ sở khảo sát quy luật tỷ lệ đồng dạng động đất.
Để phục vụ tính toán và vẽ bản đồ độ nguy hiểm động đất, các tham số sau
đây được ước lượng cho mỗi vùng nguồn:
Độ lớn động đất cực đại dự báo Mmax;
13
Các tham số a và b trong biểu thức tương quan giữa độ lớn và tần suất
động đất (biểu thức Gutenberg - Richter) và các đại lượng suy diễn
tương ứng λ và β.
Chu kỳ lặp lại dự báo T(M) của các động đất mạnh trong vùng.
Các phương pháp hợp lý cực đại và cực trị được áp dụng đồng thời để ước
lượng các tham số nguy hiểm động đất. Cơ sở lý thuyết của hai phương pháp này
đã được mô tả chi tiết trong nhiều công trình trước đây. Các nghiên cứu trước
đây cho thấy phương pháp hợp lý cực đại cho các kết quả ước lượng tham số
nguy hiểm động đất xác thực hơn so với phương pháp cực trị, đặc biệt là các giá
trị Mmax. Vì vậy, trong nghiên cứu này, phương pháp hợp lý cực đại được ưu tiên
áp dụng cho các vùng nguồn chấn động.
4.3. Mô hình tắt dần chấn động
Một trong những thành phần quan trọng nhất trong đánh giá độ nguy hiểm
động đất đó là lựa chọn mô hình tắt dần chấn động cho khu vực nghiên cứu. Việc
lựa chọn mô hình chấn động dựa trên các yếu tố như địa chấn kiến tạo khu vực
nghiên cứu, độ lớn động đất, đặc điểm mô hình vận tốc và nhiều yếu tố khác.
Năm 2018, trên cơ sở nghiên cứu của nhóm tác giả Lê Quang Khôi và cộng
sự về việc lựa chọn các mô hình tắt dần chấn động phù hợp nhất cho Việt Nam,
kết quả tính toán của 25 mô hình tắt dần chấn động đã được công bố trên thế giới
được so sánh với các băng ghi địa chấn dải rộng của 39 trận động đất ghi nhận
được trên lãnh thổ Việt Nam. Do thành phố Hà Nội nằm trên ranh giới giữa hai
vùng địa chấn kiến tạo Đông Bắc và Tây Bắc Việt Nam, trong nghiên cứu này,
hai biểu thức tắt dần chấn động của Campbell & Bozorgnia (2008) và Akkar &
cộng sự (2014) được lựa chọn để áp dụng cho việc tính toán và thành lập tập bản
đồ độ nguy hiểm động đất cho thành phố Hà Nội.
4.4. Thành lập bản đồ độ nguy hiểm động đất khu vực thành phố Hà Nội
4.4.1 Đánh giá xác suất độ nguy hiểm động đất khu vực thành phố Hà Nội
Các kết quả đánh giá xác suất độ nguy hiểm động đất cho thành phố Hà
Nội được thể hiện dưới dạng tập bản đồ độ nguy hiểm động đất. Trên các hình
4.2 và 4.3 minh họa tập bản đồ xác suất nguy hiểm động đất thành lập cho khu
vực thành phố Hà Nội, biểu thị phân bố không gian của hai đại lượng SA với xác
suất bị vượt quá lần lượt bằng 10% và 2% trong vòng 50 năm trên nền đá loại A
theo TCVN 9386:2012.
Từ các bản đồ kết quả có thể đưa ra một số nhận định sau đây:
1) Trên các bản đồ nguy hiểm động đất thành lập cho thành phố Hà Nội, phân
bố không gian của của các đại lượng SA tập trung tại các đới kéo dài theo
phương TB-ĐN, với các giá trị rung động nền lớn nhất nằm trùng lên vị trí
của ba đứt gãy Sông Hồng, Sông Chảy và Sông Lô chạy qua địa bàn thành
phố Hà Nội
2) Trên toàn thành phố Hà Nội, giá trị SA tại chu kỳ rung động 0.3 s nằm
trong khoảng 0.09-0.14 g và 0.16-0.32 g ứng với các chu kỳ lặp lại lần lượt
14
bằng 475 và 2475 năm. Tất cả các quận nội thành có rung động nền mạnh
nhất đạt tới cấp VIII tại các chu kỳ lặp lại 475 năm. Đối với chu kỳ lặp lại
lần lượt bằng 2475, các quận nội thành có rung động nền mạnh nhất bao
gồm Cầu Giấy, Thanh Xuân và Hà Đông và một phần của các quận Ba
Đình, Đống Đa và Hoàng Mai. Cường độ chấn động trên bề mặt tại các
quận này đạt tới cấp X theo thang MSK-64.
3) Trên toàn thành phố Hà Nội, giá trị SA tại chu kỳ rung động 1.0 s nằm
trong khoảng 0.03-0.05 g và 0.05-0.08 g ứng với các chu kỳ lặp lại lần lượt
bằng 475 và 2475 năm. Như vậy, cường độ chấn động trên bề mặt trên toàn
thành phố chỉ đạt tới cấp VI và VII, theo thang MSK-64. Các quận nội
thành có rung động nền mạnh nhất bao gồm Tây Hồ, Hoàn Kiếm, Ba Đình,
Cầu Giấy, Đống Đa, Hai Bà Trưng, Thanh Xuân và Hà Đông. Cường độ
chấn động trên bề mặt tại các quận này đạt tới cấp VI tại các chu kỳ lặp lại
bằng 475 năm, và đạt tới cấp VII tại các chu kỳ lặp lại bằng 2,475 năm.
Hình 4. 2. Bản đồ nguy hiểm động đất thành phố Hà Nội thể hiện phân bố gia
tốc phổ nền (SA) tại chu kỳ 0.3s với chu kỳ lặp lại 475 năm và 2475.
Hình 4. 3. Bản đồ nguy hiểm động đất thành phố Hà Nội thể hiện phân bố gia
tốc phổ nền (SA) tại chu kỳ 1.0s với chu kỳ lặp lại 475 năm và 2475 năm.
15
4.4.2 Đánh giá tất định độ nguy hiểm động đất khu vực thành phố Hà Nội
4.4.2.1 Kịch bản động đất
Động đất kịch bản là động đất được dự báo sẽ xảy ra tại khu vực nghiên
cứu, với các thông số ban đầu được xác định trước. Các động đất kịch bản được
xây dựng cho thành phố Hà Nội dựa trên các giả thiết sau:
1) Động đất được phát sinh trên một trong những đứt gẫy kiến tạo có khả
năng sinh chấn chạy cắt ngang qua hoặc gần địa bàn thành phố.
2) Chấn tâm động đất kịch bản được lấy tại một điểm nằm trên đứt gẫy phát
sinh ra nó và có khoảng cách gần nhất tới địa phận thành phố.
3) Ngoài tọa độ chấn tâm, các tham số khác của động đất kịch bản được
xác định theo các tham số hình học và địa động lực của chấn đoạn đứt gẫy phá
huỷ phát sinh ra nó (chấn tiêu động đất kịch bản) theo các nguyên tắc của mô
hình nguồn đứt gẫy đã mô tả ở trên.
Trong nghiên cứu này, kịch bản động đất được xây dựng với giả thiết là
chúng được phát sinh trên các đứt gẫy Sông Hồng.
4.4.2.2 Tính toán khả năng rung động nền
Trên các Hình 4.4 minh họa bản đồ rung động nền biểu thị phân bố không
gian của các giá trị gia tốc nền cực đại (PGA) do động đất kịch bản Sông Hồng
gây ra tại các Hoàn Kiếm, Ba Đình, Hai Bà Trưng, Đống Đa và Thanh Xuân,
thành phố Hà Nội. Bản đồ cho thấy các giá trị PGA phản ánh rõ rệt sự lan truyền
chấn động theo không gian với độ lớn cực đại tại chấn tâm và giảm dần khi ra xa
chấn tâm. Kịch bản Sông Hồng gây ra chấn động có gia tốc nền cực đại (PGA)
dao động trong khoảng từ 0,06g tới 0,18g tương đương với các chấn động địa
phương có thể đạt tới cấp VI-VIII theo thang MSK-64.
Hình 4. 4. Phân bố giá trị rung động nền (PGA) tại khu vực nghiên cứu do động
đất kịch bản sông Hồng.
16
4.5. Hiệu chỉnh giá trị khuếch đại rung động nền
4.5.1 Hiệu chỉnh trực tiếp giá trị khuếch đại rung động nền
Để phục vụ việc hiệu chỉnh trực tiếp giá trị khuếch đại rung động nền, sơ
đồ Vs30 cho khu vực năm quận nội thành Hà Nội được xây dựng trên cơ sở 191
điểm đo địa chấn thăm dò và 181 điểm đo vi địa chấn.
Tại khu vực năm quận, giá trị SA 0.3s có tính đến hiệu ứng nền nằm trong
khoảng 0.156-0.178 g ứng với chu kỳ lặp lại 475 năm, tương đương VIII theo
thang MSK-64. Về phân bố không gian, giá trị SA 0.3s có xu hướng giảm từ
hướng Tây sang Đông, cụ thể tại khu vực quận Thanh Xuân có giá trị SA 0.3s
lớn nhất 0.178g và nhỏ nhất tại khu vực quận Hoàn Kiếm 0.156g. Điều này hoàn
toàn phù hợp do đớt đứt gãy Sông Hồng – Sông Chảy nằm bên phía Tây Bắc của
năm quận và quận Thanh Xuân gần với nguồn hơn so với các quận còn lại. Bên
cạnh đó, giá trị SA cũng phản ánh theo sự phân bố của giá trị Vs30 điều này được
cũng thể hiện khá rõ tại khu vực quận Thanh Xuân.
Trong khi đó, giá trị SA 1.0s có tính đến hiệu ứng nền nằm trong khoảng
0.081-0.091 g ứng với chu kỳ lặp lại 475 năm, tương đương VII theo thang MSK-
64. Về phân bố không gian, cũng giống như trường hợp SA 0.3s, giá trị SA 0.1s
lớn nhất tại khu vực quận Thanh Xuân có giá trị 0.091g. Tuy nhiên, giá trị nhỏ
nhất lại nằm ở khu vực phía Tây Bắc quận Ba Đình và Đống Đa là 0.081g, điều
này hoàn toàn phù hợp với sơ đồ phân bố giá trị Vs30, tại khu vực này có giá trị
Vs30
từ 180 – 360 (m/s).
4.5.2 Hiệu chỉnh gián tiếp giá trị khuếch đại rung động nền
Để phục vụ việc đánh giá rủi ro động đất, gia tốc phổ nền chu kỳ ngắn
(SAS, T=0,3s) được thành lập từ các bản đồ PGA, đồng thời các bản đồ gia tốc
phổ nền chu kỳ dài (SAL, T=1,0s) được thành lập từ các bản đồ gia tốc phổ nền
chu kỳ ngắn (SAS) sử dụng các hệ số phổ gia tốc phản ứng cho nền đá (nền loại
A).
Để có được bức tranh hiện thực về rung động nền tại khu vực nghiên cứu,
các giá trị rung động nền cần được hiệu chỉnh theo sơ đồ phân loại nền theo
TCVN 9386:2012. Việc phân loại nền đất cho thành phố Hà Nội được thực hiện
trên cơ sở ban đầu là bản đồ phân khu địa chất công trình Hà Nội tỷ lệ 1:25000,
kết hợp với các giá trị Vs30 xác định được tại 191 điểm đo địa chấn thăm dò và
181 điểm đo vi địa chấn trên địa bàn thành phố cũng được sử dụng để phân loại
nền. Ngoài ra, một số kết quả về phân loại nền khu vực nội thành Hà Nội theo
tiêu chuẩn của Mỹ cho khu vực Hà Nội cũng được tham khảo.
Về phân bố không gian, giá trị SA 0.3s và SA 1.0s có xu hướng giảm từ
Tây sang Đông với giá trị SA cực đại nằm ở khu vực phía Tây quận Thanh Xuân
và cực tiểu tại khu vực phía Đông quận Hoàn Kiếm. Các giá trị SA 0.3s lớn nhất
tại quận Thanh Xuân là 0.256g tương ứng với cường độ chấn động cấp IX và nhỏ
17
nhất tại khu vực quận Hoàn Kiếm là 0.18g tương ứng với cường độ chấn động
cấp VIII theo thang MSK-64. Cũng giống như trường hợp SA 0.3s, các giá trị SA
1.0s lớn nhất tại khu vực phía Tây quận Thanh Xuân 0.107g và có giá trị nhỏ
nhất tại quận Hoàn Kiếm 0.067g, tương ứng với cường độ chấn động cấp VII
theo thang MSK-64. Các kết quả nhận được hoàn toàn phù hợp, với việc kịch bản
động đất xây dựng trên đới đứt gãy Sông Hồng nằm bên phía Tây của năm quận
và quận Thanh Xuân có vị trí gần với nguồn hơn so với các quận còn lại. Ngoài
ra giá trị SA 0.3s và SA 1.0s cũng phản ánh ảnh hưởng của hiệu ứng khuếch đại
nền khá rõ nét tại khu vực quận Ba Đình. Các kết quả SA 0.3s và SA 1.0s sẽ làm
dữ liệu đầu vào để tính toán thiệt hại nhà cửa và người.
CHƯƠNG 5: ĐÁNH GIÁ RỦI RO ĐỘNG ĐẤT CHO KHU VỰC ĐÔ THỊ
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Trong Chương này trình bày kết quả đánh giá rủi ro động đất khu vực đô
thị Hà Nội theo hai cách tiếp cận PSHA và DSHA bằng chương trình ArcRisk.
Các yếu tố được xem xét đánh giá rủi ro động đất là nhà cửa và người.
5.1. Kết quả đánh giá thiệt hại nhà cửa tại khu vực đô thị thành phố Hà
Nội
Quy trình tính toán và biên tập bản đồ được xây dựng cho phép thực hiện
tự động và các kết quả được hiển thị trên giao diện của phần mềm Arcview GIS.
Tập bản đồ rủi ro động đất được xây dựng với các lớp thông tin thành phần biểu
thị xác suất phá huỷ nhà cửa tại các quận Hoàn Kiếm, Ba Đình, Hai Bà Trưng,
Đống Đa và Thanh Xuân ở bốn mức độ phá huỷ: phá huỷ nhẹ, phá huỷ trung
bình, phá huỷ nặng và phá huỷ hoàn toàn.
5.1.1. Kết quả đánh thiệt hại nhà cửa bằng phương xác suất
Các kết quả đánh giá xác suất phá huỷ nhà cửa ở các mức độ khác nhau cho
5 quận được minh hoạ trên hình 5.1. Từ các kết quả nhận được, có thể rút ra một
vài nhận xét như sau:
Về mặt không gian, xác suất nhà cửa bị phá huỷ nhà cửa trung bình theo
các trạng thái nhẹ, trung bình, nặng và hoàn toàn tại 5 quận nội thành là khá tương
đồng. Mức nhẹ dao động từ 13.96-14.65%; mức trung bình từ 6.22-8.10%, mức
nặng 1.28 – 1.9% và mức hoàn toàn 0.07- 0.15%. Các giá trị xác suất minh hoạ
ở đây cũng có thể được tính như là số ngôi nhà bị ảnh hưởng do động đất trong
tổng số các ngôi nhà nằm trong khu vực nghiên cứu.
18
a)
b)
c)
d)
Hình 5. 1. Sơ đồ dự báo thiệt hại nhà cửa mức theo mức độ khác nhau a) mức
nhẹ, b) mức trung bình, c) mức nặng, d) mức hoàn toàn.
5.1.2. Kết quả đánh thiệt hại nhà cửa bằng phương pháp tất định
Kết quả đánh giá xác suất phá huỷ nhà cửa tại các trạng thái khác nhau ứng
với kịch bản động đất giả định trên đới đứt gãy sông Hồng được minh hoạ trên
hình 5.2. Về mặt không gian, một số phường nằm khu vực phía Tây các quận Ba
Đình, Đống Đa và Thanh Xuân bị xác suất thiệt hại cao hơn so với các khu vực
còn lại, điều này khá phù hợp do kịch b
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_nghien_cuu_danh_gia_rui_ro_dong_dat_khu_vuc.pdf